Home

Thơ

Sưu Tập

Văn Điếu Tế  Linh Tinh Trang Ca Dao Search

 

Hai Mươi Lăm Năm Xây Dựng Cộng Đồng Chicago. (Tiếp Theo)

Nguyễn Đức Trọng

Nói đến đây tưởng cùng nên có đôi dòng về Vietnam War Museum. Tuy Vietnam War Museum không do cộng đồng Việt lập nên nhưng nó cũng như người anh em kết nghĩa vậy. Vào năm 1983 ông Joe Hertel, giới thiệu với thân hữu tài sản có một không hai trưng bày tại một basement ở đường Irving Park. Tài sản này là những kỷ vật mà ông đã góp nhặt hoặc mua được những kỷ vật liên quan đến chiến tranh việt Nam. Năm 1985 qua nhiều lần tiếp xúc với bạn bè Việt Nam mà ông đã dời về đường Broadway góc Argyle và gọi là Vietnam War Museum (Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Việt Nam). Khoảng mươi năm sau, vì không đủ tiền thuê nhà ở mặt tiền, Việt NamWar Museum đã dời về 954 W. Carmen, bên cạnh Chùa Quan Âm, do nhã ý của ông Trịnh Chấn Cường, cho thuê chỗ với giá tượng trưng. Trong thời gian dù ở Broadway hay ở Carmen, các thương gia khu Argyle đóng góp phần lớn chi phí cho Viện Bảo Tàng. Đến ngày 30/4/00 thì Viện Bảo Tàng tạm thời đóng cửa vì không có ngân khoản điều hành.  Trong 15 năm bên cạnh cộng đồng Việt, Viện đã sát cánh với người Việt tỵ nạn trong những dịp lễ lớn như Ngày Quốc Hận, Memorial Day (của Hoa Kỳ). Những đêm không ngủ trong tình huynh đệ chi binh đã được hai bên Mỹ Việt đón nhận rất là nồng nhiệt. Với Viện Bảo Tàng cờ vàng ba sọc đỏ luôn luôn tung bay trên phố Việt Nam.  

Hoạt động của giới trẻ luôn luôn là những hình ảnh sáng chói trong cộng đồng bản địa. Đáng nói nhất là hội sinh viên học sinh. Mỗi trường từ năm 1976 đều có hội sinh viên hay học sinh Việt hoạt động. Những vị có công bồi đắp con em Việt Nam thăng tiến một cách mạnh mẽ chúng ta không thể quên công ơn của Thầy và Cô Hàn Long Toàn, Cô Hương, Thầy Cửu, Cô Liên, Thầy Hiếu. Sau nầy khi học sinh Việt lũy tiến trên các trường trong khu vực Uptown cũng như Albany Park thì còn nhiều thầy cô khác đã tận tụy dẫn dắt con em Việt đến chỗ thành công. Hầu như các trường đều cố gắng ra được một tờ báo xuân hàng năm. Trong các hội sinh viên, Hội UIC là mạnh nhất, hàng năm đều có tổ chức dạ vũ gây quỹ hoạt động.  

Vovinam Việt Võ Đạo do ông Phạm Văn Bảo khai phá từ năm 1976 vẫn trường tồn và hoạt động mạnh trong vùng Uptown. Khi Võ sư Trần Văn Bé và ông Lý Hoàng Cát Long từ trại tỵ nạn qua, trung tâm sinh hoạt của Vovinam dời về sân tập của Nhà thờ Lutheran ở đường Elmdale. Có thể nói trong 25 năm, Vovinam đã đào tạo hàng trăm người trẻ Việt yêu tổ quốc Việt tận đáy lòng. Hàng năm Vovinam thường xuất hiện với cộng đồng Việt qua chương trình biểu diễn võ thuật trong hội chợ Tết Cổ Truyền. Chúng tôi còn nhớ năm 1978 lần đầu tiên Vovinam biểu diễn tại trường Truman, có sự cộng tác của Bác Sĩ Phạm Gia Cổn (Hiệp Khí Đạo) đã được khán giả Mỹ Việt hoan hô nhiệt liệt.  

Trong các hội tương trợ của người Việt Tỵ Nạn, Hội Huế và Quảng Trị hoạt động mạnh và con số hội viên tăng nhanh chóng. Hội được thành lập vào khoảng năm 1981. Hàng năm vào khoảng tháng 11, Hội Huế và Quảng Trị thường tổ chức đêm nhớ Huế, có ca sĩ Huế về giúp vui. Trước ngày Hội Huế ra đời, chúng tôi đã cọng tác với bà Liên Dư tổ chức đêm cho Huế tại nhà của Bà ấy hoặc nhà của Bà Phi Hồng. Con số tuy không đông nhưng đã nói lên những nét đặc biệt của người Huế hay yêu Huế.  

Giới trẻ hoạt động trường kỳ và mạnh mẽ nhất là Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể của Công giáo và Đoàn Phật Tử của chùa Quang Minh và Trúc Lâm. Ngoài những ngày lễ lớn và các buổi sinh hoạt thường xuyên mỗi Thứ Bảy hay Chúa Nhật các em đã đóng góp nhiều cho các sinh hoạt của cộng đồng chung. Những đoàn thể trẻ có tính cách tôn giáo nầy đã đào tạo những người trẻ đạo đức, yêu tổ quốc và giỏi cả chữ quốc ngữ. Có gì đẹp hơn và dễ thương hơn những điệu vũ cổ truyền mà các em thường xuyên luyện tập để trình diễn trong ngày Tết cộng đồng. Đoàn múa lân của các em Phật Tử Trúc Lâm hàng năm đem lại nguồn vui và may mắn cho cộng đồng Việt trong ba ngày Tết cổ truyền.  

Trong khoảng hơn nửa thập niên vừa qua, Bà Liên Dư lại tái xuất giang hồ trong chương trình “Sống Để Phục Vụ” của hội Travelers and Immigrants Aid (bây giờ là Chicago Connections) đã tạo những môi trường lành mạnh cho con em Việt Nam học để tiến tới, học để phục vụ và học để lãnh đạo.Người Mỹ dù qua hơn 20 năm tiếp xúc dù trực tiếp hay gián tiếp với Việt Nam thường coi người Việt là những kẻ đến từ nơi kém mở mang. Người bảo trợ đã chỉ vẽ cho người tỵ nạn từ việc đi cầu cho đến việc xử dụng bếp núc hay tắt mở TV. Chúng ta ai ai cũng  thấy sự tận tâm của người Mỹ đôi khi quá đáng, nhưng vì thân phận ăn nhờ ở đậu  nhiều người đành phải nuốt chữ nhẫn làm ngơ. Đầu năm 1979 chúng tôi đã đề nghị với Governor Office để xin thành lập Trung Tâm Cộng Đồng Đông Dương, để người tỵ nạn giúp người tỵ nạn. TS Ed Silverman, giám đốc văn phòng Thống đốc đã triệu tập nhiều phiên họp với các giám đốc chương trình của các Volags như USCC, Lutheran, IRC, TIA v.v. có cả Dr. William Liu một người Mỹ gốc Hoa có uy tín trong ngành giáo dục ở Chicago và chúng tôi để thực hành ý kiến trên, Sau 6 tháng họp hành, các hội không tin tưởng nhân viên người tỵ nạn đủ khả năng làm những công việc mà họ đang làm. Hơn thế nữa họ sợ người Việt sẽ lấn mất tất cả các quyền hạn của người Cambốt và Lào cho nên đã giết chết ý tưởng trên không một chút thương tiếc. Kết luận rút ra trong lần xuất quân nầy là: nhờ người thì phải thọ ơn người nhất là khi người giúp mình mà họ bị thiệt thì không đời nào lại chịu khó đứng ra giúp. Sau lần thất bại đó chúng tôi nghĩ đến phương thức kinh tế. Nếu có tiền thì ta đâu cần phải nhờ ai! Tư tưởng đó đưa đến việc lập khu chợ Việt Nam. Khi đi tìm người tỵ nạn đầu tư để từ từ biến khu Argyle/Uptown thành khu chợ Việt thì chúng tôi được biết người ta không chịu cho người Việt mướn chỗ vì họ muốn thành lập Khu New China Town. Chúng đành liên lạc với các chủ nhà người Mỹ để khuyến khích họ cho người Việt mướn với lời hứa sẽ làm cho khu vực trở nên phồn thịnh. Tiếp đó chúng tôi đã cộng tác với Sammy Luc đưa người mới tới ở trong những building trống ở khu vực. Ngược lại Sammy Luc cho người tỵ nạn mướn các căn phố trống để làm thương mãi. Một mặt khác chúng tôi cộng tác với chính quyền sở tại để chận đứng những vụ hiếp dâm tại góc Argyle và Winthrop. Trong thời điểm nầy những vụ hiếp dâm, cướp bóc, giựt bị, ăn trộm mà nạn nhân luôn luôn là người tỵ nạn. Mỗi ngày có từ 25 cho tới 30 vụ như trên. Để chận đứng tệ nạn nầy chúng tôi đã tổ chức nhiều buổi họp với cộng đồng bạn, cơ quan chính quyền (VP Alderman Volini, Cảnh sát quận) và các vị lãnh đạo tinh thần cùng các nhà hoạt động xã hội tại basement nhà thờ St Thomas of Canterbury, Trường McCutcheon, Hội TIA, VP Alderman, và Margate Park để tìm kế sách ngăn chặn. Chính quyền cố gắng bằng cách tăng cường thêm xe tuần tiễu trong vùng nhưng cũng chẳng làm thuyên giảm những vụ cướp bóc chút nào.  

Hãy tự giúp mình trước, trời sẽ giúp ta. Thấy họp hành mãi vẫn không giải quyết được gì từ phía những người thiết tâm hay chính quyền. Chúng tôi những người võ biền làm việc theo võ biền. Cùng với các ông Hoàng Xuân Nghị, Nguyễn An Bảy, Phạm Văn Bảo, Nguyễn Văn Đức, và một số lớn của cư dân ở cao ốc Lake Side chúng tôi họp nhau quyết định bắt cướp. Mỗi người lãnh một trách nhiệm trong kế hoạch chuẩn bị và thi hành (phục kích). Chúng tôi đặc trách việc liên hệ với cảnh sát quận 20 để nhờ họ xúc lưới ngay tức khắc khi con cá vừa lọt lưới. Ông Hoàng Xuân Nghị và ông Võ Ngọc Vân, nếu chúng tôi nhớ không nhầm, lo máy Walkie-talkie. Ông Nguyễn An Bảy lo tổ chức cò mồi và tiền giả (Hell Money). Ông Phạm Văn Bảo lo kế hoạch bám sát và điều động trận tuyến. Cuộc trận đã được dàn ra ngay trên đường Lake Side và Sheridan, với các trạm gác trên không ở lầu 18 và 20. Đúng 6 giờ chiều Chị T... lấm la lấm lét ôm chặt chiếc ví đầm đi ra từ Currency Exchange tiến về cao ốc Lake Side. Một tên cướp lực lưỡng, từ cửa trước cao ốc tức tốc đi nhanh về hướng chị. Các trạm đã báo cho nhau biết: cá sắp cắn câu. Đúng thế khi tên nầy đi qua chị T... gạc chân chị làm chị ngã kềnh ra đất, chiếc ví văng khỏi tay chị. Tên cướp lấy ví rồi đi vội về phía hành lang tây của cao ốc Lake Side. Cuộc theo dõi bắt đầu. Cảnh sát được thông báo. Một xe cảnh sát tuần tra chận đầu ở đường Lawrence gần Clarendon, một chiếc khác chận tại đường Kenmore. Thấy vậy tên cướp đi nhanh về phía trường McCutcheon. Người theo dõi bám sát. Khi tên gian vẫn ôm ví trong tay băng qua đường Gunnison trên Sheridan thì bị cảnh sát phục tại đó thộp cổ. Hôm ra tòa có gần 300 nhân chứng mà 100% là người tỵ nạn Việt, Cambốt và Lào đồng thanh chỉ mặt tên cướp: “chính nó”. Đây là lần đầu tiên một bị cáo bị 300 nhân chứng lên án....Đây không phải lần đầu tiên chúng ta phải sống trong phập phồng lo sợ vì tệ nạn xã hội của bản địa, mà ngay từ giây phút đầu tiên của năm 1975 người Việt Tỵ Nạn đã thường bị đánh đập và bị cướp cạn. Trong số những nạn nhân có các anh em trẻ trong nhóm Nhảy Dù độỉc thân. Dù bị cướp và bị đòn nhiều lần nhưng các anh em nầy vẫn nhịn nhục. Tức nước phải vỡ bờ, cho đến một hôm, Anh Tâm Dù như thường lệ buổi sáng sớm đứng chờ xe đi làm, thì bị mấy " ông cột nhà cháy" bóp cổ móc hết tiền bạc lại  còn nhục mạdanh dự dân tộc. Không thể nhịn được nữa, anh một mình đã đánh gục hai tên lưu manh. Ngày hôm sau chúng gậy gộc kéo nhau ra trả thù, anh Tâm đã bình tĩnh cho cả đám chúng nó nằm la liệt trên tuyết. Sau đó chúng kéo đến đông hơn với súng ống nữa nhưng nhờ khôn khéo, anh Tâm đã làm cho bọn băng đảng nể sợ và không dám làm ăn ở khu Việt nam nữa. Vẽ bậy trên tường ngày nay chúng ta ít thấy trong khu vực Argyle nơi mà trước đây vẽ bậy là một phí tổn lớn để xóa cho các chủ nhà.  

Báo Chí trên đất Mỹ là một kỹ nghệ lớn, báo chí đối với người Việt chúng ta là niềm hào hãnh và thú vui. Chicago có hai tờ báo lớn là tờ Tribune và tờ Sun-Times. Trong khi đó cộng đồng nho nhỏ của chúng ta lại có đến 5, 6 tờ. Ngoài tờ Bản Tin phát hành hàng tháng, chúng ta còn thấy các tờ Chicago Việt Báo của Bác Sĩ Trần Trọng Lang. Nguyệt san nầy vừa ngưng thì xuất hiện tờ Thời Việt của anh Vũ Uyên Giang. Hai nguyệt san nầy sống được 3 năm thì ngưng phát hành. Tờ Người Việt Illinois của Trần Thiện Đạt cũng chỉ sống được vài số. Sau nầy có tờ Ngày Mới của Mặt Trận (đang lưu hành). Hàng năm mỗi dịp lễ lạc lớn chúng ta được xem các tờ đặc san Huế Quảng Trị, Hồn Quê, Diệu Âm, Phật Bảo, Cựu Chiến Sĩ, Ngày Về, Quê Hương, Biển Đông, Vovinam và các báo của Sinh Viên và học sinh các trường trung và đại học. Trong năm nay chúng ta thấy tờ Chicago Việt báo của anh Võ Nở chào làng với bìa mầu rất đẹp.  

Điểm sáng chói nhất trong thế giới tự do là con người được tự do lập hộỉi, được tự do phát biểu. Trong tinh thần đó một hội đoàn mới khai sinh trong những năm gần đây là Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Illinois. Khác với Trung Tâm Cộng Đồng Xã Hội Việt Nam được thành lập cách đây 19 năm chỉ chuyên về vấn đề an sinh cho người Việt Tỵ Nạn, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Illinois chú tâm đến góc cạnh chánh trị và đấu tranh. Cuộc bầu cử lần đầu tiên xảy ra vào Năm 1996 bà Bác Sĩ Trần Lương Ngọc Hồ đắc cử chủ tịch và tái đắc cử vào lần bầu trong dịp Tết Canh Thìn.  

Trung Tâm Dịch Vụ Xã Hội Hội Người Việt được hình thành trong một điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt. Năm 1980 ông Vĩnh Quang, chủ tịch Hội Người Việt tại Illinois vì nhu cầu sinh kế đã rời Chicago cấp kỳ đi New York. Hội đồng quản trị tan rã. Vào mùa Thu năm 1980, người viết nầy nhận được tin chính phủ Liên Bang đã dành một ngân khoản $5,000,000 giúp cho các dự án xây dựng cộng đồng của các hội tương trợ. Khoản trợ giúp nầy không quá $50,000 cho mỗi ứng viên và chỉ trợ cấp một lần thôi. Vì tin tức đến quá muộn, chỉ còn 15 ngày thì hết hạn. Chúng tôi tức tốc mời các ông Trần Văn Dương, Nguyễn Đức Nghĩa, Lưu Xuân Tĩnh họp để tính kế lập dự xin ngân khoản. Sau khi bàn thảo kế sách phải có trong dự án, các ông nêu lên trở ngại lớn là ai viết dự án đây! Nhờ người viết thì không có tiền, hơn thế nữa hội đồng quản trị Hội Người Việt đã không còn nữa vậy dựa vào đâu để có chính danh? Chia tay nhau ai về nhà nấy lòng chúng tôi nát tan. Cờ đến tay mà không phất được! Hôm nay không xin chút ngân khoản cho cộng đồng lấy trớn mà thăng tiến thì chừng nào mới có thể làm đây? Nhờ chút vốn liếng qua khóa “định trị dự án” mà chúng tôi được học với Bộ Canh Nông trước đây, chúng làm liều đêm ngồi cân hồ một mình. Đồng thời với vai trò là cố vấn của hội, chúng tôi không có tư cách pháp nhân để làm gì do đó đã gọi điện thoại qua New York  yêu cầu ông Vĩnh Quang ủy quyền cho người viết nầy triệu tập đại hội bầu tân hội đồng quản trị, và yêu cầu ông trả ấn tín cho Chicago. Chỉ trong vòng một tuần lễ sau chúng tôi đã triệu tập đại hội và các ông sau đây được bầu vào hội đồng quản trị: BS Trần Duy Tự, Chủ  tịch, DS Phạm Châu Nam, Tổng thư ký, DS Quách Đức Minh, Thủ quỹ và một số thành viên khác. Sau khi có được ban chấp hành chúng tôi cố gắng hoàn tất việc viết dự án. 

Khoảng năm ngày trước hạn chót nộp đơn, chúng tôi nhờ ông Trần Văn Dương xem lại cấu trúc của dự án, ông cho biết hỏng bét, không thể nộp được. Chúng tôi vào sở làm việc mà ruột gan rối bời, như người mất hồn. Ông Steve Voss, giám đốc chương trình tỵ nạn của hội Travelers & Immigrants Aid thấy chúng tôi như vậy lo lắng, hỏi cớ sự. Chúng tôi cho ông ta biết nguyên do. Ông ngỏ ý muốn xem bản thảo của dự án để tìm đường giúp đỡ. Sau khi xem qua, ông cho biết chỉ thiếu phần tổ chức nhân viên, ông giúp chúng tôi bổ khuyết. Về phần kế toán chúng tôi nhờ ông Lộc con của đại tá Bá viết giúp về phần cấu trúc. Ít hôm sau cô Virginia Koch, Phó giám đốc của Hội TIA giúp việc đả tự và trình bày dự  án để gửi đi cho đúng giờ. Chúng tôi đã nộp dự án qua sở Bưu Điện 4:30 chiều Chúa Nhật, nửa giờ trước khi khóa sổ với ngân khoản xin trợ giúp là $49,980. Vào khoảng tháng 11 năm 1980, ông Phạm Ngọc Lâm tùng sự tại Tổng Nha Định Cư (ORR), về thăm Chicago đã chúc mừng Chicago, vì dự án đứng đầu danh sách mười dự án xuất sắc nhất. Chúng tôi hoan hỉ đón nhận tin vui và chờ giấy tờ chuẩn chi của Chính phủ Liên Bang. Dù là dự được chấm hạng nhất song cũng phải sửa đổi nhiều điều khoản cho hợp với điều kiện mà chính phủ liên bang mong muốn. Việc tu chỉnh nầy cũng kéo dài đến mấy tháng mới được chính phủ Liên Bang chính thức chấp thuận cho thành lập ềÕTrung Tâm Dịch Vụ Xã Hội Cộng Đồng Việt NamÕỪ (Vietnamese Community Services Center - VCSC). Để cho việc tuyển chọn vị giám đốc tiên khởi của trung tâm được hợp với lòng dân và nhu cầu đòi hỏi của chuyên môn, một ủy ban tuyển chọn được thành lập gồm có 5 vị: Tiến sĩ Ed Silverman, Giám đốc Văn phòng Định Cư và Tỵ Nạn Tiểu Bang Illinois, ông Joe Tobin (đại diện cho ngành dịch vụ xã hội), ông Trần Văn Dương, Viện đại học cộng đồng Truman, BS Trần Duy Tự, chủ tịch HĐQT Hội Người Việt tại Illinois và chúng tôi. Cô Lê Ngoan, một cử nhân tốt nghiệp từ viện đại học tiểu bang được ban tuyển chọn chấm trúng tuyển. Cô Ngoan là một người trẻ đã có nhiều thành tích đấu tranh cho người Cam Bốt trong hoàn cảnh bị diệt chủng từ khi còn trong ghế trường Đại Học. Trong một năm đầu chúng tôi thường xuyên đến hướng dẫn thêm về đường hướng thực thi dự án và hoạch định phương thức nuôi dưỡng trung tâm được sống lâu dài. Với số tiền $49,980 chỉ đủ để mướn 3 ơ nhân viên làm việc và phụ phí điều hành. Tất cả bàn ghế, máy móc và trang bị cho lớp học thì chúng tôi phải đi xin hay nhờ công quả của phụ huynh có con em đến học tiếng Việt tại trung tâm đóng giúp. Trong 3 năm đầu Hội Travelers & Immigants Aid giúp đỡ khoản thuê nhà cho trung tâm cũng như cung cấp dịch vụ Fiscal agent (gần như là bảo trợ dịch vụ tài chánh)  

Năm sau tài khóa 82 (July 1981-June 1982) cho đến nay, Trung tâm được tiểu bang tiếp tục tài trợ theo tài khóa từng năm một.  

Hoạt động trên đất Mỹ tuy rất tự do nhưng bị ràng buộc bởi quy tắc rất nặng nề. Hội Người Việt và Trung Tâm Dịch Vụ Xã Hội Việt Nam tuy là một thực thể song danh xưng khác nhau cho nên đối với chính quyền thì là hai thực thể do đó mỗi tài khóa phải chịu 4 lần thanh tra tài chánh. Hội người Việt là giám hộ cho trung tâm cũng phải chịu hai lần thanh tra- một lần do một cơ quan tư, phải trả tiền $1,500 lệ phí “để họ tìm cái sai của hội”. Sau đó còn bị chính phủ thanh tra về việc xử dụng cấp khoản mà hội đứng xin. Trung tâm là đơn vị thực thi khế ước với chính phủ cho nên cũng phải minh chứng là Trung Tâm đã chi tiền đúng theo luật lệ quy định, vị chi đã tiêu thêm $1,500 phụ phí thanh tra tư nữa. Ngoài 4 đợt thanh tra tài chánh, trung tâm thường xuyên bị thanh tra chương trình. Để giảm thiểu chi phí nầy, Trung Tâm Xã Hội Cộng Đồng Việt Nam (VCSC) đã nạp đơn xin cải danh thành Hội Người Việt vào vài năm sau.  Như chúng ta đã thấy, ông chủ tịch Hội tuyển chọn Giám đốc Trung tâm cùng với một ủy ban 5 người cho thấy hội làm chủ Trung Tâm. Giám đốc và nhân viên phục vụ trong trung tâm được hưởng thù lao nhưng ngược lại Hội Đồng Quản Trị Không một ai có một chút bổng lộc nào.   

Khoảng giữa năm 1979 người tỵ nạn tại địa phương cần theo dõi tình hình tiến triển ở các trại tỵ nạn thì Chicago lại không có một tờ báo nào cả. Nhờ Bà Việt Hoa giúp $90 để mua giấy, ông Nguyễn Đức Nghĩa giúp việc quay ronéo (Asian Human Services) , anh Nguyễn Cầu Hải cùng với chúng tôi đã cho ra mắt tờ Bản Tin. Số thứ hai được Hội TIA tài trợ  $500 để phổ biến tin tức liên quan đến việc nhập tịch. Sau đó tờ báo sống èo ọp vì không có tài chánh vững chắc bởi lẽ trong thời nầy chợ Việt chưa phát triển. Vào năm 1982 Trung Tâm Xã Hội Công Đồng Việt Nam tiếp nhận nuôi dưỡng Tờ Bản Tin.  

Trung Tâm Hội Người Việt phát triển nhanh theo nhịp độ dân Việt tại Chicago tăng qua chương trình HO và Amerasian. Ngân khoản điều hành của hội qua đợt trợ giúp của Liên Bang chấm dứt sau một năm. Hội tuy hoạt động với mục đích phục vụ công đồng song “không thực thì sao vực được đạo”, để cho hội được trường tồn, ngoài trợ cấp của chính quyền tiểu bang, hội còn phải tìm nhiều nguồn trợ giúp khác như: United Way và nguồn tài trợ tư (private foundation). Mỗi phần cấp khoản tài chánh của hội là một kế ước với cơ quan hay thực thể tài trợ. Khi nhận trợ cấp, hội phải ký với họ một khế ước. Mỗi khế ước có những điều khoản ràng buộc riêng, nhiều hay ít tùy thuộc đòi hỏi của cơ quan tài trợ. Thường thường chính phủ đòi hỏi nhiều nhất sau đó là cơ quan United Way. Các Foundation tư đưa ra điều kiện thường rất nhẹ nhàng. Muốn được hưởng những tài trợ khác ngoài chính phủ nhất là United Way, hội phải chứng minh rằng hội có tư lợi qua việc gây quỹ, parking lot, tờ Bản Tin, nhất là sự đóng góp của nhân viên và lệ phí dịch vụ (Xin thăm trang mạng lưới: http://www.vaichicago.org để có thêm chi tiết về hội)Trong hai mươi lăm qua qua hội đã trải qua bao thăng trầm. Hội luôn luôn là cái gai của những kẻ lăm le chống phá nỗ lựỉc của người Việt Quốc Gia. Theo nguyên tắc lập hội và những điều khoản ràng buộc khi nhận ngân khoản dịch vụ của chính phủ thì hội không được làm chính trị.  

Ông Trần Thiện Đạt, nhân viên bán thời gian đặc trách báo Bản Tin của Trung Tâm thấy mức thu nhập về quảng cáo của báo Bản tin có vẻ khả quan cho nên đòi tăng lương. HĐQT chưa kịp xét thì ông đã mang hết tài sản liên quan đến tờ báo đi ra lập riêng cho mình tờ “Người Việt Illinois”. Tờ báo này dùng đủ mọi luận điệu để bêu xấu Hội Người Việt tại Illinois. Nhờ sự khôn khéo và tế nhị của ông cố chủ tịch Đỗ Đăng Công và của TS Bửu Tập mà những vu cáo đã được gột rửa trong thời gian ngắn. Đến thời ông Chủ Tịch Mai Tất Đắc, cộng đồng xẩy ra vụ Lâm Tôn. Đây là một vụ nhiễu sách cộng đồng lớn có tích cách chính trị ảnh hưởng đến uy tín của toàn thể cộng đồng Việt khắp thế giới. Nguyên ông Lâm Tôn theo phái đoàn truyền thông Hoa Kỳ đi Việt Nam làm phóng sự 10 năm sau. Khi về Mỹ ông Lâm Tôn đã tuyên bố nhiều điều không có lợi cho nổ lực đấu tranh về nhân quyền cho nước Việt Nam của người Việt Quốc Gia, do đó các hội đoàn chống cộng tại Chicago đã họp tại văn phòng của Hội Người Việt tại 4833 N. Broadway, tổ chức biểu tình chống hành động của ông Lâm Tôn. Những kẻ có dã tâm liền tổ chức lực lượng chống phá HNV. Họ đã tố cáo lên chính phủ tiểu bang yêu cầu chấm dứt việc cấp ngân khoản hoạt động cho HNV vì HNV đã xử dụng ngân khoản của Tiểu bang cấp để làm chính trị.

Từ ngân khoản $49,980 lúc khởi đầu, với 3 nhân viên rưỡi, hiện nay ngân khoản điều hành của Trung tâm đã lên trên 1 triệu với 20 nhân viên toàn thời gian. Đương kim chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Hội Người Việt là ông Hồ Viết Lộc. Giám đốc điều hành là ông Nguyễn Đức Tâm tiếp nối vị tiền nhiệm là ông Nguyễn Hà.  

Những hoạt động của Trung Tâm Hội Người Việt tại Illinois: Chủ trương của HNV là tạo một nền móng cho các sinh hoạt của cộng đồng Việt Nam, do đó từ ngày trung tâm được khai sinh, trung tâm đã mặc nhiên trở thành phương tiện cho sinh hoạt của các hội đoàn; vì lẽ đó mà những kẻ nội thù đã dùng đủ mọi cách để vô hiệu hóa ảnh hưởng, cũng như bôi nhọ trung tâm. Vụ Trần Thiện Đạt và vụ Lâm Tôn là điển hình nhất. Qua biết bao sóng gió, Trung tâm Hội Người Việt vẫn thăng tiến một cách mạnh mẽ, dù rằng chương trình tỵ nạn Việt Nam mỗi ngày một giảm. Vị giám đốc Trung Tâm qua sự chỉ đạo của ủy ban điều hành hội lo điều nghiên và đi tìm nguồn tài chánh cho hội.

Các chương trình hoạt động đều do Ủy Ban Kế Hoạch của Hội Đồng Quản Trị đề ra dựa trên nhu cầu hay đề nghị của vị Giám Đốc Trung Tâm dịch vụ của hội. Hiện nay chương trình của hội gồm có:   

Employment. Từ năm 1996 trở về trước chương trình tìm việc của hội chuyên tìm việc làm cho người tỵ nạn mà thời gian cư trú chưa quá 2 năm. Phần tìm việc cho những người có thời gian cư trú trên hai năm không được một cơ quan tài trợ nào cho, nhưng hội vẫn phải du di để thỏa đáng nhu cầu của toàn thể cộng đồng. Nay mức độ người Việt tỵ nạn đến Chicago quá ít cho nên chương trình nầy do các hội thiện nguyện đảm trách. Kể từ năm 1995, vẫn giữ dịch vụ nầy qua chương trình React, một chương trình huấn nghệ về điện tử 6 tuần lễ.  

Chương trình tiểu thương. Chương trình nầy bắt đầu hoạt động từ lúc khai sinh trung tâm và ông Đào Zũng là người khai phá. Nối tiếp công trình của ông Zũng là ông Nguyễn Văn Tâm với nhiều thay đổi rất hữu ích cho giới thương gia. Mục đích của chương trình là giúp đỡ các thương gia làm quen với hệ thống hành chánh và kỹ thuật tân tiến của Hoa kỳ, hoặc giúp người tỵ nạn khởi đầu cơ sở thương mại. Trợ giúp tìm nguồn tài chánh vay vốn làm ăn hay khuếch trương cơ sở thương mại. Một thí dụ điển hình của CTTT là thực hiện được bãi đậu xe cho công cộng trên đường Winthrop gần Argyle.  

Hội cũng hỗ trợ và đỡ đầu cho Phòng Thương Mại Việt Nam tại Uptown.  Phòng thương mại bắt đầu hoạt động từ năm 1984. Ông Lâm Tôn, chủ nhà hàng Mekong là vị chủ tịch tiên khởi. Trong thời gian làm chủ tịch Phòng Thương Mại Việt Nam, ông Lâm Tôn đã vận động xây một cổng chợ với phí tổn lên tới hơn hai trăm nghìn Đô, như ở Phố Tầu nhưng không được sự hỗ trợ của đại chúng.  

Di trú. Di trú là một chương trình khẩn yếu cho đời sống người tỵ nạn. Chương trình nầy ngoài nhu cầu hành chánh liên hệ còn giảm thiểu được 50% thời gian chầu chực ở các cơ sở di trú. Chương trợ giúp di trú gồm có:  

a. Dịch vụ thường trú. Cấp mẫu đơn, chụp hình, dịch giấy tờ, điền đơn và tổ chức tuyên thệ tại văn phòng hội cũng như theo dõi và khiếu nại.  

b. Dịch vụ đoàn tụ gia đình. Cung cấp mẫu đơn, hướng dẫn điền đơn, dịch hồ sơ, chụp hình, nộp đơn và theo dõi tiến triển của đơn xin. (Hội không giúp trường hợp Mẫu đoàn tụ I-130 hay F-259)  

c. Dịch vụ công dân. Đây là dịch vụ nhiêu khê nhất trong toàn dịch vụ di trú. Thường các sắc dân khác phải chi từ hai cho tới năm nghìn để được thành công dân Hoa kỳ. Trung tâm dịch vụ đã giảm thiểu khó khăn đến tối đa. Có nghĩa là đã cung cấp các dịch vụ giấy tờ, thông dịch, chụp hình, điền đơn và còn tổ chức thủ tục phỏng vấn  ngay tại văn phòng của hội ngoại trừ lễ tuyên thệ.  

ESL/Literacy. Chương trình dạy Anh Ngữ cũng đã trở thành tối quan yếu cho đồng hương mới đến theo diện HO.  

Chương trình dạy tiếng Việt cho con em được đẩy mạnh vào những năm 1981 và 1982 tại trung tâm Hội. Sau nầy nhà thờ và Chùa có chương trình thường trực nhất là vào mùa hè.  

Các em học sinh tại các trường trung và tiểu học đã chứng tỏ khả năng học vấn và đạo đức cá nhân nhờ chương trình sinh hoạt cho học sinh sau giờ tan học.  

Người già là mối quan tâm hàng đầu của hội. Chương Trình Lão Niên được thành lập để phục vụ các cụ. Hiện nay hội có khoảng 35 nhóm, mỗi nhóm có 10 cụ. Hoạt động dành cho các cụ là phòng đọc sách, phòng giải trí, học Anh Ngữ cũng như du ngoạn. Qua bao nhiêu năm, các cụ đặc trách lễ giỗ Tổ Hùng Vương. Đôi khi cũng để cho anh em trẻ như Vovinam Việt Võ Đạo đặc trách để học hỏi cách tổ chức đồng thời nối chí các cụ sau nầy. Ông Trần Văn Quả là người điều hợp chương trình Lão niên từ khai thiên cho tới bây giờ. Một làng lão niên cũng đang được dự phóng để có chỗ cho các cụ an vui tuổi già với đầy đủ chương trình y tế và chăm sóc 24/24.  

Do nổ lực chung phần Phát Thanh bằng Việt ngữ trên làn sóng trung bình cũng đã đến với cộng đồng Việt gần một năm vào năm 1982. Sau đó không đủ ngân khoản thuê giờ đành phải ngưng hoạt động. Mãi đến năm 1997 ông Nguyễn Văn Mai đã vận động được ngân khoản cho nửa giờ truyền hình trên băng tần 23. Nhưng vì con số người Việt tại Chicago cũng chưa đủ để chợ Việt phát triển mạnh hầu tài trợ phí tổn quảng cáo trên đài Truyền Hình cho nên chương trình phát hình cũng ngưng sau một thời gian ngắn. Thất bại với truyền hình ông Nguyễn Văn Mai đã được chương trình Voice of Diversity thuộc Viện Đại Học Loyola tài trợ đã mang lại cho cộng đồng người Việt Chicago một chương trình phát thanh Việt Ngữ phong phu,ù mỗi Chúa nhật từ 11G đến 12G trên băng tần FM 88.7 đến nay cũng đã được 3 tuổi. Chương trình phát thanh nầy do các thành viên tự nguyện đóng góp. Ngân khoản được tài trợ chỉ đủ để thuê giờ trên băng tần.  

Ngoài ra Trung tâm còn có các chương trình khác như chương trình sưởi ấm mùa đông (do chính quyền Thành phố cấp), Chương trình Y Tế, Bãi đậu xe, Hội chợ Argyle (Argyle Fest) v.v.  

Trong nỗ lực bảo tồn văn hóa Việt, Trung tâm Hội Người Việt là điều hợp viên của một hội đồng điều hành chương trình sinh hoạt của cộng đồng hàng năm. Như đã nêu trên, mỗi biến cố/lễ đều được hội đồng cắt cử một hội đoàn chịu trách nhiệm tổ chức và mọi thành viên đều có trách nhiệm đóng góp nhân và vật lực cho biến cố/lễ đó. Những ngày sinh hoạt chính trong lịch chung của cộng đồng là: Tết Nguyên Đán, Giỗ tổ Hùng Vương, Ngày Quốc Hận, Lễ Hai Bà Trưng, Pinic Cộng Đồng, Ngày Quân Lực, Tết Nhi Đồng, Ngày truyền thống Mỹ Việt (Memorial Day), Ngày Đại Hội và gây quỹ của HNV. Lợi dụng những kỳ lễ quan trọng, hội cũng đã bảo trợ và tổ chức hội thảo đặc biệt mời những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ trình bày cho công chúng.  

Để đối đầu với những biến cố quan trọng ở quê nhà, hội đồng nầy luôn luôn cọng tác với nhau một cách rất là chí tình như tổ chức biểu tình ngày quốc tế nhân quyền để đấu tranh cho những người bị đày đi lao động ở Đông Âu hay Tây Bá Lợi Á hoặc tranh đấu cho quyền lợi của đồng bào tỵ nạn bị áp bức ở các đảo bên Đông Nam Á.  

Công tác quan trọng nhất và liên tục của Trung tâm Hội Người Việt là thường xuyên đấu tranh hay tư vấn cho chính quyền liên bang cũng như tiểu bang trên các chính sách về an sinh liên quan đến đời sống của người tỵ nạn. Hàng năm vị giám đốc trung tâm Hội Người Việt ít nhất một lần về thủ đô để họp tư vấn (consultation meeting) với Bộ Xã hội hay Tổng Nha Định Cư và Tỵ Nạn (DHS hay ORR). Những buổi họp nầy rất quan trọng cho việc dự phóng một chính sách về an sinh xã hội cho toàn nước Mỹ đôi khi còn ảnh hưởng đến chính sách tỵ nạn toàn cầu.  

Qua những thăng trầm của cộng đồng Việt Nam tại Chicago 25 năm qua, chúng tôi nhận thấy:  

1. Dù rằng ta hiện diện trên phần đất của Tây bán cầu nầy mới 25 năm nhưng có thể nói ta đã vượt xa nhiều sắc dân khá về góc cạnh tổ chức xã hội. Khi chúng tôi thành hình cơ cấu thành lập Trung tâm hội Người Việt thì hội CASL (Chinese American Service League) cũng bắt đầu dù rằng người Hoa đã hiện diện trên phần đất nầy trên trăm năm. Phố Tầu cũng đã sinh hoạt mạnh mẽ lâu đời. Nếu so về dân số thì dân số  của chúng ta chỉ là một con số khiêm nhường.  

2. Chúng ta đã khởi sự mọi sự từ con số không, từ hai bàn tay chai ngắc của chúng ta.  

3. Chúng ta thường tự trách mình không đoàn kết, chúng mình ưa cấu xé lẫn nhau. Nếu chúng ta đi sâu vào lòng đại chúng, chúng ta sẽ nhận thức được rằng, bệnh chia rẽ là bệnh chung của con người. Con người luôn luôn háo thắng. Người Pháp đã chẳng nói: ềÕLa raison du plus fort est toujours la meilleureỪ. Thật ra có ai chịu cho mình yếu kém thua thiệt. Ai cũng thích vỗ ngực xưng tên mình là kẻ mạnh. Dù cái mạnh ở đây không đủ lý để chèn ép người khác như ý của câu ngụ ngôn LaFontaine trên. Đều đáng nói là người Việt Chicago dù sao cũng hơn nhiều cộng đồng Việt ở nơi khác vì còn tôn trọng cái ý của nhau để rồi ngồi chung với nhau, chung vai với nhau gánh vác trách nhiệm và để làm gương tốt cho con cái sau nầy noi theo. Cộng đồng của chúng ta vẫn có nhiều cái đẹp, cái đẹp của con cái ngoan hiền, vợ hiền, dâu thảo. Cái đẹp của các đấng trượng phu biết lo tề gia đồng thời cũng vác ngà voi không biết mệt trong tình bọc Mẹ Trăm con.  

Trong phần kết luận nầy chúng tôi không quên ơn Hội Travelers & Immigrants Aid (TIA), nay đổi thành Heartland Alliance for Human Needs & Human Rights, trong hai mươi lăm năm qua ngoài tài trợ cho nhiều sinh hoạt của công đồng, đã cho nhân viên có nhiều thì giờ và phương tiện dấn thân hoạt động ích lợi cho cộng đồng tỵ nạn nói chung và cộng đồng người Việt nói riêng. Nhờ hội TIA với chính sách và đường lối ềGiúp người là tạo điều kiện cho người tự giúp mình trong tinh thần hòa hợp văn hóaỪ mà chúng tôi mới có thêm nhiều dữ kiện và góc cạnh để viết những trang Hai Mươi Lăm Năm Xây Dựng Cộng Đồng Chicago

Nguyễn Đức Trọng  

(Rằm tháng Bảy Năm Canh Thìn

Thư Mục 

Thơ

Đổi Thay  
Những Đoản Khúc
Tơ Vò
Hương Phai 
Thi Đàm /Thi Họa

Kịch Thơ 

Cô Hàng Nước  
Ngồi Đợi Bình Minh

Truyện Dài

Cơ Trời Vận Nước
Trầm Bay

Truyện Ngắn

Bước Hổng Chân Không
Ba Con Yến Nhỏ
Cây Cà Rem Đầu Đời

Sưu Tập

Ca Dao

Huy Chương VNCH

Huy hiệu QL/VNCH

Huy Hiệu QĐ Pháp/Đ-Dương

Tiền Tệ
Quân Sử VNCH

Điếu Tế 

Văn Tế
Điếu Văn
25 Năm Xây Dựng CĐ
Hot Links
Ha Huyen Chi
Gia Đình Võ Bị
All Links

Miếng Ngọt Quê Hương

Thực Vô Cầu Bão
Cá Kho
Món Xào

Send mail to haphuonghoai@gmail.com with questions or comments about this web site.
Copyright © 2003 Haphuonghoai
Last modified: 01/29/13