Hai Mươi Lăm Năm Xây Dựng Cộng Đồng Chicago.

 

Vài lời tâm sự: Khi viết trang hồi ức Hai Mươi Lăm Năm Xây Dựng Cộng Đồng Chicago, người viết cảm thấy ái ngại vô cùng vì không thể loại bỏ cái tôi đáng ghét như người Pháp đã nói (Le moi est haisable). Nhưng rồi muốn lưu lại bút tích cho con cháu sau nầy nhận thức được rằng: mọi sự ở trên đời nầy không phải từ trời rơi xuống mà phải từ ý chí và sự chịu đựng của chính mình. Muốn được như vậy ta không thể chờ người ta làm rồi mình hưởng hay mới tiếp tay, mà mình phải xăn tay làm để khởi sự. Làm để mà làm,  không phải để mình được hưởng kết quả, mà phải cho ích lợi chung.

 

Bài viết nầy nếu có thiếu sót, xin quý vị bổ sung; giả như tôi lỡ quên ghi công đức một vị nào đã tích cực đóng góp cho sự thịnh vượng của cộng đồng Việt Chicago, xin quý vị ấy niệm tình tha thứ. Bài viết nầy đúng ra phải gọi là Hồi ức của một người tỵ nạn Việt Nam tại Chicago trong 25 Năm tha hương thì đúng hơn. Là một người tỵ nạn Việt Nam, dĩ nhiên lập trường chính trị phải dứt khoát, phải là một người quốc gia chân chính. Nội dung bài viết phải nói là hoàn toàn quốc gia. Mọi nhân vật hay  thực thể,  biến cố được nêu lên vì tính cách thông tin trung thực.

 

Có thể nói  là người đầu tiên trong đợt tỵ nạn 1975 đến Chicago không sớm hơn cuối tháng sáu. Đa số đợt nầy do hội Công Giáo (USCC) bảo trợ. Và vì chưa chẩn bị cho nên khi xuất trại mọi người tỵ nạn phải qua một trại tỵ nạn thứ hai sau trại Ft Chaffee hay trại Pendleton là Trường Niles trên Touhy và Harlem. Những vị khai mạc trại nầy hiện còn tại Chicago như gia đình ông Nguyễn Văn Minh, ông Ngô Quang Minh, Ông Trần Vũ Bản, Ông Hoàng Xuân Nghị v.v.. Sau gần một tháng sống trong trại tỵ nạn nầy (được tự do ra vô không bị giam như hai trại kia) thì được xuất trại theo người bảo trợ.

 

Cuộc sống chung đụng với người bảo trợ có đủ chuyện khóc cười. Điển hình là ngày ngày người bảo trợ đi làm trưa không về, ít hôm đầu,  người tỵ nạn cho là bị bỏ đói cho tới tối mới được ăn. Sự thật thì vì ngôn ngữ bất đồng cho nên tỵ nạn không dám lấy đồ ăn trong tủ lạnh.

 

Chicago dầu sao cũng là thành phố lớn cho nên những khúc mắc hay khó khăn được các hội bảo trợ giải quyết ngay. Chứ như những tỵ nạn được đưa về những nơi khỉ ho cò gáy thì càng khốn nạn hơn nhiều. Người viết nầy đã là một trong những tỵ nạn bất hạnh đó. Tuy gia đình chúng tôi không bị đi vắt sữa bò lương 25 Cents một giờ, làm việc mút chỉ, từ bét mắt cho đến tờ mờ tối và bị cắt đứt hết với mọi liên lạc với thế giới bên ngoài,  nhưng cũng đã từng bị đuổi về trại tỵ nạn vì không chịu chuyển đạo.

 

Khổ hơn thế nữa chúng tôi được đưa vào sống trong rừng, trên một đỉnh núi cao, để cắt tỉa một rừng thông kỹ nghệ khoảng một triệu cây. Chúng tôi được phát cho hai khẩu súng dài để tự kiếm lấy thực phẩm hàng ngày cũng như dự trữ cho mùa đông. Nhà ở không điện, không ga, không nước, mùa đông lấy tuyết hay đá mà nấu...

 

Vì cái rắc rối của sự đời như trên mà người viết nầy đầu năm 1976 phải tạ ơn người bảo trợ, quất ngựa truy phong, chạy đến Chicago tìm đất đậu. Nhà cửa chưa có nhưng cũng phải “bắt cái job thụt nhà xí ở Water Tower Place nhờ ông An cậu của Kim Xuyến giới thiệu” ngay ngày hôm sau để cho vợ con khỏi đói (thời nầy chưa biết welfare). Nhờ cái job nầy mà chúng tôi được quen biết thêm nhiều bạn bè mới.

 

Nhu Cầu Mưu Sinh. Từ  năm 1975 hội bảo trợ nhận của chính phủ liên bang một khoản tiền là $500 để lo định cư cho người tỵ nạn Đông Dương. Số tiền nầy không phải để trực tiếp đưa cho người tỵ nạn mà là để dùng vào việc điều hành để người tỵ nạn có cơm ăn và nhà ở cho đến khi kiếm được việc làm. Với số tiền cho mỗi đầu người nầy, hội bảo trợ nếu muốn có đủ tiền nuôi những người mới tới trong lúc chờ có việc làm mà không bị thâm thụt ngân quỹ, thì họ phải mướn nhân viên lo kiếm việc làm cho người tỵ nạn một cách cấp kỳ. Những công ty có nhiều người Việt đi làm như FelPro, SoLo Cup, Maintenance Services v.v.... Người tỵ nạn khi đã có job ở đâu thì mách nước cho người khác đến xin. Từ chỗ ân nghĩa, chòm xóm, cố tri hay cùng binh chủng mà những sinh hoạt có tính cách tương trợ đã xảy ra luân lưu hàng tuần để cùng nhau chén tạc chén thù, xẻ chia kinh nghiệm trả nợ áo cơm. Những nhóm điển hình là nhóm Potomac, nhóm Albany Park, nhóm Granville, nhóm Nhà thờ Kenmore, nhóm Rockwell, nhóm Ashland, nhóm độc thân trên đường Kenmore, nhóm Nhảy Dù v.v...

 

Nhu Cầu Bản Sắc: Vừa chớp mắt mà gần nửa năm trôi qua, lễ Giáng Sinh đã tới. Với cái lạnh buốt giá của mùa đông Chicago, với cái lạnh của  nhớ nhà nhớ quê hương, nhớ những kỷ niệm đẹp trong những ngày lễ lớn tại quê xưa. Những người tỵ nạn tiên khởi đã cùng nhau tổ chức Lễ Giáng Sinh đầu tiên. Nhờ một người bảo trợ giúp đỡ, cha xứ một nhà thờ Công Giáo ở Evanston đã đặc biệt làm lễ nửa đêm cho người tỵ nạn Việt Nam. Dù đây là một lễ nghi hoàn toàn tôn giáo thế mà những người tha hương đã tạo thành một sinh hoạt lại tràn đầy sắc thái tương trợ. Thật là cảm động và chí tình biết bao khi một nhóm tỵ nạn Việt Nam không phân biệt tôn giáo như ông Trần Vũ Bản, ông Trương Kha Quý, ông Trần Hữu Lợi, ông Hoàng Xuân Nghị v.v.. đã tự động hợp tác với nhau chở tre, chở gỗ,  giấy, sơn trên xe lửa Evanston đến nhà thờ để làm một hang đá nơi Chúa Giêsu sinh ra trong khó hèn 1975 năm trước đây.

 

Hang đá nầy đã lôi cuốn được sự chú ý của người bản địa nhất là giới truyền thông Hoa Kỳ.  Qua sự thành công của việc làm hang đá chung trong dịp Lễ Giáng Sinh, cũng cùng những vị đó, họ đã tổ chức một cái Tết cổ truyền Việt Nam tại nhà thờ St Thomas of Canterbury, đường Kenmore do L.M. Nguyễn Quốc Hải chủ tế. Đây là lần đầu tiên nghi lễ hương khói ông bà tổ tiên có hoa quả lễ vật, nhang trầm nghi ngút tỏa ra trong một nhà thờ Thiên Chúa giáo tại Mỹ.

Trước đây mỗi nhóm đã thường xuyên họp mặt nhau để hàn huyên, tâm sự chia xẻ những nỗi buồn đau chua xót trong những chuỗi ngày sống tha hương, và bây giờ tiếp theo vụ làm hang đá Mùa Giáng Sinh và Tết cổ truyền, người Việt tỵ nạn thấy rằng họ không thể xa lìa nhau được và Hội Người Việt tiên khởi được hình thành bởi các ông Trần Vũ Bản, Ngô quang Minh, ông Trần Hữu Lợi, Lê Gia Thầm, Hoàng Trọng Biểu, Nguyễn Hòa Quang và Hoàng Sĩ Bình, Nguyễn Cường v.v..... Sự tụ tập với nhau hàng tuần cũng như việc hình thành Hội Người Việt chính là chỉ dấu của tình bà con xa mà láng giềng gần vì những nhu cầu thiết yếu mà chúng ta không thể thiếu được sau đây:

 

Nhu Cầu Tôn Giáo: Hoa kỳ tuy theo một đời sống cởi mở song dân chúng lại rất sùng đạo. Có lẽ vì đời sống vật chất quá thừa mứa cho nên con người mới cảm thấy rằng: con người không phải chỉ sống bằng phương tiện vật chất mà còn phải nhờ đến giá trị tinh thần. Người nào đi ngược lại điều nầy sẽ cảm thấy đời vô vị và dễ mắc bệnh tâm thần. Qua việc người bảo trợ cố gắng chuyển đạo người tỵ nạn cho nên ai nấy đều lo sợ và cố gắng giữ cái gì mà mình đang có. Đây là một vấn đề tối quan yếu. Nhiều  nhóm nhỏ xúc tiến việc tu trì tầm đạo. Người công giáo và Hội Thánh Tin Lành được may mắn hơn, có sẵn nhà thờ địa phương đón tiếp, trong khi đó Phật giáo không có chỗ để nương thân cho nên trong những năm đầu luôn luôn cảm thấy thiếu thốn và thèm thuồng có được một ngôi chùa. Sau đây là những sinh hoạt liên quan đến tôn giáo của người Việt tỵ nạn:

 

a.         Phật Giáo: Một vài năm sau nhờ các phật tử có liên hệ với các sắc dân khác qua giao tiếp ở nơi làm việc, mà tìm ra được các chùa của Thái Lan ở South Side, của Nhật Bản ngay ở Uptown để đến thành tâm lễ Phật. Dù ngôn ngữ và kinh kệ khác nhau nhưng những chùa nầy cũng đã giải tỏa một phần nào vấn nạn về tôn giáo cho Phật tử tỵ nạn Việt Nam.

 

 Đi chùa mà lời kinh tiếng kệ là ngôn ngữ  của người dù sao cũng khó giúp ích cho việc tu tâm và hoằng pháp cho nên năm 1979 do các bạn hữu giới thiệu, cô Liên Dư  đã mời được thầy Thích Tịnh Từ , từ  Kansas lên thuyết pháp. Nhân dịp nầy, cô Liên Dư đã tham khảo với người viết về phương thức lập hội và xây chùa. Một buổi họp sơ khởi tại nhà ông Trần Vũ Bản, ở đường Sheridan với sự hiện diện của cô Liên Dư, ông Trần Vũ Bản, bà Nhung Johnson, ông Lâm Quang, ông Nguyễn Đức Nghĩa, ông Nguyễn Cầu Hải và chúng tôi v.v.....

 

Sau đó một ủy ban lâm thời lập hội Phật Giáo tại Illinois ra đời, và hội chính thức thành lập và tạo mãi được Chùa Quang Minh ở Rockwell vào vài năm sau. Chùa đầu tiên tọa lạc tại góc đường Wabansia và Rockwell, Chicago. Nhờ ông bà Nguyễn Xuân Hy, một gười công giáo,  giới thiệu đã tìm ra được ngôi nhà có đất rộng mà giá rất rẻ. Nhờ lòng thiết tha với Phật sự, phật tử xúm nhau kẻ công người của biến ngôi nhà ở thành chùa Quang Minh.

 

Công lớn nầy phải kể đến ông Trần Thao và ông Ngô Quang Minh. Thầy Minh Tràng trụ trì sau khi chùa khánh thành. Thành phần lãnh đạo Ban trị sự Hội Phật Giáo gồm có các ông Lâm Quang, Hội trưởng, ông Ngô Quang Minh, Tổng thư ký. Một năm sau thầy Minh Tràng đi học, Sư cụ Hộ Pháp Trương Văn Huấn trụ trì khoảng 3 năm thì thầy Thiện Quang từ trại tỵ nạn qua thay thế. Khi thầy Thiện Quang đi học thì Thầy Minh Huệ nhận trách nhiệm lo cho Phật tử  tại Chicago.

 

Chùa Quang Minh dù sao cũng quá nhỏ so với con số Phật tử quá lớn ở Chicago và vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Ban trị sự đã cho xổ số gây quỹ, lô độc đắc là một chiếc nhẫn kim cương lớn do chị Diệu Nghĩa cúng dường. Nhờ đó mà Hội đã tạo mãi được một vườn trẻ tại đường Damen gần Montrose mà lập chùa Quang Minh mới.

 

Chùa Phật Bảo ở DesPlaines được thành lập vào năm 1994 để đáp ứng nhu cầu Phật sự của người Việt ở ngoại ô. Đồng thời Bà Việt Hoa đã giúp lập thêm Chùa Chánh Giác trên đường Broadway và Chùa Quan Âm ở đường Carmen.

 

Mấy năm trước đây huynh trưởng Mai Lạc Hồng và một số đạo hữu hữu tâm đã mua được một ngôi nhà thờ bỏ hoang trên đường Winthrop mà lập nên Chùa Trúc Lâm. Khi bài nầy sắp sửa lên khuôn thì chúng tôi nhận được tin Chùa Trúc lâm đã tạo được nền móng mới tại khoảng 7000 N. Western vào ngày 30/6/2000. Sinh hoạt của các chùa đều có đông đảo Phật tử khắp thập phương về lễ Phật và nghe kinh mỗi Chúa Nhật nhất là các ngày lễ vía.

 

Thành phần lãnh đạo của Hội Phật giáo Illinois, trước khi Chùa Phật Bảo chính thức ra đời gồm có các ông Phạm Dự, nhiệm kỳ 1, ông Ngô Quang Minh, nhiệm kỳ 2, Tiến Sĩ Bửu Tập, Nhiệm kỳ 3. Khi chùa thành hình thì hội Phật giáo Illinois chính thức giải thể.

 

b.         Hội Thánh Tin Lành. Một số tín hữu thuộc hội thánh CMA cũng được giáo hội Tin Lành bản địa giúp đỡ trong việc thờ phượng Chúa tại Humboldt Park từ năm 1975 cho đến năm 1977 thì tạm ngưng. Thay thế vào đó thì Hội Thánh Baptist cưu mang và thường xuyên có lễ cầu nguyện tại Baptist Church tọa lạc tại góc đường SheridanWilson, có Mục Sư Năm chăn dắt, hai năm sau thì Mục Sư Thuận thay thế. Mục Sư Vân nối tiếp con đường Tông đồ từ tay Mục sư Thuận năm 1981 đây cũng chính là lúc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam trở về với danh xưng cũ là CMA.

 

Năm 1999 mục Sư Vĩnh ra trường và chăm lo tín hữu thuộc vùng West của Chicago. Trong suốt  10  năm chăn dắt các tín hữu trong Hội Thánh, Mục sư Vân đã tích cực đem tinh thần thánh kinh đến cho những người tỵ nạn Việt Nam bằng cách hăng say bảo trợ cũng như giúp đỡ họ qua những dịch vụ cần thiết như đưa đón đến những cơ quan mà mọi người tỵ nạn đều cần đến. Cho đến nay người đã bảo trợ trên 100 gia đình Việt Nam.

 

c. Tổ Tiên Chính Giáo. Một chức sắc của Tổ Tiên Chính Giáo Đà Lạt, đến định cư tại Chicago vào năm 1985 đã tạo được liên lạc với đạo hữu tại tư gia ở đường Eastwood để tiếp nhận cơ giáng của tổ tiên.

 

d. Công Giáo. Như đã nói ở trên Nhà Thờ Công Giáo St Thomas of Canterbury ở đường Kenmore lúc đầu có linh mục Nguyễn Quốc Hải được Tổng giáo phận đưa về làm linh hướng cho người công giáo tại Chicago. Thật ra trước đó thỉnh thoảng đã có linh mục Thừa hay L.M. Hàm từ giáo phận Joliet về làm lễ. Đến năm 1978 thì L.M. Hải đi học, giáo dân Chicago đã trở thành mồ côi, Cha John Keehan, phó xứ của St Thomas of Canterbury, học đọc tiếng Việt và cử hành thánh lễ bằng tiếng Việt cho giáo dân.

 

Thỉnh thoảng có L.M. Trần thuộc dòng Chúa Cứu Thế đến giảng lễ. L.M. Trịnh Thế Hùng là một giảng sư tại một Đại Chủng Viện ở Iowa thấy giáo dân Chicago thiếu kẻ chăn dắt đã hàng tuần, lái xe đi về 8 tiếng, qua Chicago làm lễ. Đến năm 1983 thì L.M. Hùng chính thức được Tổng Giáo Phận Chicago can thiệp đổi về Chicago và bổ nhiệm làm phó xứ tại St Thomas of Canterbury và giám đốc Trung Tâm Mục Vụ Người Tỵ Nạn Đông Dương.

 

Tuy bị trắc trở về một vị chủ chăn chính thức song những sinh hoạt của giáo dân Việt Nam ngoài những lễ nghi mang những nét đặc thù của Văn hóa Việt trong việc phụng vụ, những sinh hoạt có tính cách cộng đồng đã được Ban Chấp Hành cộng đoàn hỗ trợ hay đứng ra tổ chức để đáp ứng nhu cầu chung.

 

Hội Hướng Đạo Việt Nam do ông Võ Văn Huế và ông Nguyễn Văn Đức thành lập, đã từng là ngôi sao sáng trong hội Hướng Đạo Hoa Kỳ tại Illinois.

 

Ngoài ra trong sinh hoạt chung với cộng đồng Việt Nam, Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam đã tổ chức Trại Đuốc Thiêng hàng năm để hâm nóng tinh thần yêu quê hương trong những người trẻ.

 

Trong tinh thần Mẹ, ngôi vị cao quý nhất, dễ thương nhất trong mọi gia đình Việt Nam. giáo dân Việt Nam, đặc biệt tôn kính Bà Maria, Mẹ của Đức Kitô. Do đó hàng năm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam thường tổ chức trọng thể lễ kiệu trên đường phố Argyle, tạo được sự chú ý và kính phục và tham dự của cộng đoàn công giáo bản địa.

 

Trú ngụ tại nhà thờ Kenmore cũng vừa tròn 25 năm. Uptown luôn luôn là mái nhà ấm cúng của người tỵ nạn khốn cùng từ khắp nơi trên thế giới. Thánh đường bây giờ phải cưu mang thêm các sắc dân khác như, Haiti, Nigeria, Somalia, Nam Phi, Liberia, Kosovar, Bosnia cho nên các sinh hoạt thường xuyên của cộng đoàn công giáo Việt Nam gặp nhiều trở ngại về phương tiện và giờ giấc.

 

Linh mục quản nhiệm Trịnh thế Hùng đã đưa ra đề sách tạo mãi một khu đất rộng lớn để làm nơi phụng vụ cũng như làm trung tâm sinh hoạt cho cộng đồng Việt đại chúng. Vị trí mới của Thánh Đường và trung tâm sinh hoạt tọa lạc khoảng 5600 N. Western. Hy vọng một buổi lễ ra mắt cộng đồng sẽ được thực hiện trước Lễ Giáng Sinh năm nay.

 

Người già luôn luôn là mối lo quan trọng của mọi người. Trung Tâm Quê Nhà được giáo dân hằng tâm đóng góp hoặc ra sức gây quỹ mua được khoảng năm 1993. Căn nhà biệt lập được giáo dân tu sửa và lập thành trung tâm sinh hoạt của người già. Đặc biệt các cụ còn được dùng cơm nóng sốt và hợp khẩu vị vào mỗi buổi trưaThứ Tư. Bà Việt Hoa hàng tháng đã tặng 5 bao gạo cho chương trình cơm trưa nầy.

 

Có một điều mà chúng ta ít ai biết đến là cộng đoàn Việt Nam tại nhà thờ Kenmore (tiếng gọi thông dụng cho nhà thờ St Thomas of Canterbury) là trung tâm quan trọng phát xuất nhiều linh mục trẻ. Đến nay cộng đoàn công giáo đã bảo trợ và mở tay gần 20 tân linh mục.

 

e. Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo cũng có hoạt động nhưng người viết không có dịp tiếp xúc cho nên không viết được.

 

Nhu Cầu Kinh Tế. Trước năm 1978, chợ Việt chưa có, chỉ có tiệm Thái Plaza cung cấp thực phẩm gần với Việt Nam nhất. Mãi đến năm 1979 mới có tiệm Việt Hoa. Thấy người Việt mỗi ngày một thêm đông tại vùng trung Tây, ông Nguyễn Huy Hân đưa ra chương trình tương trợ, mua tận gốc để cung cấp nhu yếu phẩm cho người Việt với giá vốn. Chương trình ở Chicago do chúng tôi và ông Trần Vũ Bản đặc trách. Sau hai năm khổ cực chạy kho, phải ra tòa vì hàng xóm kiện, không có người khuân vác, chương trình phải ngưng với nhiều lỗ lã.

 

Nhu Cầu Xã Hội

Từ đợt tỵ nạn đầu tiên năm 1975, cả nước Mỹ chỉ có 132,000 người Việt và Cam bốt cùng Lào. Qua kinh nghiệm định cư tập trung người Cuba, thì nhóm dân tỵ nạn Cuba mãi mãi vẫn là người Cuba, giới chức Hoa kỳ cảm thấy cần tạo ngay tức khắc một Melting Pot (hòa nhập) cho nên đưa ra chính sách trải người tỵ nạn Đông dương đến từng mọi ngõ ngách trong lãnh địa Hoa kỳ để họ chóng trở thành người Mỹ hơn.

 

Chính sách nầy đã trở thành một đại nạn cho người dân Việt, và gia đình người viết nầy nếu không thoát ắt đã biến thành Tarzan trong một khu rừng ở Ohio, để tiếp tục chịu bao cảnh đớn đau chua xót. Ngày xuất trại tỵ nạn, chúng tôi đã trao cho nhau địa chỉ để liên lạc sau này.

 

Tôi còn nhớ Nữ ca sĩ Khánh Ly đã hát giã biệt đồng hương, hát để giã biệt nghệ thuật quê hương, nàng đã khóc sướt mướt. Có nghĩa là chúng tôi ai ai cũng nghĩ  rằng chúng tôi sẽ mất luôn cả nắng quê hương. Nhờ những địa chỉ đó mà chúng tôi bắt được liên lạc với nhau rồi tìm đến nhau, đùm bọc lẫn nhau. Cali nắng ấm đã trở thành trung tâm điểm của người Việt tìm đến với nhau. Chicago tuy hai mùa nóng lạnh nhưng cũng đã tập trung được hơn chục ngàn người tìm định cư.

 

Trong phần nhận định về nhu cầu bản sắc đã cho chúng ta thấy, người Việt Chicago tuy trong môi trường lạnh buốt da cắt thịt nhưng tình người lại ấm đậm vô cùng. Từ giai đoạn đầu hợp tác với nhau vì nhu cầu chung là cần nhau cho nên đã tạo được truyền thống đoàn kết và tương nhượng với nhau trong tình một bọc trăm con. Hội Người Việt đã được thành lập trong tinh thần đó. Ông Hoàng Sĩ Bình là vị chủ tịch tiên khởi và Nội quy của hội do luật sư  Phan tự Trọng  soạn thảo.

 

Năm sau, vì nghề nghiệp cả hai ông ông đã rời Chicago đi tiểu bang khác. Cũng như trong một trận chiến, người trước ngã gục thì người sau đứng lên xông pha vào trận rồi Ông Nguyễn Hòa Quang lãnh trách nhiệm lo cho hội được một thời gian ngắn thì ông Quang cũng rời bỏ Chicago đi Texas. Hai vị bạn quý của cộng Việt đồng tiên khởi tại Chicago là ông Richard Friedman giúp đỡ về mọi mặt cho hội được thành hình và bà Luật sư Sylvia Decker tự nguyện đóng vai cố vấn về pháp luật cũng như lo thủ tục lập hội với chính quyền Tiểu bang và soạn by-law theo luật định.

 

Hội hoạt động trong hoàn cảnh thiếu hụt nhưng luôn luôn cố gắng sinh hoạt thường xuyên. Hàng năm vẫn cố gắng tổ chức Tết chung, Lễ giỗ Tổ, Ngày Quốc Hận và Tết Nhi Đồng. Cái đẹp của Chicago là khi có sinh hoạt chung thì mọi người không kể thuộc đoàn thể nào đều đưa vai gánh hay chia xẻ trách nhiệm.   

 

Năm 1978 sau ba năm sống dưới chế độ Cộng Sản, người dân Việt đã không chịu nổi cảnh gông cùm, hà khắc và đói khát, hơn triệu người đã đổ xô ra biển đi tìm cái sống trong cái chết. Đảo Pulau Biđông với diện tích không đầy một cây số vuông đã cưu mang hơn 75,000 người tỵ nạn. Ngày 26/8/1978 ông Trần Vũ Bản và ông Phạm Ngọc Lâm (Chương Trình Anh Ngữ cho người Tỵ Nạn tại Truman College) cùng với chúng tôi đã tổ chức Ngày của Người Vượt Biển (The Boat People Day) có Ca Sĩ Châu Hà và Nhạc sĩ Văn Phụng trình diễn văn nghệ giúp gây quỹ mua chén bát và đũa tặng cho đồng hương mới tới. – Chục bát tượng trưng cho cơm no áo ấm và bó đũa tượng trưng cho tình đoàn kết. Đặc biệt trong dịp nầy bà Sylvia Decker cố vấn về pháp luật cho HNV từ ngày sơ sinh đã nhắc lại hình ảnh của người cha già Việt Nam trước khi chết đã cho con bẻ từng chiếc đũa và bó đũa để mong con cái yêu thương nhau.

 

Nhân ngày lễ Độc Lập của Hoa Kỳ, Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền Cho Người Đông Dương (The Committee for Indochinese Human Rights) được thành lập để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết về tỵ nạn, và chúng tôi được ủy thác trách nhiệm chủ tịch để tổ chức một buổi mít-tinh tại Clarendon Park với khoảng hơn 2000 người tham dự để yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ nhận thêm người Tỵ nạn (Empty The Camp Now). Với sự hỗ trợ và của các tổ chức như The Anti-Defamation League of B’nai Brith, The Emergency Task-force for Indochinese Refugee, The National Conference Christians and Jews và The Indochinese Communities, Chicago.

 

Để khơi động vào tâm não của người bản xứ, ủy ban tổ chức đã lấy tên là: “Interfaith Prayer Service for Indochinese Human Rights”. Kết quả Hoa kỳ đã nhận thêm 7,000 người một tháng nâng tổng số 144,000 một năm. Dĩ nhiên không phải chỉ do ảnh hưởng của cuộc mít-tinh trên của Chicago, mà là của toàn thể Việt Mỹ khắp toàn quốc. Phải nói đóng góp lớn lao nhất là của ông Phạm Ngọc Lâm và ông Trần Văn Dương đã bắt được ông David Block và Rabbi Yetsin (thầy cả thượng tế của Do Thái Giáo). Hai ông nầy đã vận động được trên 40 hội đoàn Do Thái đặc biệt là hội Anti-Defamine of B’nai Brith bảo trợ hoặc ủng hộ đường lối của tổ chức.

 

Trong khí thế thừa thắng xông lên và để nhắc nhở dư luận Hoa kỳ, vấn đề nhân quyền Việt Nam vẫn còn là một đề tài nóng sốt, Ủy ban quyết định tổ chức ngày: Chicago Declaration on Indochinese Refugees” tại Midland Hotel ngày 8-8-1979, mà thuyết trình viên danh dự là Thống Đốc của Iowa (Governor Ray of Iowa) và toàn thể các hội đoàn đã cọng tác với UBTDCNQCNĐ quan tâm đến tình hình tỵ nạn tại Đông Dương. Đây là một đại hội có chiều sâu về chính trị chống cộng.

 

Khoảng nửa tháng trước ngày đại hội, chúng tôi bắt được tin Hà Văn Lâu, đại sứ của chính quyền Hà Nội tại Liên Hiệp Quốc sẽ đến Chicago, nói chuyện với giới thương gia Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 7 1979 tại Pick Congress Hotel trên đường Michigan Chicago với đề tài: Việt Nam Ngày Hôm Nay và Việt Nam Ngày Mai, chúng tôi liền liên lạc với 48 hội đoàn hỗ trợ Ủy Ban hôm Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, tổ chức một buổi hội thảo gọi là State-wide Indochinese Conference on Political Realities in Indochina Today, cùng một đề tài và cũng cùng tại Pick Congress Hotel.

 

Để cho buổi hội thảo hào hứng và có ý nghĩa, ông Phạm Ngọc Lâm đã mời được thầy cũ là cụ Nguyễn Ngọc Huy, người đã từng là trưởng phái đoàn của VNCH trong Hội Nghị Balê năm 1972, Hà Văn Lâu trưởng phái đoàn của phía CS Hà Nội. Phải nói trong 25 na8m sinh hoạt với cộng đồng tại Chicago chúng tôi chưa bao giờ thấy cộng đồng nhỏ bé Việt Nam chúng ta lại có khí thế hào hùng mãnh liệt đến như vậy.

 

Chỉ trong vòng chưa đầy một tuần lễ sau ngày họp tại tư gia ông Trần Hữu Lợi, không có bích chương, không báo chí mà có đến 3000 người tập trung tại công viên trước American Congress Hotel. Họ đến vì tinh thần tự nguyện. Họ đến vì bà con một bọc. Họ đến vì muốn trình bầy với thế giới dã tâm của Hà Nội. Đoàn biểu tình với cờ vàng ba sọc đỏ và biểu ngữ dơ cao, yêu cầu Hà nội thả chồng con của dân Việt, hiện đang bị gông cùm tủi nhục ở tại các trại tập trung cải tạo. Trước khí thế rực lửa đấu tranh Hà Văn Lâu đã trốn không dám tới địa điểm thuyết trình.

 

Viết đến đây chúng tôi nhớ vào khoảng mùa đông năm 1976, nhóm Nhà thờ Kenmore được tin tiến sĩ Lê Văn Hóa (Dr Levan), tổ chức một buổi chiếu phim tuyên truyền cho chính quyền Hà Nội sau chuyến thăm Việt Nam của ông ta, tại một trung tâm sinh viên quốc tế ở South Side. Lúc nầy chưa có mấy người Việt ở Chicago cho nên chỉ có mươi gia đình kéo nhau đi chống phá. Chúng tôi không nhớ hết những người có mặt. 

 

Phe ta ta gồm có ông bà Nguyễn Hữu Tùng, ông bà Đinh Tiến Vinh, nhóm Ashland, một số nữa mà chúng tôi không nhớ hết tên, và chúng tôi đã ngồi kín cả hội trường. Bà Cụ Vượng là người hăng nhất trong đám. Tuy trong điều kiện bất thần và ít ỏi nhưng cũng đã làm cho TS Levan rút vào bóng tối sau khi cố gắng cho chiếu phim ca ngợi chế độ Hà nội thêm một lần nữa vào năm 1978 bị tín hữu công giáo tại nhà thờ Kenmore do L.M. Nguyễn Quốc Hải hướng dẫn đi biểu tình chống đỡ.

 

Từ ngày dân ta đến Chicago nhiều, qua đợt thuyền nhân. Sinh hoạt chính trị cũng như xã hội và tôn giáo trở nên đa dạng và thường xuyên hơn. Nhiều hội đoàn đã thành lập để đáp ứng nhu cầu của từng nhóm. Hội Hải Quân ra đời, Hội Không Quân có Đêm Không Gian. Nhóm Vovinam Việt Võ Đạo do ông Phạm Văn Bảo (1976) đứng ra mở lớp dạy thanh thiếu niên Việt Nam tại Chicago. Nhiều nhóm Thái Cực Đạo Việt Nam cũng hoạt động rất tích cực.

 

Hội Nghĩa Sinh của ông Nguyễn Trung Hiếu, bây giờ là TS Nguyễn Trung Hiếu cũng ra mắt bà con tại khu Rockwell. Khoảng cuối năm 1980 đầu năm 1981, các hội tương trợ như Mân Quang, Mân Thái của anh em Đà Nẵng ra đời.

 

Vì những nỗi khổ đau triền miên của người ở lại, cũng như những nổi ê chề của kẻ ra đi, nhiều hội đoàn chính trị cũng đã thành hình. Nổi bật là nhóm của Đề Đốc Hoàng Cơ Minh mà đại diện ở Chicago là ông Phạm Văn Bảo. Trong thời gian nầy các hoạt động hầu như chung về một mối và các sinh hoạt đều từ một trung tâm,  đó là Văn Phòng Hội Người Việt tại đường Broadway.

 

Một năm sau, ông Hoàng Cơ Minh rời Mỹ đi lập chiến khu ở Đông Dương và thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MTQGTNGPVN) vào năm 1982. Mặt Trận được sự ủng hộ tối đa của toàn thể người Việt khắp thế giới và Chicago đã tưng bừng tham gia cũng như đóng góp cho quỹ kháng chiến qua Xứ Bộ Chicago hoặc Phong trào Quốc Gia Yểm trợ Kháng Chiến (BS Trần Xuân Ninh).

 

 Đến năm 1984 thì MT có chuyện xáo trộn nội bộ và sự ủng hộ của đại chúng cũng nguôi dần. Cho đến nay MTQGTNGPVN ở Chicago vẫn còn hoạt động. Hàng năm Mặt Trận có hai sinh hoạt lớn là ngày Quốc Khánh (Giỗ Tổ Hùng Vương) và mừng Tết Nguyên Đán đúng ngày, mấy năm gần đây có thêm ngày Tết Nhi Đồng, tổ chức đồng thời với Tết Trung Thu của Cộng Đồng Việt Nam tại Chicago làm cho sinh hoạt của cộng đồng càng thêm khở sắc. Ngoài ra mặt trận còn xuất bản hàng tháng Nguyệt san Ngày Mới.

 

Sau vụ khủng hoảng lãnh đạo của MTQGTNGPVN nhiều hội đoàn chính trị bắt đầu xuất đầu lộ diện hoạt động mạnh mẽ hơn. Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Tự Do, Liên Minh Việt Nam Tự Do, Chính Nghĩa, Thanh Niên Chí Nguyện, Liên Minh Dân Chủ, Đại Việt Quốc Dân Đảng v.v. Dù có nhiều hội đoàn hoạt đồng thời nhưng các sinh hoạt cộng đồng vẫn luôn luôn là trách nhiệm chung nhau gánh.

 

Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa được thành lập vào khoảng năm 1982. Thật ra HCCSVNCH đã có từ lâu nhưng không chính thức ra mắt. Hội hoạt động tích cực về mặt ngoại vận. Hội là gạch nối giữa cựu chiến binh Hoa Kỳ và cựu chiến binh của cộng đồng Việt tỵ nạn. Hàng năm hội lãnh trách nhiệm tổ chức ngày Quân Lực 19-6. Vị chủ tịch đầu tiên là Bác Sĩ Trần Trọng Lang. Hội không ra báo nhưng có những số đặc biệt cho Ngày Quân Lực 19-6 và số Tết.

 

Năm 1989, qua sự dàn xếp của chính phủ Hoa Kỳ, hàng trăm ngàn cựu tù nhân cải tạo của chế độ Cộng Sản Việt Nam và gia đình đã được đưa thẳng từ Việt Nam đến Hoa Kỳ định cư. Chicago thêm người thêm nhân lực do đó những hoạt động chính trị và tương trợ trong cộng đồng bắt đầu vươn lên như vũ bão. Trong hoàn cảnh nầy

 

Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị được ông Ngô Văn Lan vận động thành lập, kết quả ông Đào Thanh Phong là vị chủ tịch tiên khởi. Hội có tờ Nguyệt san Ngày Về mang lại cho cộng đồng nhiều tin tức nóng sốt thường xuyên. Đến lúc ông Ngô Văn Lan, giã từ Chicago đi Arizona thì ngưng hẳn.

 

Hai Hội CCSVNCH và Tù Nhân Chính Trị với sự phối hợp của Vietnam War Museum của ông Joe Hertel đã tạo được sự hiện diện của lá quốc kỳ Việt Nam Quốc Gia bay thường trực trên nền trời thành phố Chicago. Một điểm son, không nơi nào làm được.

Tiếp Theo Trang 2