Ta ngồi đây trên đồi Tăng Nhơn Phú
Chiều đong đưa tiếng đại pháo ru về
Mẹ hiền xa nơi phương trời
người t́nh xa nơi phương người
ḷng lạnh giá những đêm mong chờ trăng sáng.
Ôi hoàng hôn tâm hồn lên sương khói
Nh́n mây trôi cứ ngỡ tóc em mềm
Ḷng gởi theo theo mây trời
về một phương ta dâng đời
Và lời hát thiết tha ru cuộc t́nh khơi.
Đôi khi ôm súng leo lên đồi cao
hát cho xanh tuổi người
Hát cho phai tuổi trời
Em ơi hai mươi mấy năm rồi
con ngựa hoang mong t́m về
trên đồng cỏ non.
Ta ngồi đây mơ chiều Tăng Nhơn Phú
nh́n hoa rơi nhớ người đến vô vàn
Ngựa hồng ơi bao năm rồi
tàn cuộc vui sao quanh đời
c̣n vọng măi chút hương xưa
ngày thơ ấu
Ta ngồi mơ Thu vàng em yêu dấu
Mùa Xuân xanh tóc dại chớm ưu phiền
Nh́n đồi xa xa muôn trùng
Mịt mờ xanh xanh cây rừng
Gh́m chặt súng hát ru cuộc t́nh mù sương...
Thủ
Đức ...
gọi ta về
Viết từ
đồi Tăng Nhơn Phú
hỡi Na,
những Na và Lư
bài thơ này
quà tặng hai người
có chồng đi
xa làm lính
....
này Lư, này
Lư thân mến
bạn có biết
viên đạn đó bay đi đâu không
nó rơi vào
hồn chúng tôi và nổ
(T́nh Khúc
Cuối Cùng ở K.B.C 4100,
Luân
Hoán và Cao Thoại Châu viết chung)
|
|
|
|
Thế hệ
chúng tôi đă mang đầy vết sẹo.
Vết sẹo
ngoài thân và vết sẹo trong hồn.
(Trần Hoài Thư)
|
|
|
Cất tiếng
đ̣i to. Tiếng đ̣i rơi rụng
Những âm
thanh làm sẹo ở trong hồn...
(Bây giờ,
Nguyên Sa) |
(Trần Hoài Thư)
Vết sẹo từ
một cuộc chiến tàn khốc. Vết sẹo từ những kẻ sinh lầm thế kỷ.
Vết sẹo từ một quân đội bị bức tử. Vết sẹo từ những nhục nhằn tù
tội. Vết sẹo từ những chiếc mă tấu của lũ hải tặc. Và vết sẹo từ
những cay đắng e chề của kiếp người bỏ xứ lưu vong. Chúng hành
hạ. Chúng ngủ rồi thức. Chúng tiếp tục quấy rầy. Chúng không có
lời giải. Như vậy, lấy ǵ để ta bám vào mà sống. Lấy ǵ để ta
ngẩng đầu, ít ra, trong những ngày c̣n lại ?
Trong
building tôi làm việc có một người cựu chiến binh da đen. Anh
chỉ có mặt ở VN chưa đầy một năm, nhưng h́nh như VN đă làm anh
tự hào khi nhắc đến. Anh luôn luôn khoác chiếc áo lính trận màu
xanh olive, cũ mèm, và trên ngực áo của anh không phải đeo huy
chương nhưng những huy hiệu đơn vị cũ. Trên mũ anh cũng vậy.
Những huy hiệu cho tôi biết anh thuộc Sư đoàn 1 kỵ binh không
vận Hoa Kỳ, mà bản doanh Bộ Tư Lệnh đặt ở An Khê.
Vâng, có ǵ
để anh phải mang chiếc áo trận kia mỗi ngày? Đó không phải là
niềm tự hào hănh diện?
C̣n tôi, tôi
cũng đang tự hào đây. Tôi cũng mang lại chiếc áo lính đây. Tôi
cũng đội lại chiếc mũ rừng đây. Tôi cũng tự hào xuất thân từ một
ngôi trường, mà đa số thuộc thành phần kẻ sĩ đây. Nó đă khiến
tôi thêm một lần nữa ngẩng đầu. Và khi người cựu chiến binh Mỹ
biết được cấp bậc của tôi, anh ta chào tay tôi. Vâng, tôi đă
chào anh lại. Cũng như ngày xưa những người lính thuộc Sư đoàn
Không Kỵ kia đă chào. Tôi chào v́ tôi vẫn là một người sĩ quan
Thủ Đức.
Tôi không hổ
thẹn. Tại sao lại phải hổ thẹn? Tôi không cảm thấy nhục nhả. Tại
sao lại cảm thấy nhục nhả?. Tại sao người cựu chiến binh da đen
ấy giờ phút này vẫn c̣n mang mỗi ngày chiếc áo màu xanh rừng ấy?
Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thông cảm nhau mà thôi.
Như vậy là
Thủ Đức đă miên triền thúc dục ta phải viết. Viết cái ǵ cũng
được. Bởi v́ từng hạt bụi cũng là dính dấp đến mồ hôi và nhục
nhằn của ta. Một hạt cát cũng làm đau thốn bàn chân của ta. Thủ
Đức gọi ta về. Ai gọi đây, hay là tiếng tù và đă rúc lên trong
những ngày đen tối. Ai gọi đây. Hay là tiếng gào thét xung phong
đă ch́m im dưới những ngôi mộ oan khiên ? Thủ Đức gọi ta về. Có
đủ để nói lên tất cả những ư nghĩ thầm kín nhất của ta, bạn bè
ta, để cho con cháu ta đọc, hay để cho những người từng là kẻ
thù của ta đọc, và hiểu rơ hơn về những người mà họ kết tội là
hăm hiếp phụ nữ, giết trẻ sơ sinh. Hăy viết đi. Thủ Đức gọi ta
về. Một người khoá 13 TĐ kể lại lần về VN vừa rồi, anh em khoá
13 TĐ cùng rũ nhau họp mặt rất cảm động. Đêm đó, ai cũng ôm nhau
mà khóc mà cười.
Vâng, c̣n ta.
Ta nên khóc hay nên cười hay nên im lặng. Lời kể của người bạn
đă làm ta càng muốn viết hơn bao giờ. Hăy thử nhắm mắt lại, và
thử tưởng tượng một buổi họp mặt Thủ Đức tại quê nhà. Đa số đều
bị thương tật. Bởi v́ khoá 13, cấp bậc họ ít nhất cũng là đại
úy, hội đủ điều kiện qua Mỹ. Và tuổi họ đă quá 50 hay gần 60.
Đáng lẽ họ là thành phần bất măn nhất, bởi v́ hầu hết bạn bè
đồng khóa đều hưởng quyền lợi HO, trong khi họ, mắt mù, chân tay
cụt, què. Họ đă bị thải ra ngoài cuộc chiến quá sớm. Họ đă bị xă
hội mới trù dập hơn những người khác, bởi v́ họ là sĩ quan.
Nhưng họ vẫn có mặt. Dù không có hội trường, tranh ảnh, bích
chương, biểu ngữ, ca nhạc, dạ vũ, diễn văn khai mạc, bế mạc. Họ
vẫn có mặt bởi v́ hơn bao giờ Thủ Đức gọi ta về. Người bạn nói
là anh đă khóc trước mặt họ. Anh không thể hiểu là trong những
con người đầy bất hạnh như thế, tiếng gọi về của ngôi trường xưa
lại thúc dục mọi người. Sài G̣n xuống. Vĩnh Long qua, Rạch Giá
về. Và cả ba, bốn chục người. Họ chống nạng, mang kính đen, ống
tay áo phơ phất, và mái tóc bạc phơ. Họ ngồi quanh bàn tiệc,
cùng nhau kể lại, và ráng nhớ lại những người cùng khoá chết hay
c̣n sống. Họ nhắc lại kỷ niệm. Và họ nâng cốc.
Họ không nói
ra, nhưng chắc chắn là tim họ đă nẩy nở niềm tự hào.
Vâng, ta biết
rồi. Ta cúi đầu ngưỡng mộ các niên trưởng của ta. Một bửa tiệc
hội ngộ th́ vẫn như trăm ngàn vạn bửa tiệc hội ngộ khác. Như hội
ngộ cựu học sinh trường...Như hội ngộ làng, xóm...Tất cả vẫn là
sự mừng vui tao phùng. Tất cả là những kỷ niệm của một thời. Tất
cả là kẻ xa kẻ gần huyên thuyên tâm sự. Và bia và rượu và tiền
bạc đô la. Nhưng ở buổi Thủ Đức gọi ta về này, nó mang một ư
nghĩa khác. Nó là một cuộc thách đố. Nó nói rằng, dù Thủ Đức đă
mất, bạo lực thống trị, nhưng tinh thần Thủ Đức vẫn c̣n. Nó nói
lên sự thách đố của người Thủ Đức trong một hoàn cảnh đầy đe doạ
và bất trắc.
Như vậy mà họ
lại đến với nhau. Tại sao vậy.
Tại sao vậy?
Hăy uống dùm đàn em một cốc rượu, để đàn em có thể diễn đạt trọn
vẹn về một cuộc hội ngộ khoá 13 TĐ tại Cần Thơ. Để đàn em có thể
thấy những người muôn năm ấy, hôm qua tụ hội trở về. Để đàn em
có thể h́nh dung ra những ngọn gió từ lâu đă mất bây giờ trở
lại, mang theo huơng mùi thân quen của những cây đào lộn hột,
hay những hoa dại từ hai b́a đường từ cỗng số 9 ra Băi bắn. Để
đàn em được sống lại trong một giờ một phút cùng Thủ Đức, giữa
lúc bộ bán cầu năo đang bị hao ṃn. Hay là tiếng mớ thảng thốt
của người bạn, tội nghiệp, không quen cam khổ hay là vầng trăng
soi trên quân trường, lạnh lẻo và cô đơn. Thủ Đức gọi ta về.
Không phải về để mà than khóc, tiếc nuối cái hào quang, hay ngậm
ngùi cho một cuộc bể dâu dâu biển. Mà trái lại, về để mà nung
thêm lửa vào trái tim, để mà tự hào và hănh diện. Về để mà nh́n
lại một thời, ít ra, ḿnh làm được một điều ǵ đó không hổ thẹn
cùng lương tâm của ḿnh và con cháu ḿnh. Để chúng càng thuơng
phục cha anh chúng hơn bao giờ.
Bởi v́ cha
anh chúng đă sống như thế đó. Khổ như thế đó, chấp nhận như thế
đó. Rằng cha anh chúng đă được sinh ra trong thời nhiễu nhương
như thế. Họ không muốn đi lính nhưng vẫn phải đi lính. Họ chẳng
bao giờ mơ đến hoa mai vàng trên cổ áo mà vẫn có hoa mai. Dù hắn
không thích chiến tranh nhưng hắn cũng vẫn có mặt trong guồng
máy, và chấp nhận để trở thành một người lính trận.
Bây giờ,
chúng tôi là kẻ sống sót. Đáng lẽ chúng tôi phải sợ nh́n lại quá
khứ, sợ nhắc lại màu áo trận xưa. Đáng lẽ chúng tôi phải toát mồ
hôi hột khi nhớ lại một thời mà con kiến cũng không lọt được bom
đạn, để mà cố hưởng cuộc sống mới ở cái xứ mà hầu hết mọi người
trên quả địa cầu này đều mơ tưởng: American dream. Nhưng tại
sao, chúng tôi vẫn nhớ đến hôm qua. Nhớ như nhớ một cái ǵ không
c̣n t́m được. Nhớ trong khi người ta cố lăng quên. Nhớ để như
hôm nay, trời lạnh, ta mang lại chiếc áo jacket màu olive để đến
sở, để trùm cái mũ đội đầu như ngày xưa ta vẫn từng trùm vào
những đêm trên Trường Sơn. Và đôi khi mắt phải mờ đi khi xe ta
qua một ngọn đồi sương mù dày đặc. Nhớ như thể nhớ một t́nh nhân
đầu đời.
V́ sao? V́
danh vọng, hay địa vị hay quyền lực để mà nuối tiếc? Không. Ta
là cấp thấp, một sĩ quan cấp úy nhỏ nhoi, chỉ chỉ huy một trung
đội tối đa 20 người. Hay là tại v́ đời lính tang bồng hồ thỉ,
màu áo hoa dù, nhiều em gái hậu phương. C̣n khuya. Những vũng
bùn śnh vẫn c̣n ngập lụt giao thông hào. Đạn trái phá vẫn như
c̣n gào thét bên tai chưa kịp hoảng hồn th́ tiếp đến mưa đạn
trái pháo khác.
Th́ v́ sao?
Phải, ta biết
rồi. V́ không có mái nhà nào đầy t́nh nghĩa như mái nhà hôm qua.
V́ trong cơi hoạn nạn vẫn c̣n nở những nụ hoa, trong cơi lầm
than vẫn c̣n thấy những điều hạnh phúc. V́ ta được sống ở đây,
đâu phải số nghiệp của ta, mà là nhờ ta đă mang cái màu áo trận
của một thời.
V́ sao. V́
trong máu huyết của chúng tôi, chất lính vẫn c̣n chảy đậm. Nó
giúp chúng tôi vươn lên sau những lần ngă quị.
V́ sao. V́ có
những bạn bè đồng đội, và cấp chỉ huy của chúng tôi đă mở chốt
lựu đạn, đă lấy súng kê vào màng tang của họ để bóp c̣. Họ đă
làm chúng tôi phải tự hào được mang cùng một màu áo...
V́ sao. V́
càng ngày chúng tôi càng hiểu rằng, việc chiến đấu của chúng tôi
là đúng. Cho dù chúng tôi là kẻ thua trận.
...Bây giờ
chúng tôi đă mất hết, may chỉ c̣n lại cái danh dự của một con
người. Danh dự đă nuôi dưỡng chúng tôi, giúp chúng tôi c̣n đứng
thẳng mà không hổ thẹn với con cháu và người bản xứ.
Danh dự của
một người cựu sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức. V́
chúng tôi đă chu toàn bổn phận rất khiêm nhường của một người
lính. Chúng tôi đâu có để nơi chúng tôi ǵn giữ bị mất. Chúng
tôi đâu có để pháo địch bắn vào thành phố khi chúng tôi được
lệnh bảo vệ ṿng đai. Chúng tôi không có ra lệnh rút lui mà chỉ
ra lệnh xung phong chiếm mục tiêu. Chúng tôi không bao giờ căi
lệnh dù cái lệnh ấy là cái lệnh thí quân ngu xuẫn. Chúng tôi đă
đánh giặc với trái tim đầy nhân bản. Chúng tôi không hổ thẹn bỏ
rơi đồng đội. Chúng tôi đă ngẩng đầu khinh mạn dù chúng tôi ở
trong tù tội... Chúng tôi cũng mang trên vai những tấn nợ như cả
miền Nam đă mang. Chúng tôi cũng đă vác thập tự giá trên những
triền đá sắc của quê hương đất nước như cả một thế hệ đă vác.
Chúng tôi là
những người tốt nghiệp từ Thủ Đức, một quân trường đào tạo trung
đội trưởng bộ binh trong ṿng chín tháng. Nó là nơi mà một ngài
cựu đại tá tâm sự là sợ phải đâm lưỡi lê vào tim người nên không
dám đầu quân vào bộ binh. "Đầu tiên, tôi được lệnh đi khoá Một
Nam Định. Nhưng nghĩ lại cái cảnh phải mang súng trường gắn lưỡi
lê đâm vào tim người cho dù là h́nh nhân đi nữa, tôi phát sợ.
Cuối cùng tôi đầu quân vào đơn vị khác. Dầu là hiện dịch, nhưng
chắc ăn". Nó cũng là nơi mà một cựu thiếu tá phải thú thật rằng,
lư do ông không vào Thủ Đức bởi v́ ông sợ chết... Thủ Đức chết
nhiều quá...
Vị đại tá kia
có lư của ông. Bởi tâm ông là tâm hiền. Không thể bắt ông cầm
súng gắn lưỡi lê để đâm vào tim người được. Cũng như vị thiếu tá
kia. Ông đă dám nói thật. Thật về cái ư nghĩ, tâm trạng thầm kín
nhất giữa lúc người ta không dám nói.
Và đó là lư
do chúng tôi phải tự hào thêm một lần nữa. Chúng tôi đă chấp
nhận đến một quân trường mà hai ông sĩ quan cấp tá đă sợ và t́m
cách xa lánh. Nó là nơi mà chúng tôi, những người cùng chung một
số phận, chung một định mệnh, đă nương tựa lẫn nhau, đă chia xẻ
cùng nhau cái nghiệp của người thanh niên trong thời loạn.
Nhưng ai có
thể dám nói rằng, những thầy giáo, những kỹ sư, sinh viên hay
những kẻ thi rớt tú tài 2 là những kẻ khi đánh giặc th́ ở đàng
sau, khi tan hàng th́ chạy trước ?
Xin hăy đọc
dùm những hàng sau đây viết về ngày cuối cùng ở truờng Bộ Binh
Thủ Đức để hiểu rơ hơn:
"...Chiếc T54
bắn một hồi rồi di chuyển về phía cổng số 9. Nhưng cổng này đă
bị 4 chiếc xe đậu chặn ngang đường. Nó lại chạy ra cổng số 1.
"Nó chạy ra ḱa." Một sinh viên sĩ quan la lên. Các tổ M72 thi
nhau nhả đạn. Chiếc chiến xa T54 lần này cũng may mắn không bị
cháy nhưng bị đứt xích, nó cố gắng lết ra đến Niệm Phật Đường
Quảng Đức Chợ Nhỏ quay pháo tháp vào trong trường và nhả đạn như
mưa.
Trước t́nh
h́nh nan giải này, hai khóa sinh chưa được gắn cấp hiệu alpha,
đă t́nh nguyện mỗi người mang 4 trái lựu đạn lân tinh ḅ ra tiêu
diệt chiến xa địch. Họ đă ḅ qua mấy đường hẽm ở Chợ Nhỏ tiến về
phía sau Niệm Phật Đường cạnh chiếc T54 vẫn đang nhả đạn vào
trường. Bỗng một quả cầu lửa nổ tung, tiếng nổ long trời, một
cột khói đen hừng hực bốc lên như hàng chục trái ḿn chống chiến
xa cùng nổ một lúc.Tiếng reo ḥ vang lên từ những vị trí pḥng
thủ: "Chiến xa cháy rồi. Nó cháy rồi." "
(trích Ngày
Cuối cùng tại trường Sĩ quan Thủ Đức của Minh Tân Lê Quảng Trị,
KBC số 22)
... Đêm đầu
tiên tại ngôi trường lính là đêm xuống tóc. Đêm vĩnh biệt cuộc
đời dân sự, chào tay tự do muôn năm, giă từ những đám mây bềnh
bồng của tuổi trẻ. Ôi những sợi tóc xanh của một thời mộng mị,
xanh mướt cơn mơ, mà cũng đầy những màu buồn bă của một thế hệ
chiến tranh, với một vài sợi trở thành bạc trắng, lẻ loi, ngơ
ngác làm sao. Những mái tóc đă một thời chải chuốt, trang điểm
cùng đời. Những đầu tóc đă một thời để dài nổi loạn. Những dấu
vết thanh niên ngậm ngùi từng cuộn, từng đám bay xuống thềm,
rụng xuống đất, hay vương vít trên chiếc khăn trắng choàng quanh
cổ. Ai buồn ai vui ai trong đêm xuống tóc. Ai nhỏ lệ ai mừng vui
ai hănh diện ai cợt đùa. Chiếc tông đơ tàn nhẫn ủi rạp, cắt
ngang không thương không xót. Không cần nh́n vào tấm gương cũng
biết h́nh bóng ta như thế nào. Bởi ta đă thấy ta qua những người
bạn cùng cảnh ngộ. Kỳ lạ. Lạ kỳ. Ta không muốn nhưng ta vẫn chào
thua. Ta không thích nhưng ta vẫn bị ép. Ta cúi đầu, nh́n tóc ta
nằm tung vải tội t́nh. Ta mặc niệm một thời trên những sợi đen
như mun, như hồn ta cũng đầy những băi mồ nhang khói. Tóc ơi.
Tóc ta để dài như đời ta buông thả. Tóc ta biếng lười ủ rũ như
nỗi chán chường nôn mửa hiện sinh. Thế mà bây giờ, như thế đấy.
Không cần biết ta là ai. Không cần tôn trọng ta là ai. Ta đă
không c̣n là ta nữa.
Đêm đầu tiên
lạ lùng làm sao. Sự thay đổi đến kỳ cục. Từ một thế giới bao la
mênh mông, ta phải chạm trán một thế giới tù túng, chật chội,
rập khuôn của tập thể. Ngoài đời, ta chỉ biết có ta, không cần
nhớ số kiểm tra, căn cước, khai sinh, ngày sinh tháng đẻ. Nhưng
ở đây ta bắt đầu phải nhớ. Đó là số quân. Số quân là ta. Ta là
số quân. Ta phải dùng nó khi tŕnh diện. Ta phải khắc nó vào thẻ
bài. Ta phải nhớ nằm ḷng khi gặp cán bộ. Ta chính là cái máy có
nhản hiệu không phải nhản hiệu con người mà nhản hiệu đầy những
con số. Sự thay đổi khiến ta trở thành thụ động. Thụ động và
chấp nhận. Không cần biết cái lệnh kia đúng hay sai. Thi hành
trước khiếu nại sau. Không cần biết lư lịch căn gốc, không cần
biết bạn là kỹ sư tôi là thầy giáo, bạn là kẻ t́nh nguyện và tôi
được hoăn dịch nhiều lần. Không cần biết bạn có lư tưởng ngút
trời c̣n tôi th́ Ta hỏng tú tài, ta đợi ngày đi đau ḷng ta muốn
khóc...
Rồi chúng ta
được phát quân trang, quân dụng. Rồi được chích thuốc làm quen
mưa quen nắng. Chỉ chích một lần. Nhưng là một lần để đời. Cả
đêm thuốc hành đến nóng sốt, và mấy ngày thuốc làm vật vả làm
vết chích sưng đỏ cả cánh tay. Rồi, những thằng lính mới ṭ te,
trong những bộ quần áo khác cở, rộng thùng th́nh, đội chiếc mũ
beret đen, bắt đầu xuất hiện, bên cạnh những người sinh viên
khoá đàn anh. Rồi những lần chào tay rụt rè lúng túng. Rồi dần
dần ta càng biết thêm về ngôi trường. Về chín cổng quân trường,
về F(Pḥng), K(Khu), B(Băi), khu thiết giáp, trại gia binh, hội
quán sĩ quan, 301, chỗ nào dễ dàng chui rào trốn trại...Ta mới
khám phá cả những dịch vụ âm thầm mà mạnh mẽ nhắm vào ta. Từ hớt
tóc, sửa quần áo, giặt ủi, hay ăn uống, nhậu nhẹt, ghi sổ trừ
lương.
Ta mới biết
chị Năm, chị Tám, những người tiên phong trong việc phát minh và
áp dụng thẻ thiếu chịu trên hoàn cầu bằng những cuốn vở mà chúng
ta quen gọi là những trang nợ đời. Họ không tốt nghiệp trường
kinh tế tài chánh nào, nhưng họ đă biết rơ thói quen của con
người. Ăn trước tính sau. Họ cũng biết chắc là không ai có thể
quịt nợ họ được. Bởi v́ họ đă nắm chắc cái cán là tiền lương của
đám sinh viên chúng ta. Họ ngọt ngào lắm, dễ thương lắm, con gái
họ cũng xinh lắm. Họ nấu cơm tháng cho những sinh viên trưởng
giả. Họ cung cấp bia rượu dù ở đây chúng ta không được phép
dùng. Họ c̣n biết rơ hôm nay đại đội nào đi băi, ở băi nào, để
họ tăng phái đội quân bán hàng rong. Họ biết rơ hơn ai tánh t́nh
từng ông cán bộ, hay huấn luyện viên. Họ hiệp cùng Ban quân
lương thẳng tay trừ nợ sinh viên không thương xót. Họ đă đi vào
đời sống của chúng ta từ khoá này qua khoá khác. Cần ǵ mơ được
nổi danh, nổi tiếng, hay nhiều người biết. Chị Tư, chị Năm, chị
Tám, ai lại không biết, và ai lại không bồi hồi khi nhắc lại
những bà chị sẵn sàng cho chúng ta ăn uống thả dàn, ghi sổ thả
cửa. Để ta c̣n t́m lại những ǵ đă mất sau khi vào trường lính.
Trong bóng lờ mờ của ánh điện vàng, bóng ta bóng bạn lay động
trên vách. Thủ Đức đầy ấp gió. Những ngọn gió từ khắp hết trời
quê hương. Để đêm nay, gió làm mái tóc cô hàng tung toé. Ta mang
gió cho cô hay là cô mang gió cho ta. Ôi, những ngọn gió quân
trường. Càng lên cao càng lộng. Gió cuốn bụi đỏ trên băi bắn hay
băi ḅ hỏa lực. Gió làm lá cao su trên đồi rụng đầy. Gió đă đẩy
đưa những định mệnh có cùng một mẫu số chung, góp lại thành băo.
Băo là sức mạnh. Quân đội nói thế. Nhưng ta th́ chẳng cần những
mỹ từ dân vận tâm lư chiến ấy. Ta chỉ cần: Ta mang gió núi miền
Trung lại. Em sưởi dùm ta một mảnh t́nh. Đôi khi thấy lá vàng
Nhơn Phú. Ngỡ hồn ḿnh hiu hắt vàng thu. Như vậy, ta cần phải
cảm tạ một chỗ bên đời gian khổ. Dù chỉ là một hai tiếng đồng hồ
được quyền tự do sau giờ ăn, ta vẫn không quên la cà những quán
bên đường trong khu Thiết Giáp. Để ta c̣n khuấy cốc xây chừng,
để ta c̣n uống thêm nét buồn vời vợi, để em c̣n ghi tên ta trên
cuốn sổ nợ đoạn trường trước khi ta xuống núi.
C̣n nữa. C̣n
hội quán sinh viên sĩ quan rộng mênh mông. Nơi cà phê không ngon
không vị, nhưng có cô hàng có bờ lông măng rất mượt, khiến mỗi
lần nh́n mỗi lần động đậy tà dâm. Em không cho ta ghi sổ nhưng
em đă cho ta ghi em, một bóng hồng rất hiếm muộn tại ngôi trường
lính.. Em của ngày xưa, ba mươi năm về trước. Xin em cho ta được
trở về một thời tuổi trẻ. Ta sẽ gắng nhớ, gắng cảm nhận những
giọt mồ hôi vàng. Những giọt mồ hôi vàng đọng lóng lánh trên
vầng trán của bạn bè ta dưới vành nón sắt. Để ta c̣n thấy ta,
thấy cả bè bạn. Em có thấy trên vách tấm tranh vĩ đại mà khoá
đàn anh ta đă vẻ không?. Màu đỏ. Màu đen. Người sinh viên bắn
cung. Ta nghe ai nói người họa sĩ kia đă tử trận. Th́ ta đang
tiếp anh ta đây.
Ta đang nhớ
về Thủ Đức như bạn ta đang nhớ. Có phải đêm qua gió quá dữ để
băi bắn rụng đầy lá cao su. Và quân trường những cơn mưa lá ngâu
đă rụng xuống doanh trại. Gió lộng như từ tứ phương tụ hội về
đồi. Gió mang suốt ngày khắp nơi vang vang lời ca Đường trường
xa và nhịp đếm Một Hai Ba Bốn. Ô hay, ta gầy c̣m, trên dưới 40
kư, thế mà cũng chịu đựng được sao. Quân trường đổ mồ hôi. Chiến
trường bớt đổ máu. Kinh nhật tụng cho giai đoạn một. Tay ta trói
gà không chặt mà đ̣i đánh một hai. Hai chân ta đôi khi luống
cuống, bước không đúng nhịp mà đ̣i đi diễn hành cuối khoá. Ta
tập quay trái, quay phải, quay đằng sau. Chân trái phải xê dịch
như thế nào, chân phải phải quay ra làm sao. 90 độ. Phải rán
tập trung trí óc. Chụm chân lại. Rồi quay 90 độ. Phải rán nghĩ
trong đầu. Khi đi phải bắt đầu bằng chân trái. Rán mà nhớ. Ta
chẳng khác một tên học tṛ lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái roi
mây của thầy. Ngày nhỏ, ta tập lính bước một hai, khẩu súng là
cuống chuối hay khúc gỗ mang lên vai. Bây giờ, ta cũng vậy. Vẫn
là một tṛ chơi bất tận. Nhưng thời nhỏ dại ấy lại quá dễ dàng,
cớ sao bây giờ lại quá khó. Bằng chứng là ta bị phạt liên miên.
Bây giờ, quá
xa, quá lâu để mà nhớ về những ngày tháng cũ, nhưng h́nh như bên
tai ta vẫn c̣n văng vẳng tiếng hát vang lừng từ một góc trời
Tăng Nhơn Phú. Cám ơn nó, bởi v́ nó khiến ḷng ta ấm lại giữa
lúc tiếng gọi đ̣ chiều đă dục. Không biết tới chuyến nào sẽ chở
đời ta qua bên sông cô tịch. May mà tiếng hát nào như gió băo
đánh bạt cái ư nghĩ đen tối bi quan. Ta đă dứng dậy đến bên
khung cửa. Dưới ánh điện đường trong một đêm về sáng, ta thấy
lại một vũ đ́nh trường, với những ống đạn pháo binh sơn trắng
bao quanh, ta thấy lại những đại đội đang xuôi ngược diễn hành.
Có khi hai đại đội cùng di chuyển đối đầu nhau, và một bên dậm
chân tại chỗ, chờ bên kia vượt qua. Không ai bận tâm lấy ai.
Phải nh́n thẳng. Phải ca phải hát. Lính phải hùng. Gió làm lời
ca bay bổng trên chín cổng, vang khắp băi đồi. Khi hai chân ta
bước nhịp, hai tay ta đánh theo, miệng ta cất lời, th́ bạn ta
cũng vậy. Tất cả sẽ tạo nên một tập thể đồng nhất, tiến về phía
trước. Trời ơi, cả một rừng cờ sắc áo như thế, khoá này tiếp đến
khoá khác, biết bao nhiêu bước chân tập tành để chuẩn bị cho một
cuộc lên đường, để rồi, vũ đ́nh trường giờ đây chỉ c̣n lại một
băi mồ hoang phế. Tiếng ca hùng tráng ngày ấy đâu rồi. Tiếng hát
đă một lần lồng lộng cùng lá cờ giữa sân ngôi trường lính ngày
ấy đâu rồi. Cổ họng ta đă một thời gào to cùng tiếng ca lời hát,
thế mà bây giờ nó nuốt vào đến nghẹn những bài hát kỳ lạ, lạ kỳ.
Những bài hát của kẻ thắng trận. Hăy quên. Hăy quên. Làm sao ta
có thể quên được. Họ vẫn cho ta ăn dù khẩu phần c̣n thua một con
chó. Họ vẫn cho ta làm, họ vẫn cho ta hát ca... Băo nổi lên rồi.
Chỉ nhớ bốn chữ. Kẻ thua trận hát về trận băo cuốn lốc đời hắn,
bắt hắn phải bị đày đọa mất nhà mất cửa, xa vợ xa con. Kẻ thua
trận gân cổ ca Giải phóng miền Nam... Chỉ nhớ nổi 4 chữ. Hăy
quên. Người ta cấm ta hát ta ca, nên ta mới không bao giờ quên
những lời ca tiếng hát đă dạy ta khôn lớn. Như vậy ta làm sao
quên được.
Trong một đêm
về sáng, ta nghe tiếng động bên ngoài. Có lẽ trời đă nổi gió. Xứ
người. Ta đang ở xứ người. Ta không có ǵ để mơ ước nữa. Nhưng
rơ ràng tại sao hồn ta lại trôi dạt về một phương nào. Về một
nơi đă dạy ta, trui rèn ta, ít ra, sức mạnh về sự tự tin, để ta
c̣n dùng nó trong những ngày đen tối nhất.
Bởi v́, ta
biết ta sẽ làm được, như đă từng mang khẩu garant nặng nề, như
đă từng ḅ hỏa lực, leo dây tử thần, hay di chuyển bộ hàng bao
cây số trong khi thân ta chỉ là ngọn cỏ ngọn lau. Ta có thể làm
được, bởi mưa và nắng Tăng Nhơn Phú đă làm da ta đen và dày dạn
hơn, để ta làm quen với mưa và nắng của kiếp đời lính tráng và
tù tội.
Ngày c̣n dân
sự, mỗi lần gặp mưa là ta ho ta cảm. Khi trời mưa băo th́ ta
ngại ta chùn. Nhưng quân trường đă dạy ta, cứ lao vào, lao mạnh
vào, bất chấp, càng mưa băo, ta càng khinh mạn, càng sấm sét ầm
ầm, ta càng lạnh lùng. Cảm tạ hai mùa mưa nắng, dạy ta gian
truân để ta mới vượt qua bao nhiêu thử thách. Không thể ngờ một
gă thư sinh, đôi mắt cận 7 độ, gầy như que củi, mang bộ đồ trận
như mang cái bao tải, vậy mà đă đi thứ lính thám kích chuyên
nhảy diều hâu bắt mồi. Không ngờ ta đă vượt qua tất cả những khó
khăn như mọi người. Không ngờ ta không bỏ cuộc. Cám ơn trường
lính dù không bao giờ ta muốn nó. Cám ơn nó đă bỏ đôi giày nhà
binh nặng trịch như hai ḥn đá vào hai bàn chân ta, bỏ khẩu súng
thép lên vai ta, cái ba lô và những sợi dây đạn trên lưng ta,
chiếc nón sắt trên đầu ta, để ta được làm quen với nỗi nhọc nhằn
của chung một thế hệ. Cám ơn trường lính, ít ra, những cơn mưa
vần vũ xối xả trên những băi bắn, băi tập kia, đă giúp ta c̣n
đứng vững cùng những thử thách lớn lao hơn, ghê rợn hơn từ những
cơn mưa oan khiên của Trường Sơn và của rừng khổ sai biên giới.
Cái thử thách của trường lính đă tích lủy lại trong da thịt,
trong buồng tim buồng phổi để ḿnh "tự thắng" lấy ḿnh. Học nhẫn
nhục. Học chịu đựng. Để rồi sau này, khi nằm trong tù tội, ta
lại thêm một lần mang bài học này ra áp dụng trước những cơn băo
cuồng điên của kẻ chiến thắng.
Trời lại nổi
gió. Sleepy Hollow, trủng ngủ, nhưng ta đang thức. Gió đă cuốn
cát bụi băi bắn làm che mờ tầm nhắm vào lổ chiếu môn. Gió làm
bạt những chiếc áo mưa lính, lất phất khi ta ngồi trên băi học
bài học về địa h́nh, hay phục kích. Gió làm cát vũ đ́nh trường
bay cuồn cuộn khi đại đội di chuyển qua sân cờ. Gió đẩy đưa
những kẻ lạ lẩm nay lại được quen biết nhau. Bạn từ Sóc Trăng,
ta từ Huế. Bạn nguyên là Thiếu sinh quân. Ta là giáo sư. Bạn
hiền như cục đất, da trắng như con gái. c̣n ta cận thị, gầy ṛm.
Để rồi bạn nằm giường trên ta nằm giường dưới. Để rồi tự nhiên
ta với bạn cùng chung trung đội, cùng bị phạt dă chiến chung,
hít đất nhảy xổm chung... Để rồi ta được cơ duyên được quen bao
nhiêu người khác, đến từ khắp nơi khắp chốn.
Đến để mà bỏ
một phần đời trong đấy. Đến để thừa hưởng từ khoá đàn anh, chiếc
giường sắt, cái tủ đứng, khẩu súng trường. Đến để tiếp tục những
ǵ như khoá đàn anh hôm qua đă trải qua. Và hết ngàn người này
đến ngàn người khác, cho một tṛ chơi triền miên bất tận. Không
biết chiếc giường ta đang nằm, ngày trước có một người đă từng
nằm, anh ta c̣n sống hay đă nằm xuống vĩnh viễn. Không biết bao
nhiêu người đă có mặt trong pḥng này và bao nhiêu người đă ra
đi. Đôi khi trong đêm ta thức giấc, thấy vầng trăng hiện ngoài
khung cửa pḥng, sáng vằng vặc, bỗng nhiên nhớ đến hai câu thơ
Chinh phụ ngâm: Chàng từ khi vào nơi gió cát. Đêm trăng này nghỉ
mát phương nao. Rồi ta cũng sẽ trở thành nhân vật chàng ấy, như
tất cả những người đă có mặt tại nơi này. Có điều khác với người
xưa, có người vợ, có người t́nh, có người lo sợ, c̣n chàng hôm
nay, không có ǵ hết. Cuộc chiến tranh này quả là mất dạy
nhất, chó đẽ nhất. Nó làm cha mẹ ta phải xa ĺa mỗi người một
ngă. Nó lại làm ta và em lại không được gần gũi nhau. Khi mà em
cứ xem ta là lính đánh thuê, th́ ta c̣n ai để mà làm kẻ chinh
phụ. Khi mà tâm trí em chỉ biết mơ đến hoàng tử hay những ngài
khoa bảng, kỹ sư, bác sĩ, giáo sư đại học, luật sư... th́ có ai
c̣n khóc dùm ta một giọt lệ thừa... Trong những đêm trăng như
thế, tự nhiên ḷng ta yếu mềm. Ta thèm những tiếng ngáy, tiếng
thở của bạn ta. Ta ao ước được nghe tiếng hát trong máy thu
thanh. Ta ao ước được mở đèn đọc một trang sách mới... Ta thèm
được ngồi vào bàn và viết. Nhưng ta đành bó tay. Rơ ràng ở đây
không c̣n quyền cá nhân nữa.
Bây giờ ta
mới thấm thía được thế nào là mùi quân đội, là cái gian khổ của
người lính mà từ lâu ta không thể h́nh dung ra nổi. Ta mới hiểu
được khẩu Garant là nặng như thế nào. Cái ba lô, nón sắt, dây
nịt đạn, đôi giày trận là nặng như thế nào. Ta chạy lên dốc mà
hai chân như quị xuống, để hiểu rằng, có những người lính binh
nhất binh nh́, những khinh binh, những người mang đại liên, súng
cối, họ c̣n cực gấp trăm ngàn lần hơn ta nữa. Khi ta di hành từ
trường ra băi, trên lưng trên vai chỉ bấy nhiêu thứ như poncho,
dây đạn, khẩu súng trường, mà ta thở hồng hộc, mà mồ hôi đổ ra
như tắm để hiểu rằng dưới ta, có những người lính cấp bậc thấp,
chiếc ba lô c̣n có cả mười mấy ngày lương khô gạo, áo quần, hai
lần cấp số đạn, lựu đạn... c̣n nặng gấp chục lần hơn những ǵ ta
đang mang nữa. Những con cá mối bất tận ở nhà bàn vẫn c̣n quí
gấp trăm lần chiếc lon guigoz âm ấp nước mưa của người lính
ngoài chiến trận. Ta chỉ di chuyển một hai cây số mà đă mỏi mê,
trong khi những người lính ngoài tiền tuyến th́ hết ngày này
sang ngày khác...
Bây giờ
khẩu garant ta mang trên vai
Bây giờ khẩu
trung liên bar ta mang trên vai
Ta mới biết
rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
Ta mới biết
rằng trong cuộc đời dạy học ta là một thằng dốt nát
Trong mười
mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
Trong mười
mấy năm ta không nói cho học tṛ ta biết
Anh em ta và
quê hương ta
Vác những
thỏi sắt nặng như thế
Từ bao nhiêu
năm nay
Bây giờ nằm
kích ở ven ruộng sương xuống ướt vai
Bây giờ đứng
gác đêm ở rừng già gió lạnh thấu xương
Ta mới biết
rằng sương lạnh như thế
Ta mới biết
rằng gió lạnh như thế
Ta muốn kêu
to lên ta là một thằng dốt nát
(Xin lỗi
về những nhầm lẫn dĩ vảng,
Nguyên Sa)
Bây giờ ta
mới hiểu thế nào là tập thể. Ta biết thế nào là tiểu đội trung
đội đại đội. Ta trần truồng như nhộng trong nhà tắm chung. Ta
vừa đi một hai như chú lính ṭ te vừa hát bài Lục quân Việt Nam.
Hai tay ta quị xuống, mông ta nằm rạp xuống tuyệt vọng khi ta bị
phạt cả trăm lần hít đất nhảy xổm. Ta bị phạt chạy ṿng ṿng
quanh sân đại đội, vừa chạy vừa gào. Ta bị đánh thức trong đêm,
hoảng hốt cuống cuồng, nghe tứ phương rầm rập bước chân, nghe
tiếng c̣i ré lên trong đêm đen tối, để năm phút là phải sẵn sàng
tŕnh diện. Để ba lô nón sắt, súng trường, đạn dược được khám
xét. Rồi sẽ có kẻ bị phạt dă chiến v́ tội lỡ quên... Trong bóng
tối, ta mang kiếng nh́n ta, nh́n bạn bè. Những bóng người mờ mờ
ẩn ẩn. Đêm đồi Tăng Nhơn Phú lành lạnh. Cái lạnh khiến ta thèm
được nhấp hớp cà phê và đốt thuốc. Nhưng ở đây cái lạnh lại kèm
theo cái lo. Lo cán bộ xét khám dây giày ta chưa buộc, cấp số
đạn ta mang không đủ, thẻ bài ta bỏ quên... Ta mới sợ những cơn
mưa và cái nắng nung người. Sẽ không c̣n là những hạt mưa tháng
sáu của Nguyên Sa:
Tháng sáu
trời mưa, em có nghe mưa xuống
Trời không
mưa em có lạy trời mưa ?
Anh vẫn xin
mưa phong tỏa đường về
Anh vẫn cầu
mưa mặc dầu mây ảm đạm
Bởi v́ đôi
giày ta cần phải bóng loáng như mặt gương. Ta mới hiểu thế nào
là lạnh, rét, là tầm nh́n hạn chế... Ôi cơn mưa Tăng Nhơn Phú,
xoá mờ băi bắn, run rẫy những hàng cây cao su như những con ngựa
rũ bờm. Ta mới biết thế nào là ḅ hỏa lực, ḅ sấp ḅ ngửa dưới
trời mưa hay dưới cái nắng cháy người. Thế nào giọt nước mưa hoà
cả mồ hôi và bụi đất của đồi của băi. Thế nào là ṇng súng, cơ
bẩm được giữ ǵn cho khỏi dính bụi dính nước. Thế nào là giọt
nước che mờ tṛng kính. Trường lính. Ta sợ gian truân nhưng ta
lại phải tập tành cùng gian truân. Hỡi em, người em Sài G̣n ta
không biết, không quen, mà sao ta lại thầm th́: Xin em hăy nghe
dùm ta mưa nặng hay không. Xin em hăy mang dùm ta chiếc áo mưa
màu tím hoa cà, và để đầu trần mưa đọng dầm lóng lánh. Ta c̣n
mấy tuần huấn nhục nữa, rồi ta được khoá đàn anh gắn alpha. Rồi
ta sẽ được đi phép, sẽ xin phép được về thăm em...
Thời gian
giai đoạn Một, có lẽ là thời gian huấn nhục. Thấy đàn anh phải
chào tay. Thấy cán bộ phải chào tay. Chào bắt mỏi. Và những đêm
khám xét hầu như thường trực xăy ra. Và những lần hít đất nhảy
xổm th́ như hai món ăn chơi. Và những lần ta bị xài xể từ cán
bộ, mà chỉ biết cắn răng. Trời ơi, cái tôi của ta, cái tôi mà
cha mẹ ta đă nưng niu chiều chuộng, cái tôi mà khi ta nóng sốt,
người thân của ta phải hốt hoảng cuống cuồng, bây giờ như thế
đó... Cái tôi giáo sư, kỹ sư, tiến sĩ, hay những ông đồ...
Nói về một
ngôi trường là nói về những kỷ niệm. Kỷ niệm với bạn bè, thầy
cô. Kỷ niệm về những ngày tháng vô tư ngây dại hay hoang nghịch
của tuổi thiếu thời. Nhưng với một ngôi trường chiến tranh, kỷ
niệm chỉ là những mồ hôi gian khổ, những khối nặng mang trên
ḿnh, th́ có ǵ để mà nhắc nhở. Không phải vậy. Phải nhớ. Nhớ
bởi v́, nó khởi đầu cho một cái nh́n khác, suy nghĩ khác.
Ta đă từng
cầm súng gác đêm tại lô cốt số 6. Đêm nay hết một năm. Lại gác
đêm giao thừa. Quê hương chừng rét lắm. Lất phất dưới làn
mưa...Bây giờ ta mới thấm thía được ư nghĩa của những câu thơ mà
ta không nhớ hết. Thời c̣n dân sự, ta chỉ biết thưởng ngoạn nó,
nhưng không cảm nhận nó. Bây giờ ta đang ở trong cuộc, ta cũng
cầm súng canh gác, trời cũng lất phất mưa. Quê hương chừng rét
lắm. Tâm hồn ta bỗng nhiên lớn hơn, bao la hơn. Ta bay bổng khắp
quê hương. Ta như người phi công trong một chuyến bay đêm, hănh
diện nh́n quả đất. Bây giờ ta mới hiểu tại sao người thơ lại
dùng chữ lại, thay v́ chữ được. Được mang ư nghĩa của niềm hănh
diện. Lại có ư nghĩa là sự bắt buộc, là phải tuân hành. Nhưng
tuân hành không phải là không làm tṛn nhiệm vụ. Có lẽ quân đội
chỉ cần người tuân hành. Bởi thế kỷ luật là sức mạnh, người ta
luôn luôn nhắc nhở như thế.
Nhưng tuân
hành không phải để trở thành nô bộc. Người ta không thể lạm dụng
hai chữ kỷ luật để bắt kẻ thuộc cấp trở thành nô lệ, nô bộc. Sau
này tôi đă hiểu rơ hơn về cái lạm dụng này. Khi người sinh viên
chúng tôi được lệnh phải đánh giày thật bóng, xếp drap xếp mền
thật kỷ, dọn tủ quần áo thật ngăn nắp, có nghĩa là chúng tôi
được học bài học là một người sĩ quan, trước hết anh phải làm
gương cho kẻ khác. Anh phải dấn thân trước hết. Làm sao tôi có
thể biết là ngoài thực tế, có một vài đơn vị trưởng được xem như
ông vua nhỏ. Ngay cả một trung đội trưởng với cấp số trên dưới
hai mươi người, c̣n được cấp một người mang gạo, nấu ăn, chẳng
khác một người hầu không công, huống hồ đại đội trưởng, tiểu
đoàn trưởng, trung đoàn trưởng. Chẳng những cho các ông mà c̣n
cho vợ con các ông nữa. Thiên hạ sợ các ông, bởi v́ dưới trướng
của ông là súng ống, và binh sĩ, là đám cận vệ luôn luôn chứng
tỏ trung thành tuyệt đối. Làm sao tôi biết, những người hầu kia,
đă từng bị cấp chỉ huy bạt tai, đá đít v́ đă quên đánh giày, hay
giặt quần giặt áo, giặt tấc cho ông thầy hay để xe các ông bị dơ
bẩn. Làm sao tôi có thể hiểu khi trường lính huấn luyện tôi phải
một ḿnh tự lực vuơn lên, đừng bê tha cẩu thả, th́ ngoài đơn vị,
tôi trở thành thầy chủ. Con người khi sinh ra đều được b́nh
đẳng. Không thể có tớ có thầy. Có phải vậy không?
Chúng tôi đă
được huấn luyện để làm quen với cam khổ. Từ cam khổ con người
mới hiểu được cái cam khổ của người khác. Chúng tôi đă được huấn
luyện để hiểu thế nào là sức mạnh của kỷ luật. Từ kỷ luật chúng
tôi mới có thể làm kẻ lănh đạo chỉ huy. Nhưng trên thực tế, kỷ
luật là con dao hai lưỡi. Nó tạo nên độc tài, độc tôn. Nó không
cho kẻ dưới cấp được quyền nói lên tiếng nói. Nó dùng lon cấp để
ra lệnh, mà người thuộc cấp không cần biết cái lệnh ấy hợp lư
hay không hợp lư, đúng hoặc sai. Ta phải nhắm mắt.
Nhưng người
Thủ Đức không phải chỉ biết nhắm mắt trong mọi trường hợp. Như
trường hợp sau đây của một chuẩn úy khi anh yêu cầu đại bàng tản
thương người chết và người bị thương ra khỏi vùng để rồi sau đó
nhận được những lời của vị chỉ huy mặt trận:
...Tôi cầm
tay Thảo. Cả tay chân anh mềm nhũn, hai mắt thâm đen và anh cũng
không c̣n thấy được nữa. Hơi thở thoi thóp, miệng lắp bắp:"Thái
ơi, Thái ơi ba chết!". Tôi lắc khẽ vai anh. "Thảo, Viện đây. Anh
không sao đâu, trực thăng sẽ đưa anh về quân y viện ngay. Cố
gắng lên!". "Thái ơi, Thái ơi! Ba chết!". Thảo cứ gọi tên đứa
con trai mà anh cưng nhất của ḿnh, hơi thở ṃn dần, và anh đă
trút hơi thở sau cùng lúc 10 giờ 15 phút sáng ngày 01 tháng 3
năm 1970.
Thảo chết,
Trung sĩ Trai bị thương với 4 người lính khác. Tôi báo ngay về
trung tâm chỉ huy hành quân tại chi khu và yêu cầu phương tiện
tản thương. Bạch Hổ bảo đă báo tiểu khu và chờ. Mặt khác, lại ra
lệnh:
- Đai bàng
chỉ định Victor (Viện) quyền Dzũng Chinh, điều động các đứa con
tiến chiếm các mục tiêu c̣n lại. Để một chấm (tiểu đội) ở lại
trông chừng số "kílô" (người chết), "whisky" (người bị thương).
Tôi trả lời
qua máy là, không đồng ư bỏ lại dọc đường Dzũng Chinh và mấy đứa
con bị thương bởi em út họ không chịu đi nếu như việc tản thương
không được thực hiện nhanh chóng. Bạch Hổ thông báo với Đại
Bàng. Ông Đại Bàng bay lên vùng, và liên lạc thẳng với tôi:
- Đ.M, tôi
ra lệnh cho Dzũng Chinh phải tiến quân. Đ.M cứ bỏ thằng "kilô"
(người chết), với đám whisky (người bị thương) lại đó sẽ có
chuồn chuồn đến bốc. Bây giờ đám diều hâu đă vỗ cánh lên vùng,
tất cả ưu tiên cho "Delta-Quebec" (đổ quân)... Đ.M chú thi hành
hay không? Đ.M tôi đưa ra toà án mặt trận bây giờ.
Tôi nóng ran
cả mặt. Một tư lệnh cuộc hành quân mà giải quyết sự việc với
những tính toán và ngôn ngữ như vậy khiến tôi bất b́nh, và chẳng
hiểu xuất phát từ đâu, tôi đă nói qua máy:
- Đ.M đại
bàng chớ đại bàng đừng ĐM tôi như vậy. Ông muốn ǵ tôi thách ông
đó. Bây giờ tôi nói dứt khoát với ông, tôi không đi cho đến khi
nào có chuồn chuồn đến bốc Dzũng Chinh và mấy đứa con của tôi...
Trên
đây là một đọan trong hồi kư Điếu thuốc sau cùng của Lê Cần Thơ
được đi trong đặc san Thủ Đức. Chúng tôi xin được trích lại để
chứng minh về sĩ khí của kẻ sĩ cùng tinh thần đồng đội của người
lính VNCH nói chung cũng như người sĩ quan Thủ Đức nói riêng.
Tại sao viên chuẩn úy của chúng ta lại có thái độ ngang ngược
như vậy. Tại sao anh lại tỏ bày thái độ bất chấp như vậy. Bởi v́
anh không thể bỏ rơi đại đội trưởng của anh và những người lính
của anh. Họ phải được cứu sống. Họ phải được đền bù sau khi họ
đă hy sinh tất cả. Có lẽ bản chất của viên trung tá kia là người
thô lỗ, nhưng không phải v́ thế mà quên đi cái t́nh chiến hữu,
đồng đội mà ông lẽ ra phải làm gương. Nếu như không có chiếc
trực thăng xa lạ nào đó bay qua, thương t́nh đáp xuống để cứu độ
th́ có lẽ một hai mạng người sẽ kết thúc v́ máu mất quá nhiều.
Rơ ràng ông ta đă dùng oai quyền và lạm dụng oai quyền. Nhưng
ông đă lầm. Ông không hiểu con tim của chúng tôi, những người sĩ
quan trẻ tốt nghiệp từ quân trường Thủ Đức.
Con tim ấy
tha thiết lắm. Nó đau cái đau của đồng đội. Nó hạnh phúc cái
hạnh phúc của đồng đội. Nó làm tiểu đội, trung đội trở thành một
mái nhà. Con tim ấy đă khiến một người chuẩn úy khác dám bắn ḅ
của tư lệnh vùng, bởi v́ anh thấy lính của anh gian khổ quá, đói
rách quá:
Ngày N
cộng sáu
quân lui về
Nghĩa Hưng
áo quần đầy
hương máu
tóc râu đầy
hương rừng
đang đi,
lệnh: đóng chốt
lập ṿng đai
an toàn
cho đại đội
trừ bị
lùa ḅ cho
tướng Toàn
ḅ mập
lông vàng thẩm
rộn rịp tập
xếp hàng
lính than
thèm thịt quá
nổi máu, ta
bắn càn
lon guigoz
đầy dấm
củi rừng bắt
lửa nhanh
miệng nhai
ḷng chảy máu
tự rủa thầm
gian manh
tướng Toàn
không kư phạt
nhưng ta
chẳng tha ta
một tuần
không ăn thịt
không làm thơ
ngắm hoa
(Luân
Hoán)
Nhớ về một
ngôi trường lính, là nhớ đến F301, một nơi mà tất cả sinh viên
chúng tôi không ai là không biết. Chúng tôi đă để lại ở đấy một
hay hai ngày để nghe mùi khai ngấy của nước tiểu, để nhận rơ
bóng tối nhiều hơn ánh sáng, để thấm thía hơn về kỷ luật quân
đội. Đấy là bài học, nhưng đấy cũng là những giờ phút mà lá thơ
t́nh đă được viết nên, hay nỗi nhớ nhung đă trổi dậy. Em Sài
G̣n, so với một buổi hai buổi bị nhốt trong 301, đâu có nghĩa lư
ǵ khi được một giờ một phút thấy em. Một lỗ rào nào đưa ta ra
ngoài xa lộ, len giữa những lùm cây đào lộn hột, để thay vội
vàng bộ đồ dân sự, và đón xe quá giang. Cũng biết lắm cái h́nh
phạt. Cũng biết lắm cái hậu quả có thể rớt ra trung sĩ. Nhưng
Sài G̣n vẫn thôi miên ta như người con gái hương phấn vẫy gọi
cuối trời. Không thể đợi đến khi giai đoạn Một chấm dứt. Không
thể thui thủi một ḿnh vào ngày cuối tuần. Phải về Sài G̣n. Phải
uống ly chanh đường uống môi em ngọt hay nh́n con gái Sài G̣n
trên vĩa hè Lê Lợi Gia Long. Phải gặp lại bạn bè, ngồi xe honda,
nghe gió đêm Sài G̣n luồn giữa hai hàng lầu cao ngất. Phải như
một cậu học tṛ trốn học ham vui, dù biết thế nào ngày mai cũng
bị phạt cấm túc. Bởi vậy, ta về. Và h́nh như nhà trường đă biết
được điều đó nhưng cố t́nh làm ngơ. Bằng chứng từ khoá này tiếp
đến khoá khác, những lỗ rào quen thuộc kia vẫn chưa một lần được
rào lại hay được tăng cường canh gác. Để F301 tiếp tục sống măi
trong tâm trí của mỗi người chúng tôi sau này.
Có lẽ nhà
trường muốn thử chúng tôi về bài học tự thắng để chỉ huy chăng.
Nhưng ta không thể nào tự thắng được. Và chính cái ham vui ấy,
những giây phút căng thẳng ấy, hay một hai buổi bị nằm trong
bóng tối của căn pḥng gần cổng số Một với bề rộng bề ngang 10
thước, chen chúc bạn ta ấy, mới là những giọt ngọc ngà kỷ niệm
của một đời người. Có ân hận ǵ không. Chắc chắn là không chút
ǵ ân hận, khi h́nh phạt mà ta chấp nhận là kết quả của t́nh ta
đối với Sài G̣n. Phải không em, Sài G̣n yêu dấu.
Để rồi đồng
lỏa với ta là những người tài xế xe lam, hay những anh tài xế xe
quân đội. Dù họ đă biết ta trốn trại. Làm sao ta có thể che mắt
họ, khi bên đường xa lộ có kẻ hớt tóc ngắn và da đen sậm vẫy xe
quá giang. Họ cũng như em, mang con tim Sài G̣n đến đồi Tăng
Nhơn Phú. Họ giúp ta thoát được trạm quân cảnh ở cửa ngơ vào
thành phố. Họ là cứu tinh cứu độ để ta không phải bị giải giao
về lại trường. Ôi, F301, nó đâu phải ghê rợn như sà lim, chuồng
cọp, nhà đá để ta phải nhắc nhở. Nó cũng chẳng mang cái ư nghĩa
Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Nó chỉ là nơi ta tạm đặt
lưng để quên đi băi bắn, băi tập. Ta không cần tập họp cho mỗi
lần đi ăn mà trái lại trưa chiều, người sinh viên trực đại đội
mang khẩu phần đến cho ta. Nhưng ta vẫn phải bồi hồi để nhớ lại.
Những khổ nhọc, trầm luân của kiếp người rồi cũng mất, cũng tan
biến nhưng những áng mây đă hiện bên ngoài kia, chắc sẽ phải nhớ
măi. Những áng mây không phải kết đọng bởi thuốc nổ nồng nặc,
nắng lửa và mồ hôi trên băi tập, nhưng chúng đầy ấp t́nh em,
t́nh Sài G̣n. Chúng đă đậu lại rồi trôi dạt về đâu, sao ta cứ
ngỡ chúng đang trôi xuôi về phía ấy. Rồi bỗng oà vỡ niềm hạnh
phúc, như trời Sài G̣n bỗng nhiên tối sầm lại và trận mưa giông
trút xuống như đùa cợt cùng thị dân. Và em tóc ướt và ta tóc
ướt, và môi cũng ướt, thịt da cũng ướt...
Nhớ về một
ngôi trường lính, dù chỉ là chín tháng, nhưng nỗi nhớ mang theo
nỗi ngậm ngùi. Bây giờ trường đă mất. Những con ngựa hôm nào bây
giờ đă lạc bầy tan tác hay đă rời bỏ đồng cỏ để về một cơi nào.
Cả một thời tuổi trẻ đă hy sinh và chấp nhận vào cổng trường với
niềm mong mỏi duy nhất là dâng hiến đời ḿnh cho đất nước, quê
hương bây giờ trở thành mây khói. Tự nh́n lại là ḿnh có làm
trái với bổn phận không, cái bổn phận khiêm nhường của một người
lính, ḿnh thấy ḷng an ổn lạ lùng.
Đêm di hành đầu tiên
Đêm di hành
đầu tiên của giai đoạn Một. Khi chiếc nón sắt đội nặng trên đầu.
Khi ba lô trên vai, và khẩu súng trường với những viên đạn mă
tử. Khi mắt mở, tai căng, và đêm như ḷng mực xạ. Ta đă trở
thành một người lính rồi ư. Ta có cảm giác ngây ngất của một kẻ
vừa trải qua một chuyện lạ lùng hoang tưởng. Quân đi, cả trăm,
cả ngàn người, mà sao như đoàn quân ma. Không có cả tiếng ho.
Tiếng cười. Không có cả một đốm lửa của điếu thuốc. Khi ra cổng
trường, bỗng dưng thấy như thể ra băi chiến. Nhà nhà vẫn c̣n để
đèn. Xa xa, xa lộ đèn xe sáng rực. Và trên cao là tháp nước quân
trường với ánh đèn chớp chớp. Ta bỗng thấy bước chân ta vững
mạnh hơn. Bởi xung quanh ta là bao bước chân khác. Ta là họ và
họ là ta. Họ giữ ǵn ta và ta giữ ǵn họ. Chúng tôi đă nương tựa
nhau và bảo vệ cho nhau. Lần đầu tiên ta mới cảm nhận cái căng
thẳng của thần kinh, cái lo âu vô h́nh giữa một ḷng đêm âm u
sâu thẩm. Nhưng cũng đôi khi, chợt thấy ánh đèn của nhà ai c̣n
thắp sáng, ḷng lại tự nhiên một nỗi hănh kiêu thầm kín. Rồi
đây, một ngày nào đó, ta sẽ thật sự có mặt, và ta mong được giữ
ǵn không những một ánh đèn mà c̣n cả triệu triệu ánh đèn. Có lẽ
lúc ấy, ta chưa chạm vào thực tế. Tâm trí ta chỉ thêu dệt những
cơn mơ đầy lăng mạng như:
Một buổi
quân dừng nơi xóm nhỏ
Mẹ run run
mời một bát canh đầy
Bát canh hẹ
cho ngọt ngào gạo đỏ
Con chan vào
từng muỗng nhỏ mà say...
Phải, không
ai lại không có những cơn mơ tuyệt vời như thế. Giữa các bạn ta,
chắc cũng có những kẻ mơ ngày ra chiến trường, đánh đâu thắng
đó, uy dũng trong màu áo hoa dù hay chết th́ cũng da ngựa bọc
thây.
C̣n ta, ta mơ
một bát canh hẹ đậm đà t́nh nghĩa. Khi ta cầm khẩu súng, ta nghĩ
là ta phải gánh một trách nhiệm thiêng liêng nhất là bảo vệ cho
đồng bào ta, dân tộc ta. Khi ta bước đi trong bóng tối, có nghĩa
là dọn đường cho ánh sáng. Và để đổi lại, đồng bào, hậu phương,
sẽ hiểu việc cầm súng của ta, sẽ như người mẹ mời bát canh hẹ để
ta chan vào từng muỗng canh nồng nàn giữa người dân và người
lính. Ôi những cơn mơ giúp ta đuổi kịp bạn bè, sát cánh với bạn
bè, hoà nhập cùng gịng thác của bạn bè. Nó giúp ta sức mạnh dù
thân thể ta không đủ tiêu chuẩn của một người lính. Mắt ta mang
kính đă bắt đầu làm quen với bóng đêm. Ta mới cảm nhận cái tai
hoạ vô h́nh. Bóng tối. Phải, ta đang ở giữa ḷng bóng tối. Bóng
tối đồng nghĩa với tai ách. Với kẻ thù. Bóng tối th́ nhiều mà
ánh sáng th́ ít. Chỉ trừ ánh đèn. Những ánh đèn le lói, nhưng
b́nh an kỳ lạ.
Trời ơi. Một
ngày nào đó, chắc ta phải khóc mất khi được nếm bát canh hẹ có
thật thay v́ mơ tưởng. Nó c̣n đậm đà hơn cả bài hát nào mà ta đă
nghe: Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều hôn
mái tóc. T́nh quê hương đơn sơ. Bởi v́ gạo đỏ và bát canh hẹ
chính là quê hương. Bởi v́ mẹ đă quá già mà cảm thông cùng con
cháu mẹ. Ta đang mơ. Xin đừng để cho giấc mơ ta tan vỡ. Để ta
c̣n được chắp cánh mà bay, đừng cho ta phải rớt xuống cùng sự
thật. Xin để cho ta cứ liên tưởng đến bát canh hẹ cho ngọt ngào
gạo đỏ của ta mà cố gắng theo kịp anh em, theo kịp hàng ngũ...
Trời ơi, ta
làm sao biết được cái sự thật bên ngoài ngôi trường của chiến
tranh này. Cái sự thật phủ phàng khi ta giáp mặt vào ḷng bóng
tối. Cái sự thật khi những ngọn đèn kia là những tín hiệu giết
người, báo động của đám dân trong làng mỗi khi ta hành quân qua.
Cái sự thật khi người dân bề ngoài dạ bẩm, nhưng trong tim họ
đầy cả bồ dao găm tai họa. Cái sự thật về một gáo nước lạnh
hay một th́a nước mắm xin của người dân đă bị từ chối.
Trong đêm di
hành đầu tiên, hết đại đội này đến đại đội khác rời khỏi tuyến
xuất phát là vũ đ́nh trường để di chuyển quanh ṿng đai của quân
trường. Ta bây giờ là một phần tử trong một tập thể. Chúng tôi
nương nhờ, bảo vệ cho nhau. Từ đó, ta mới hiểu thế nào là t́nh
đồng đội, là sự san sẽ cùng nhau cái định mệnh chung, cái nghiệp
căn chung, những tai ương chung. Từ đó người ta càng yêu thương
nhau hơn, càng thông cảm cho nhau hơn.
Như vậy, ta
phải cám ơn Tăng Nhơn Phú đă làm thay đổi cái nh́n của ta trước
đây về cuộc chiến, về quân đội. Cám ơn bạn bè ta, những người có
người vợ mới cưới, những đứa con mới sanh, hay những người kỹ
sư, giáo sư, tiến sĩ, những trí thức, những nhà văn nhà thơ tên
tuổi lẫy lừng, những người mà lẽ ra, Thủ đức không phải là nơi
dụng vơ. Họ vẫn có mặt bên ta, quanh ta, vẫn cầm súng bước đi
trong đêm di hành.
Cuối cùng vào
nửa đêm cả ngàn người của khoá từ tất cả các đại đội trở về tập
họp tại vũ đ́nh trường. Đêm vang lên lời hô và lời báo cáo.
Người ta đă dạy ta biết thế nào là một đơn vị lên đường và trở
về b́nh an vô sự. Trung đội báo cáo lên đại đội. Đại đội báo cáo
lên tiểu đoàn. Và tiểu đoàn báo cáo lên liên đoàn. Ta bị nhận
ch́m trong một tập thể chỉ biết tuân phục. Khi nghe hô nghiêm là
ta nghiêm, hô nghỉ là ta nghỉ, hô bước là ta bước. Ôi những cái
bóng nào của đêm xưa ấy c̣n để lại dấu tích hay chỉ là hạt sỏi
nào trên sân. C̣n đâu những âm vang của Thủ đức. C̣n đâu những
v́ sao kỷ niệm trên đồi gió Tăng Nhơn Phú. Vâng. Dù quá mệt, quá
căng thẳng, nhưng thế nào ta cũng phải ghi lại những cảm xúc kỳ
diệu mà ta đă gặp trong đêm này.
Nguyệt san Bộ Binh Thủ Đức
Những trang
giấy nào hôm qua c̣n mờ nhạt bởi mồ hôi, bụi, và mưa Tăng Nhơn
Phú. Có ai kể là sau khi khóa chúng tôi măn, khoá đàn em nhận
trách nhiệm săn sóc nguyệt san Bộ Binh, đă xem mục Nhật Kư Quân
Trường là mục thường xuyên phải có. Cảm động lắm khi họ theo ta,
tiếp tục viết lại những suy nghĩ, tâm tư trên từng chặng đường
gian khổ. Họ theo ta, cũng như ta đă theo khóa đàn anh tiếp tục
một truyền thống có sẵn. Chính truyền thống đă mang lại niềm
vinh dự. Bởi vậy mới có những người từ muôn phương trở lại để
gặp lại bạn bè cùng khoá mà kể lại bao nhiêu điều, bao nhiêu
chuyện dưới mái trường. Cái truyền thống của Thủ đức cũng giống
như các trường đào tạo quân đội khác, cũng đàn anh gắn alpha cho
đàn em. Cũng cuối năm là hành quân cuối khoá, cũng trốn trại về
phố và cũng bị nhốt vào trại kỷ luật... Nhưng có lẽ ở trên đồi
Tăng Nhơn Phú này, có một truyền thống mà chắc là không có
trường nào có. Cái truyền thống miễn đi băi vào ngày thứ tư kể
từ sau khoá 24 của chúng tôi, dành đặc biệt cho những người sinh
viên sĩ quan biên tập viên của tờ nguyệt san Bộ Binh Thủ Đức.
Gắng nhớ.
Gắng trở lại một khoảng thời gian nào cách đây hơn ba mươi năm.
Trí năo đă hao ṃn, sao ḷng ta vẫn c̣n bồi hồi tha thiết. Những
người muôn năm cũ. Chợt một Phạm văn B́nh loé lên, người thấp,
da đen ngâm. Anh là thầy giáo. Một Trịnh Kim Đồng hợp cùng Lưu
Trung Khảo, hai cây bút chủ lực về biên khảo. Trịnh Kim Đồng th́
đă chết. Chết trên đỉnh đồi Mười thuộc tỉnh B́nh Định. Anh cùng
Sư đoàn 22 BB với ta. Anh bị quả đạn trái sáng rơi trúng vào
đầu. C̣n ai nữa. C̣n Nguyên Sa, Cao Thoại Châu, Luân Hoán, Phạm
Hoàng, Phan Thảo Trang. C̣n có Trịnh Cung lo phần h́nh thức. C̣n
có cả ư Yên, người sĩ quan huấn luyện... Đó là những tên tuổi
rất quen thuộc. Và chúng tôi đă góp lại, cấy mạ, ươm phân bón,
để nguyệt san Bộ Binh trở thành một tạp chí có tầm cở.
Chúng tôi đă
biến mồ hôi thành chữ nghĩa. Và chữ nghĩa đă được chuyển tới
không những cho chúng tôi mà c̣n cho những người thân nhân của
chúng tôi. Chính tờ báo đă làm chỗ đứng của Thủ Đức càng lên
cao. Có lẽ nhà trường đă nghe được tiếng vang. Bằng chứng là nhà
trường cho phép chúng tôi được miễn đi băi vào ngày thứ Tư để
lên họp tại Khối Chiến Tranh Chính Trị hay để có th́ giờ hơn
dành cho việc sáng tác.
Bây giờ giữa
trời đất mênh mông này, làm sao t́m lại những tờ tạp chí cũ. Làm
sao có được những bài Nhật kư quân trường của một thời để bỏ vào
trong tập sách này gọi là một hoài niệm yêu dấu. Làm sao để ta
có thể đập lại nhịp tim của một thời khi ta đi dây tử thần, vượt
sông, leo núi, gắn alpha hay đứng gác trung nghĩa đài. Vàng bạc
châu bấu nào có thể đổi lại những trang sách xưa. Những trang
sách đầy mồ hôi và gian khổ, nhưng cũng đầy lửa của niềm tin và
lửa của da thịt em. Những trang sách mang theo bè bạn đă một
thời hiện diện bên ta, viết dùm ta, làm thơ dùm ta, chuyên chở
nỗi ḷng dùm ta.
Bây giờ đă
hơn ba mươi năm từ ngày rời Thủ Đức, ta đang khốn khổ hành hạ
trí năo để nhớ về một thời. Muốn nổi khùng chạy đông chạy tây,
t́m hoài trong trí nhớ già nua một vài câu thơ của Cao Thoại
Châu được anh sáng tác trong trường lính nhưng đành bất lực. Nhà
thơ vẫn c̣n sống ở trong nước, nhưng những bài thơ một thời đă
mất trước anh như tất cả những người viết văn làm thơ của miền
Nam trước 1975.
May mà trái
tim cứ kêu gọi thúc dục. Ta đang viết lại đây, tim nhé. Ta đang
viết lại đây, hỡi Thủ Đức, hỡi các bạn bè ta, và hỡi những người
đă yêu mến văn ta nhé. Viết mà rưng rưng. Ta đă đánh mất cây
viết Canon, cái phần thưởng sinh viên sĩ quan báo chí xuất sắc
của khoá dành cho ta rồi. Và bây giờ những ngón tay tê buốt của
tuổi già đă báo cái cơ nguy sắp bỏ bút rồi. Hở, ta sẽ sống ra
sao, hở?
(Trích Thủ
Đức Gọi Ta Về, mới xuất bản)
Đêm alpha
Cuối cùng
giai đoạn Một cũng đă kết thúc. Nó đánh dấu một khúc quanh rất
quan trọng trong đời sống sinh viên sĩ quan chúng tôi. Có nghĩa
là từ đây chúng tôi bắt đầu mang trên mũ, trên vai, hay cổ áo,
huy hiệu (, mà chúng tôi vẫn thường quen gọi là con cá vàng. Có
nghĩa là từ đây chúng tôi có quyền đi phép cuối tuần về Sài G̣n.
Và cũng bắt đầu từ đây, chúng tôi thật sự trở thành đàn anh.
Đêm alpha.
Tôi đang thấy lại tôi, giữa cả một vũ đ́nh trường đầy ngập
người, và đầy ngập ánh điện như thể một đêm hội lớn. Chúng tôi
đă mặc bộ đồ vàng đi phép, mang giây biểu chương vàng, và mang
nón két. Trên ngực áo có bảng tên. Chúng tôi đă sẵn sàng cặp lon
vàng. Chúng tôi một chân qú xuống, để chờ khoá đàn anh đến gắn
cấp bậc.
Đêm alpha. Nó
là một truyền thống. Nó là sự liên hệ giữa đàn anh và đàn em,
giữa người sắp sửa giă từ và những người ở lại. Nó cũng là điểm
mốc cho người được đi chuyên môn và người ở lại làm lính lội bộ.
Nó vang động cả trời đêm Tăng Nhơn Phú với lời hô đứng dậy qú
xuống như chuyển rung cả một vũ đ́nh trường. Người đàn anh sẽ
gắn alpha cho ta. Và anh sẽ đập vào vai ta để bày tỏ lời chúc
mừng trong khi ta chào tay anh không dám động đậy. Rồi anh sẽ từ
giă ta, anh đi đâu:
hăy nắm
chặt giây cương này, luân hoán
ra khỏi nơi
này sẽ gặp nghĩa trang
(T́nh khúc
cuối cùng ở K.B.C 4100, thơ Luân Hoán)
Ta đă quên
anh, và anh cũng không bao giờ nhớ ta. Nếu có chỉ là cái bóng.
Bóng đổ xuống sân vũ đ́nh trường dưới những ngọn đèn nhiều nến.
Ta lại bắt đầu thay anh, và cái bóng ta đă lấp vào bóng anh. Ta
cũng nhường lại cho đàn em những ǵ mà đàn anh ta đă nhường cho
ta. Rồi ta lại ra đi. Đi đâu. Ra khỏi nơi này sẽ gặp nghĩa trang.
Nghĩa trang quân đội. Với Tiếc thương của Nguyễn Thanh Thu. Với
Viên đạn cho người yêu dấu của Luân Hoán. Với một Mậu Thân đại
tang cho khóa 24 của ta và khóa 25 đàn em.
Đêm alpha, ta
đang náo nức chờ ngày cuối tuần để về thăm Sài G̣n. Một đoạn
đường chiến binh đă qua. Thêm một đoạn đường nữa bắt đầu. Bây
giờ mới chính là những bài học vỡ ḷng cho một trung đội trưởng
bộ binh. Hỡi em yêu dấu.
(Trần Hoài Thư)