I. Hôn-Nhân của Dân Việt
Theo phong-tục Việt, cái
gốc của gia-đ́nh gọi là hôn-nhân. Có
hôn-nhân mới có vợ chồng và con cái.
Mục-đích của hôn-nhân là để duy-tŕ
gia-thống nên việc lập gia-đ́nh là việc quan
trọng của đại gia-đ́nh. Việc lấy vợ lấy
chồng gọi là hôn-nhân, cưới xin, hôn-thú,
hôn-thư, hay giá-thú. Trên các giấy tờ
chứng-nhận, người Việt thường dùng chữ “giá-thú.”
“Giá” là lấy chồng, “thú” là lấy vợ. C̣n
hôn-thú chỉ có nghĩa là lấy vợ thôi.
“Hôn” có nghĩa là bố mẹ
nàng dâu, “nhân” có nghĩa là bố mẹ chàng rể.
Nghĩa tổng-quát của từ “hôn-nhân” là cưới
xin (marriage). Theo truyền-thống dân Việt,
cha mẹ thường lo cho con đầy-đủ mọi thứ kể
cả việc kén vợ kén chồng cho con. Chính v́
thế, việc hỏi vợ và gả chồng là bổn-phận của
cha mẹ như đă tŕnh-bày trong các câu
tục-ngữ sau đây: “Trai lớn dựng vợ, gái lớn
gả chồng, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy.” V́ muốn
gia-đ́nh xứng-hợp, tức là “môn đăng (đang,
đương) hộ đối,” nên đă có trường hợp ngay
khi những đứa trẻ c̣n là bào-thai trong bung
mẹ, đôi bên cha mẹ đă đính-ước với nhau rằng
nếu về sau một bên sinh con trai và một bên
sinh con gái th́ sẽ gả con cho nhau. Ngoài
vấn đề hai gia đ́nh phải có “môn đăng hộ
đối”(gia đ́nh hai bên xứng đáng với nhau),
trai gái c̣n phải tốt-nghiệp trường cao-đẳng
th́ mới thành vợ thành chồng v́ “Phi
cao-đẳng bất thành phu phụ.”
Ở Việt-Nam trước đây, con
trai mười sáu tuổi và con gái mười ba tuổi
đă bắt đầu có thể lấy vợ lấy chồng v́ vào
lứa tuổi đó, trai gái đă hiểu sự đời, bắt
đầu có tinh- khí, và biết giao-cấu (to have
sexual intercourse). Chính v́ thế mà người
Việt ta có câu tục-ngữ là “nữ thập tam, nam
thập lục.” Ở Bắc Mỹ này, trai 21 tuổi và gái
18 th́ được quyền tự do lấy nhau. Nếu gái 16
tuổi và trai 18 tuổi mà muốn lấy nhau th́
phải được phép của cha mẹ.
Từ ngàn xưa, ở Việt-Nam
chúng ta, tuy rằng việc dựng vợ gả chồng là
quyền của cha mẹ, nhưng cha mẹ vẫn hỏi ư-kiến
con cái trước khi quyết-định và việc
thuận-t́nh của con cái ít khi bị cha mẹ
cản-trở. V́ cha mẹ hết ḷng thương yêu và lo
cho con cái nên con cái đă hết sức vâng lời
cha mẹ và cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Ngày
nay, các bậc cha mẹ chỉ đóng vai-tṛ cố-vấn
và thực-hiện cưới-xin khi con cái đă đến
tuổi hiểu biết trong việc kén chọn nhau.
Theo truyền-thống dân
Việt, việc kén vợ kén chồng rất quan-trọng.
Sau đây là các phong-tục mà những gia-đ́nh
người Việt đă từng áp-dụng để kén vợ kén
chồng cho con: lấy vợ xem tông, lấy chồng
kén giống, kén con ông cháu cha, và kén gia
đ́nh có luân-lư đạo-đức. Kén vợ cho con, các
bậc cha mẹ chú-trọng đến đức-hạnh hơn là
nhan-sắc v́ “cái nết đánh chết cái đẹp.”
Thêm vào đó, các bậc cha mẹ c̣n phải xem
trai gái có hợp tuổi với nhau không v́ có
hợp tuổi nhau th́ mới ḥa-thuận, làm ăn mới
thịnh-vượng, và sinh con mới tốt lành. Trai
gái không hợp tuổi nhau th́ khi lấy nhau sẽ
có rất nhiều điều đáng tiếc như hay gây sự
với nhau, làm ăn hay bị thất-bại, con cái bị
hư hỏng, và vợ chồng sẽ bị ly-thân rồi ly-dị.
Trong sách tử-vi tướng-số có bốn nhóm tuổi
mà mỗi nhóm gồm có 3 loại tuổi hợp nhau gọi
là tam-hợp và có ba nhóm tuổi mà mỗi
nhóm có bốn loại tuổi xung-khắc nhau gọi là
tứ-hành-xung.
Bốn nhóm tuổi tam-hợp
gồm có: “Thân, Tư, Th́n” hợp nhau ; “Tỵ Dậu,
Sửu” hợp nhau; “Dần, Ngọ, Tuất” hợp nhau; và
“Hợi, Măo Mùi” hợp nhau.
Ba nhóm tuổi
tứ-hành-xung gốm có: “Tư, Ngọ, Măo, Dậu”
xung-khắc nhau; “Th́n, Tuất, Sửu, Mùi”
xung-khắc nhau; và “Dần, Thân, Tỵ, Hợi”
xung-khắc nhau.
Chính v́ thế, các bậc cha
mẹ của hai gia-đ́nh bao giờ cũng phải so đôi
tuổi của cặp trai gái trước khi làm lễ
đính-hôn, tức là Lễ Ăn-Hỏi.
Khi hai bên gia-đ́nh nhà
trai nhà gái ở xa nhau mà muốn hiểu rơ về
t́nh-trạng mỗi gia-đ́nh và tính-nết tài-năng
và đức-hạnh của con trai và con gái, họ phải
nhờ người làm mai-mối (Ông Mai Bà Mối) để
giúp việc cưới-xin. Người làm mai-mối thường
là người quen cả đôi bên gia-đ́nh hoặc có
liên-hệ gia-đ́nh với một bên. Lời nói của
mai-mối rất quan-trọng và có ảnh-hưởng
mănh-liệt để hai bên gia-đ́nh hiểu rơ nhau
hầu tiến tới việc quyết-định hôn-nhân cho
con cái.
II. Tục-Lệ (Customs) về
Hôn-Lễ (Marriage, Wedding Ceremony) của
Người Việt
Ở thời xa xưa, tục-lệ về
hôn-lễ của nước Việt ta rất phức-tạp,
tiền-nhân ta đă có đến sáu (6) tiến-tŕnh về
hôn-lễ: Lễ Nạp-Thái (kén chọn), Lễ Vấn-Danh
(hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của cô
gái), Lễ Nạp-Cát (so đôi tuổi được tốt), Lễ
Nạp-Tệ (ăn-hỏi), Lễ Thỉnh-Kỳ(xin cưới), và
Lễ Thân-Nghênh hay Nghênh-Hôn (lễ cưới).
Tuy-nhiên, từ đầu thế-kỷ thứ 20 (190 đến
nay (2004), Nước Việt Tự-Do của chúng ta chỉ
có ba tiến-tŕnh về hôn-lễ như sau: Lễ
Chạm- Ngơ, Lễ An-Hỏi, Lễ Cưới.
Khi đă làm Lễ Cưới ở nhà, nếu sau đó không
nhờ nhà thờ hay nhà chùa chính-thức làm Lễ
Cưới th́ phải đến khai tại cơ-quan chính
quyền địa-phương để xin tờ giá-thú
(hôn-thú hay hôn-thư).
1. Lễ Chạm-Ngơ (The
Pre-engagement Ceremony, a Promise to
Marry)
Sau khi hai bên gia-đ́nh
đă ưng-thuận việc hỏi vợ gả chồng cho con,
Lễ Chạm-Ngơ mới được cử-hành. Lễ Chạm-Ngơ
c̣n được gọi là Lễ Xem-Mắt v́ đây là dịp để
trai gái biết rơ nhau hơn và thân-nhân của
gia-đ́nh nhà trai có cơ-hội t́m hiểu tuổi,
thai-độ, và tư-cách của cô dâu tương lai lúc
c̣n ở nhà gái ra sao để có quyết-định làm Lễ
An-Hỏi và Lễ Cưới.
Ở Việt-Nam trước đây, khi
tổ-chức Lễ Chạm-Ngơ, nhà trai thường đem
trầu cau, rượu, trà, và các loại bánh để nhà
gái dâng cúng gia-tiên rồi đem biếu chú bác
cô d́ cậu mợ. Ở hải-ngoại hiện nay, lễ-vật
Chạm-Ngơ của người Việt ta thường gồm có
những bó hoa, những tái cây, những chai
rượu, và những hộp trà, v.v. Sau khi đến nhà
gái, vị đại-diện nhà trai (ông bố của chú rể
tương lai) ngỏ lời với nhà gái về Lễ
Chạm-Ngơ. Sau đó, vị đại-diện của nhà gái
(ông bố của cô dâu tương lai) đáp lời chào
mừng và ưng-thuận. Tiếp theo đó, việc cúng
gia-tiên của nhà gái được cử-hành, các vị
đại-diện gia-đ́nh nhà trai và nhà gái cùng
chú rể và cô dâu tương lai đều cùng nhau
cúng bái. Sau khi cúng gia-tiên nhà gái, mọi
thân-nhân của hai gia-đ́nh hiện-diện trong
buổi Lễ Chạm-Ngơ đều được nhà gái mời dự
tiệc-trà ăn mừng Lễ Chạm-Ngơ. Sau bữa
tiệc-trà, họ nhà trai ra về.
Từ Lễ Chạm-Ngơ đến Lễ
Ăn-Hỏi không có khoảng thời-hạn nhất-định,
tùy theo gia-đ́nh nhà trai và nhà gái
định-đoạt có khi trong ṿng 3 tháng, nửa
năm, hay cả năm trời. Sau ngày Lễ Chạm-Ngơ,
nhà trai thường lui tới nhà gái vào những
dịp lễ, tết, hoặc các ngày kỵ-nhật (ngày
giỗ) của nhà gái và mang các lễ-vật đến để
cúng lễ.
Nếu sau Lễ Chạm-Ngơ mà
mọi việc đều tốt đẹp giữa nhà trai nhà gái,
nhất là gia-đ́nh nhà trai hoàn-toàn
ưng-thuận nàng dâu tương-lai, th́ Lễ Ăn-Hỏi
sẽ được tiến-hành.
2. Lễ Ăn-Hỏi (Betrothal,
An Engagement to Marry)
Lễ Ăn-Hỏi (Lễ Đính-Hôn)
là lễ rất quan-trọng của việc hôn-nhân. Theo
phong-tục của Việt-Nam, nhà trai phải
đáp-ứng lời đ̣i-hỏi của nhà gái về việc đưa
đầy-đủ những phần lễ-vật vào ngày Lễ Ăn-Hỏi
như những quả cau, những lá trầu, những hộp
trà, những gói nem, bánh chưng, bánh dày,
những hộp bánh quế, bánh bích-quy, bánh
ngọt, heo quay, xôi gấc, và rượu, v.v. để
nhà gái làm lễ cúng gia-tiên và biếu
thân-bằng quyến-thuộc với mục-đích báo tin
mừng. Khi đem lễ-vật đến nhà gái trong dịp
Lễ Ăn- Hỏi, nhà trai tổ-chức dẫn lễ-vật một
cách thật trang-trọng bằng cách để các
lễ-vật vào hộp, xếp vào mâm, và bao-phủ bằng
giấy bóng (glassine paper, cellophane) màu
vàng và màu đỏ rồi cử người ăn mặc chỉnh-tề
để đi cùng với gia-đ́nh nhà trai đưa lễ-vật
đến nhà gái. Nếu nhà trai ở gần nhà gái th́
đi bộ, nếu ở xa th́ đi bằng xe hơi. Nếu đi
bằng xe hơi th́ khi gần đến nhà gái, mọi
người phải xuống xe để đi bộ thành đoàn
người mang lễ-vật đến nhà gái một cách
trang-trọng và chỉnh-tề.
Ở Việt-Nam trước đây,
trầu cau, trà, và rượu là các lễ-vật
chính-yếu của Lễ An-Hỏi. Hiện này ở hải
ngoại này, những lễ-vật ăn-hỏi của người
Việt ta thường gồm có những bó hoa, những
tái cây, những chai rượu, những hộp bánh, và
những hộp trà, v.v.
Khi các thân-nhân của nhà
trai đến nhà gái để làm Lễ Ăn-Hỏi, cả nhà
trai và nhà gái phải cử người đứng ra
giới-thiệu các thân-nhân của ḿnh trước khi
cha mẹ của nhà trai ngỏ lời về Lễ Ăn-Hỏi.
Sau đó, cha mẹ nhà gái đáp lời ưng-thuận và
chào mừng nhà trai. Tiếp đó, cha mẹ nhà trai
và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tượng-lai
đều cúng gia-tiên của nhà gái. Sau khi cúng
gia-tiên tại nhà gái, mọi người hiện-diện sẽ
được cha mẹ nhà gái mời ăn tiệc-trà ngay ở
đó.
Khi nhà gái nhận Lễ
An-Hỏi tức là đă chính-thức chấp-nhận việc
gả con gái cho nhà trai. Sau ngày Lễ Ăn-Hỏi,
khi nhà gái đem các lễ-vật ăn hỏi như quả
cau đi biếu thân-bằng quyến-thuộc th́ phải
biếu mỗi phần 3 quả hay một quả chứ không
bao giờ biếu hai quả v́ hai quả có ư nghĩa
thô-tục. Ngày nay, nhà gái c̣n kèm theo
lễ-vật một tấm thiệp báo-hỷ để tặng
thân-bằng quyến-thuộc.
Sau Lễ Ăn Hỏi, chàng rể
tương-lai c̣n phải đem lễ-vật đi lễ tết (sêu
tết, to present gifts to one’s bride’s
family) bố mẹ vợ tương-lai vào những ngày
tết và vào 4 mùa bằng cách mùa nào thức ấy.
Điều này có nghĩa là vào dịp Tết Nguyên-Đán,
Tết Thanh-Minh, Tết Đoan-Ngọ, Tết
Trung-Nguyên, Tết Trung-Thu, và những ngày
giỗ chính của nhà gái, chàng rể tương-lai
phải mang đồ lễ tới gia-đ́nh nhà vợ
tương-lai để biếu và lễ bái; vào mỗi mùa có
hoa quả bánh trái đặc-biệt, chẳng hạn như
vào tháng ba có quả vải vỏ đỏ vị ngon ngọt;
vào tháng năm có dưa hấu; vào tháng bảy có
quả na và quả nhăn; vào cuối tháng chín sang
tháng mười có cốm, hồng, và gạo mới, v.v.;
và vào tháng chạp th́ có cam có mứt. Sau khi
chàng rể tương-lai mang lễ-vật lại, bao giờ
nhà gái cũng lấy một nửa số lễ-vật, c̣n một
nửa lễ-vật nhà gái biếu lại nhà trai, gọi là
“lại-quả.”
Ngày xưa, sau Lễ Ăn-Hỏi,
ở một vài nơi tại Việt-Nam c̣n có tục-lệ
“gửi rể” (a future son-in-law living in his
future wife’s family). Chú rể tương-lai phải
đến ở nhà gái và đi học trong ṿng bốn năm
năm để thi đỗ rồi mới được cưới vợ. Chính v́
thế mà ta mới có câu tục-ngữ: “Phi cao-đẳng
bất thành phu phụ.” Sau Lễ Ăn-Hỏi và
sêu-tết, nhà trai phải bàn-thảo và đề-nghị
với nhà gái đề ấn-định ngày làm Lễ-Cưới.
3. Lễ Cưới (Wedding, The
Ceremony of Marriage with its Accompanying
Festivities)
a.Thách-Cưới
Hồi trước đây ở Việt-Nam,
khi đồng-ư để nhà trai làm Lễ-Cưới, nhà gái
có lệ “thách-cưới” nhà trai. “Thách-cưới” có
nghĩa là nhà gái đ̣i các thứ cho cô dâu và
gia đ́nh nhà gái gồm các đồ trang sức và
quần áo cưới cho cô dâu và các đồ lễ-cưới
cho gia đ́nh nhà gái như tiền-bạc, trà rượu,
trầu cau, bánh-trái, thịt heo thịt ḅ, và
gạo nếp gạo tẻ, v.v. để làm tiệc thiết-đăi
bà con và bạn-hữu. Việc thách-cưới này có
khi làm cho nhà trai thật đau buồn; nhiều
khi, nhà trai phải yêu-cầu nhà gái để giảm
bớt việc thách-cưới đi v́ không có đủ tiền
bạc để rước dâu. Nếu nhà gái không đồng-ư
th́ nhà trai phải đi vay mượn tiền-bạc để lo
đám cưới. Việc thách-cưới đă làm cho nhiều
người dân buồn-phiền nên họ đă làm các câu
ca-dao hài-hước như sau: “Em là con gái nhà
giầu, / Mẹ cha thách-cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm gấm đào, / Một trăm ḥn
ngọc hai mươi tám ông sao trên trời.” “ Con
gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ
cha mua về.”
Ngày nay, việc thách-cưới
không là vấn-đề quan-trọng v́ nhà trai và
nhà gái thường cộng-tác tích-cực với nhau để
làm Lễ-Cưới cho cô dâu chú rể thật chu-đáo.
b. Chọn Ngày Làm Đám Cưới
Sau khi nhà trai và nhà
gái đă thỏa-thuận mọi việc, hai bên phải
ấn-định ngày làm đám cưới bằng cách chọn
ngày tốt có ghi rơ trong âm-lịch. Trong các
tấm lịch ta (âm- lịch), ở mỗi tờ lịch, các
chi-tiết sau đây đều được ghi rơ: ngày này
là ngày nào trong năm, các tuổi nào kỵ với
ngày này, ngày này nên làm những việc ǵ và
nên kiêng-cữ (không nên làm) những việc ǵ,
giờ tốt là giờ nào, và giờ xấu là giờ nào,
v.v. Tuy trong lịch có ngày được ghi là nên
làm đám cưới (nên cưới gả) nhưng đồng-thời
cũng có ghi về việc kỵ (không hợp) tuổi cho
một số tuổi. Nếu cô dâu chú rể có tuổi kỵ
trong ngày đó th́ không nên cử-hành lễ cưới
trong ngày đó dù là ngày đó được ghi là nên
“cưới gả.” Tóm- lại là ngày làm Lễ-Cưới phải
không xung không kỵ với các tuổi của chú rể
và cô dâu. Trước năm 1954, ở Miền Bắc
Việt-Nam, mọi người chỉ làm đám cưới vào các
tháng mười, tháng một (tháng1, tháng chạp
(thàng 12), và tháng giêng (tháng v́ các
tháng này có thời-tiết rất tốt và thuận-tiện
cho đám cưới. Hầu hết các nơi ở Miền Bắc
không tổ-chưc đám cưới vào tháng bảy ta
(tháng ngâu) v́ tháng này có mưa dầm suốt
tháng (mưa ngâu) và hay có gió băo. Ngoài
ra, mọi người phải kiêng-cữ tổ-chức đám cưới
trong tháng bảy ta v́ theo sự-tích, vợ chồng
Ngưu-Lang Chức-Nữ bị trời phạt không cho
sống gần nhau, vợ chồng chỉ được phép gặp
nhau mỗi năm một lần vào ngày mưa ngâu mùng
7 tháng 7 ta mà thôi. Mỗi năm tháng bảy trời
đổ mưa-ngâu, / Yêu nhau xin hăy nhớ nhau một
vài, / Lất-phất mưa-ngâu ướt đẫm bờ vai, /
Tơ-duyên chẳng trọn thương hoài nhớ lâu.
c. Thiệp Báo-Hỷ và Thiệp
Mời
Hiện nay, sau khi ấn-định
ngày làm đám cưới, nhà trai và nhà gái c̣n
cùng nhau làm những tấm thiệp báo-hỷ và
thiệp mời để gửi cho thân-nhân, bằng-hữu, và
đăng báo. Muốn có tấm thiệp báo-hỷ và thiệp
mời đúng cách, chúng ta phải nhờ chuyên-viên
làm cho. Thông-thường th́ tấm thiệp báo-hỷ
và thiệp mời có nội-dụng viết bằng song-ngữ,
tiếng Việt và tiếng Anh. Trong phần
“Cước-Chú số 1” ở phía dưới bài này là
tài-liệu hướng-dẫn về nội-dung và
h́nh-thức của tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời
được viết bằng tiếng Việt.
d. Chuẩn-Bị Lễ Rước Dâu
và Đưa Dâu
Sau khi đă ấn-định ngày
làm đám cưới và đă gửi thiệp báo-hỷ và thiệp
mời, nhà trai phải chuẩn-bị Lễ-Cưới,
tiệc-cưới, tiệc-trà, máy chụp ảnh, máy quay
phim, mua nhẫn cưới cho cả chú rể và cô dâu,
và chuẩn-bị lễ rước dâu. Nhà gái cũng phải
chuẩn-bị việc đón-tiếp nhà trai đến rước
dâu, chuẩn-bị máy chụp ảnh và máy quay phim,
chuẩn bị lễ gia-tiên, lễ Tế Tơ-Hồng, tiệc
trà, và lễ đưa dâu.
Hiện nay, tiệc cưới
thường do nhà trai và nhà gái cộng-tác
tổ-chức tại nhà hàng sau khi đă làm lễ cưới
để thiết-đăi bà con và bằng-hữu. Nếu nhà
trai và nhà gái theo Đạo Phật hay Đạo
Thiên-Chúa, sau khi rước dâu về nhà chồng,
hai gia-đ́nh c̣n phải làm hẹn với Nhà Thờ
(Catholic Church) hay nhà Chùa (Buddhist
Temple) để nhờ các cha hay các thầy chùa làm
lễ-cưới ngay tại nhà thờ hay tại chùa để
chính-thức có giấy giá-thú.
đ. Rước Dâu
Nếu nhà trai ở gần nhà
gái trong cùng làng xóm th́ khi các
thân-nhân của nhà trai đem các lễ-vật đi đón
dâu, mọi người đi bộ thành đoàn người
tề-chỉnh; nếu ở xa th́ dùng xe hơi hay
thuyền (ở vùng quê) để chở lễ-vật và
thân-nhân đến nhà gái. Nếu dùng xe di đón
dâu, xe đón cô dâu phải được kết hoa ở phía
ngoài xe cho đẹp v́ “xe hoa” tượng-trưng cho
xe đám cưới. Người Việt ta thường tin là nếu
đi ra ngơ mà gặp đàn bà con gái th́ thật là
xui-xẻo. Chính v́ thế mà khi gia-đ́nh nhà
trai bắt đầu mang lễ-cưới đi đón dâu, gia
đ́nh nhà trai phải nhờ người đàn ông vui-vẻ
và dễ tính ra đón ngơ để khi mọi người vừa
đi ra đón dâu th́ được gặp đàn ông con trai
ngay trước ngơ cho may-mắn.
Nếu đi bằng xe hơi để đón
dâu th́ khi đến gần nhà gái, cách khoảng độ
200 thước Tây, mọi người phải xuống xe để
xếp thành đoàn người đi cho chỉnh-tề để dẫn
lễ-cưới đến nhà gái. Người đi đầu đám rước
dâu phải là một ông già cầm hương hoa. Để có
người chính-danh dẫn đầu đám rước dâu này,
nhà trai phải nhờ một ông già hiền-lành,
phúc-hậu, có địa-vị, có vợ chồng song-toàn,
có lắm con nhiều cháu, và không có tang để
dẫn đầu đoàn người đến nhà gái rước dâu về
nhà trai. Sự lựa chọn này có ư mong cho cô
dâu chú rể khi lấy nhau sẽ được bách-niên
giai-lăo (vợ chồng cùng sống với nhau
đến già), có lắm con nhiều cháu, và
công-thành danh-toại. Ông già này mặc áo dài
khăn đống hay áo thụng xanh, che lọng, và
cầm một bó hoa cùng một bó hương thắp cháy
hay bưng một lư-hương nhỏ có đốt trầm. Đi
liền sau ông già này là ba của chú rễ và
những người mang lễ-vật dẫn cưới. Tiếp theo
đó là chú rể, hai cậu phù-rể, và chú bác cô
d́ cậu mợ của chú rể, v.v.
Chú rể mặc quần áo và đội
khăn hay đội mũ rất lịch-sự. Quần áo cưới
của chú rể mặc vào ngày cưới không giống
quần áo mặc thường ngày. Ở Việt-Nam chú rể
thường mặc quần trắng, mặc áo the hay áo
đoạn kép, đội khăn đống, đội khăn lượt, hay
nón chóp quai tua; chân đi đôi giày Gia-Định
bóng ngời. Hiện nay ở hải ngoại, chú rể
thường mặc quần áo theo kiểu Tây-Phương hay
mặc áo dài đội khăn đống theo phong-tục
Việt. Y-phục của hai cậu phù-rể cũng
tương-tự như y-phục của chú rể.
Theo phong-tục Việt,
người mẹ của chú rể không bao giờ đi đón dâu
tại nhà gái, người mẹ chỉ ở nhà chờ khi rước
dâu về tới nhà th́ bà mẹ chú rể mới ra đón
con dâu vào nhà. Hiện này ở hải-ngoại, có
một số gia-đ́nh khi đi rước dâu và đưa dâu
về nhà chồng th́ cả bố mẹ chú rể đều đi cho
vui vẻ và trang-trọng.
Khi đám rước dâu đến
trước cửa nhà gái, có khi cả nhà trai nhà
gái đều đốt pháo ăn- mừng và bắt đầu quay
phim và chụp h́nh trong suốt Lễ Vu-Quy. Khi
vào trong nhà gái, xướng-ngôn-viên của nhà
trai và nhà gái giới-thiệu các thành-viên
của mỗi gia-đ́nh kể cả chú rể và cô dâu
tương lai. Sau khi trao lễ-vật rước dâu,
người chủ-hôn, bố chú rể, đứng ra ngỏ lời là
đă chọn được ngày lành tháng tốt để xin đón
dâu. Sau đó, gia-trưởng nhà gái, bố cô dâu,
đứng lên đáp lời chào mừng, ưng-thuận, và
cám-ơn. Tiếp theo đó, gia-trưởng nhà gái làm
lễ cáo gia-tiên và mời gia-trưởng nhà trai
cùng chú rể tương-lai và con gái ông ta, cô
dâu tương-lai, đến lễ gia-tiên nhà gái. Sau
khi lễ gia-tiên nhà gái, có đôi-khi nhà gái
yêu-cầu chú rể và cô dâu Lễ Tơ-Hồng ngay tai
nhà gái. Thường-thường th́ việc Lễ Tơ-Hồng
chỉ được tổ-chức tại nhà trai mà thôi. Sau
khi lễ gia-tiên nhà gái, chú rể và cô dâu
lại phải đến chào mừng ông bà và bố mẹ vợ
cùng các thân-nhân của nhà gái. Khi chú rể
đến chào mừng ông bà, bố mẹ vợ, và chú bác
cô d́ cậu mợ nhà gái, các vị này thường tặng
chú rể một món tiền hoạc vàng bạc hay các
món quà.
Sau khi chú rể và cô dâu
đă lễ gia-tiên và chào mừng mọi thân-nhân
của nhà gái, nhà gái mời mọi người của nhà
trai và nhà gái đến dự bửa tiệc trà. Sau bữa
tiệc-trà này và đến giờ hoàng đạo (giờ tốt),
nhà trai xin rước dâu. Lúc này cô dâu đă mặc
quần áo và trang-điểm thật chỉnh-tề. Cô dâu
thường mặc quần lĩnh hoa tranh, mặc áo dài,
và đội khăn vành hay nón thúng quay thao và
đi dép nhung cong. Ngày nay ở hải-ngoại, cô
dâu có thể mặc quần áo theo lối Tây-phương
cũng được. Đồng thời cô dâu cũng đă xếp
những đồ của ḿnh trong những cái
“va-li”(suitcase) để mang ra xe về nhà
chồng. Những đồ của cô dâu gồm có áo quần,
chăn gối, nữ-trang, sách-vở, và các dụng cụ
cá nhân, v.v. Theo phong tục Việt, ở
thôn-quê, họ nhà gái cử một số người đi tiễn
cô dâu về nhà chồng trong khi cha mẹ cô dâu
không bao giờ đưa con về nhà chồng. Tuy
nhiên, ở các tỉnh-thành trong nước trước
đây, nhất là ngày nay ở hải-ngoại, cha mẹ cô
dâu thường đi theo con gái về nhà chồng để
cho vui vẻ và trang-trọng. Trong số những
người tiễn cô dâu về nhà chồng có hai cô
phù-dâu. Y-phục của các cô phù-dâu cũng
na-ná như y-phục của cô dâu. Theo tục-lệ
Việt, những cô phù-dâu và những cậu phù-rể
phải là những người độc-thân, tức là chưa
lập gia-đ́nh. Chính v́ lư do này mà sau khi
phù-dâu phù-rể, các cậu phù-rể có thể
kết-duyên với các cô phù-dâu. Trước khi đi
về nhà chồng, cô dâu đến chào và lậy cha mẹ
đẻ. Đă có nhiều cô dâu khóc sướt-mướt khi
rời cha mẹ để về nhà chồng v́ thương nhớ cha
mẹ.
e. Lễ Vu-Quy
Lễ đưa dâu cũng được gọi
là Lễ Vu-Quy, nghĩa là lễ đưa con gái về nhà
chồng. Khi đưa dâu về nhà chồng, nhà gái
cũng nhờ một ông già cầm hương hoa đi trước
cùng với ông già dẫn cưới của họ nhà trai.
Đoàn người đưa dâu về nhà chồng đông đảo gấp
đôi v́ có thêm nhiều người của họ nhà gái.
Trước khi khởi-hành, nhà trai và nhà gái
cũng đốt pháo ăn-mừng. Nếu đón dâu bằng xe
th́ sau khi đi bộ từ nhà gái ra xe, mọi
người đều lên xe, xe đi đầu là xe của các cụ
già cằm hương hoa, xe kế-tiếp là xe hoa dành
cho cô dâu chú rể. Cũng có nơi, xe hoa dành
riêng cho cô dâu với các cô phù-dâu, c̣n chú
rể ngồi một xe khác với các cậu phù-rể. Tiếp
theo đó là các xe của thân-nhân nhà trai và
nhà gái. Ở Việt-Nam trước đây có trường hợp
là đôi khi nhà trai ở cùng một đường phố với
nhà gái, chỉ cách nhau vài trăm thước, nhà
trai vẫn dùng xe hơi để rước dâu để đi
ṿng-vo qua những đường phố khác trước khi
rước dâu về nhà. Đây là cách để phô-trương
cho mọi người biết. Trong khi rước dâu ngoài
phố và khi làm lễ-cưới ở nhà trai, việc quay
phim và chụp h́nh đều tiến-hành để có
h́nh-ảnh làm kỷ-niệm suốt đời cho cô dâu chú
rể.
Khi về đến ngơ nhà trai,
nhà trai thường đốt pháo để tỏ vẻ vui-mừng
đón cô dâu v́ tiếng pháo nổ là tượng-trưng
cho sự vui-mừng. Tiếp đó là bà mẹ chồng ra
đón tiếp con dâu và thân-nhân nhà gái. Có
nhiều nơi, khi cô dâu về nhà chồng, bà mẹ
chồng không ra đón con dâu mà trước đó đă
xách b́nh vôi đi lánh mặt một lúc rồi mới về
để chào mừng và tiếp khách. V́ b́nh vôi
tượng-trưng cho sự coi-sóc gia-đ́nh, nên bà
mẹ mang b́nh vôi về để giao trách-nhiệm cho
cô dâu hoàn-thành nhiệm-vụ: “Lấy chồng gánh
vác giang-sơn nhà chồng.”
g. Lễ Gia-Tiên tại Nhà
Chồng
Sau khi được đón tiếp về
tới nhà chồng, cô dâu theo chú rể đến chào
ông bà và cha mẹ chồng rồi vào lễ gia-tiên.
Sau khi lễ gia-tiên xong, chủ-hôn nhà trai
và nhà gái đeo nhẫn cưới cho cô dâu chú rể.
Có nhiều nơi, việc đeo nhẫn cưới cho cô dâu
chú rể được thực-hiện trong khi Lễ Tơ-Hồng,
và c̣n được đeo nhẫn cưới ở nhà thờ và ở nhà
chùa nữa. Sau khi chào ông bà cha me chồng,
lễ gia tiên nhà trai, và đeo nhẫn cưới, cô
dâu và chú rể lại đến Lễ Tơ Hồng.
h. Lễ Tơ-Hồng
Theo truyền-thống người
Việt ta, Nguyệt-Lăo là vị thần-chủ của
hôn-sự nên các đám cưới đều có tục-lệ lễ
Tơ-Hồng để tỏ ḷng biết ơn Nguyệt-Lăo đă
dùng dây tơ-hồng xe cho cô dâu chú rể nên
duyên vợ chồng. Bàn thờ Tơ-Hồng có thể lập ở
trong nhà hay giữa sân. Trên bàn thờ Tơ-Hồng
có lư-hương, đèn, nến, hoa quả, xôi gà, ly
rượu, và cơi trầu. Cô dâu chú rể đứng hàng
ngang trên chiếu trải trước hương-án để lạy
4 lạy, vái 3 vái, rồi quỳ nghe người đại
diện nhà trai đọc văn-tế Tơ-Hồng (xem mục
Cước-Chú số 2 ở phía dưới bài này về Văn-Tế
Tơ-Hồng). Khi người ta đọc xong văn-tế, chú
rể cô dâu lại lễ-tạ Nguyệt-Lăo rồi cùng uống
chung một ly rượu và ăn một miếng trầu đă có
sẵn trên bàn thờ Tơ-Hồng. Uống chung ly rượu
này có nghĩa là hai người sẽ là một và sống
tới khi đầu bạc răng long.
Sau khi Tế Tơ-Hồng, cô
dâu chú rể đều đến chào mừng chú bác, cô d́,
cậu mợ, thím, và anh chị em của chú rể. Khi
đến chào mừng ông bà, cha mẹ, cô d́, bác,
cậu mợ, chú thím, và anh chị em nhà trai, cô
dâu chú rể đều được quư vị này tặng tiền hay
quà và ngỏ lời khuyên mừng như: “ Ăn ở
thuận-ḥa, trên kính dưới nhường, / Sắt cầm
ḥa-hợp, bách-niên giai-lăo, / Bằng rày sang
năm có cháu cho bà bế, / Đầu năm sinh con
trai, cuối năm sinh con gái, v.v.”
i. Tiệc Cưới Tại Nhà Trai
Sau khi cô dâu chú rể
lễ-bái và chào mừng mọi người, chủ nhà trai
mời những người hiện-diện của nhà trai và
nhà gái trong đám cưới vào dự tiệc cưới tại
nhà trai. Sau buổi tiệc cưới ở nhà trai, các
thân-nhân của nhà gái ra về.
Sau lễ cưới ở nhà và ở
nhà thờ hay nhà chùa, các bằng-hữu,
thân-nhân, và quan-khách của hai họ đều được
mời đi dự tiệc cưới tại tiệm ăn, cao-lâu,
hay quán cơm (restaurant). Thiệp mời
tiệc-cưới này đă đă được gửi đến cho mọi
người trước khi làm đám cưới.
k. Lễ Động-Pḥng hay
Giao-Duyên
Ngay buổi tối hôm đám
cưới, có lễ động-pḥng hay giao-duyên cho cô
dâu chú rể. Theo tục-lệ, trước khi
động-pḥng (pḥng cưới tức là pḥng của đêm
tân-hôn để cô dâu chú rể nằm ngủ với nhau
lần đầu tiên sau đám cưới), một bà già vẫn
c̣n có chồng và đông con nhiều cháu đứng ra
phụ trách sắp-đặt giường chiếu chăn gối màn,
mâm rượu, cơi trầu cho cô dâu chú rể dùng.
Sau đó cô dâu chú rể dắt nhau vào trong
pḥng làm lễ hợp-cẩn, tức là cùng nhau uống
chung một chén rượu và cùng ăn một miếng
trầu trước khi ngủ với nhau trong đêm cưới.
Sau đó uống rượu và ăn trầu, cô dâu lạy
chồng hai lạy và chồng đáp lại một vái.
Trước khi vợ chồng ngủ với nhau trong đêm
tân-hôn, cô dâu thường kiếm cách ngồi trên
đầu giường và vắt quần áo của ḿnh lên trên
quần áo của chồng. Việc làm này cô dâu có ư
là làm cho chồng chiều-chuộng và phục ṭng
ḿnh trong suốt cuộc đời làm vợ.
l. Lễ-Cưới Tại Nhà Thờ
(Catholic Church) hay Nhà Chùa (Buddhist
Temple)
Sau khi rước dâu về nhà
chồng, ngay ngày hôm sau nhà trai và nhà gái
c̣n có hẹn đến làm lễ-cưới tại chùa hay nhà
thờ. Mọi nghi-lễ đều do vị ḥa-thượng của
chùa hay đức cha của nhà thờ định đoạt.
Lễ-cưới ở nhà chùa hay nhà thờ cũng có
nghi-lễ đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô dâu.
Nếu chú rể và cô đâu đă đeo nhẫn cưới ở nhà
th́ trước khi đến nhà thờ hay nhà chùa, phải
tháo nhẫn cưới đó ra trước khi lên gặp các
cha hay các thầy để đeo nhẫn cưới cho. Ở
hải-ngoại này, nếu lễ-cưới được cử hành ở
nhà chùa hay nhà thờ th́ nhà chùa hay nhà
thờ đă thừa lệnh của chính-phủ địa-phương để
làm giấy giá-thú cho chú rể cô dâu ngay tại
nhà thờ hay nhà chùa trong khi làm lễ-cưới.
m. Lễ Từ-Đường
Tại làng xóm Việt-Nam
trước tháng 4 năm 1975, dân Việt đều có lập
đền-thờ cho mỗi họ với cái tên là “từ-đường”
(ancestral hall). Như thế, họ nhà trai và họ
nhà gái đều có từ-đường riêng của họ. Chính
v́ thế mà ở làng xóm tại Miến Bắc Việt-Nam
trước trước năm 1945, khi nhà trai đến nhà
gái rước dâu th́ chú rể và cô dâu đều phải
đến từ-đường của họ nhà gái để lễ xong rồi
mới trở về nhà gái để lễ gia-tiên nhà gái.
Khi cô dâu về tới nhà trai th́ chú rể và cô
dâu cũng lại phải ra từ-đường của nhà trai
để lễ trước rồi mới về làm lễ gia-tiên tại
nhà chú rể.
Ở hải-ngoại này chúng ta
không có từ-đường cho mỗi họ nên cô dâu chú
rể chỉ cần lễ gia-tiên của nhà gái và nhà
trai tại nhà mà thôi.
n. Tiệc-Cưới Tại Nhà
Hàng Dành Cho Bằng-Hữu, Thân-Nhân, và
Quan-Khách của Nhà Trai Nhà Gái
Khi làm lễ vu-quy ở
nhà gái và lễ cưới ở nhà trai, chỉ những
thân-nhân và những bằng-hữu của hai họ đă
tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới ở nhà gái và
nhà trai mới được mời tham-dự tiệc-trà hay
tiệc-cưới ngay sau buổi lễ gia-tiên tại mỗi
gia-đ́nh nhà trai và nhà gái. C̣n đối với
bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách không đến
tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới th́ sau khi làm
lễ cưới ở nhà trai và nhà thờ hay nhà chùa,
các bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách của
nhà trai và nhà gái kể các cha và các thầy
đều được mời đến dự tiệc cưới tại nhà hàng,
tiệm ăn, quán cơm, hay cao-lâu (restaurant).
Trong tiệc-cưới ở nhà hàng, ngoài bằng-hữu
và quan-khách, mọi thân-nhân của hai họ cũng
được mời tham dự tiệc-cưới tại nhà hàng này.
Ngày tháng tổ-chức tiệc-cưới và địa điểm của
nhà hàng dùng để tổ chức tiệc-cưới này đă
ghi trong thiệp-mời gửi bằng hữu, bà con, và
các quan-khách trước khi làm lễ-cưới cả
tháng.
Về việc tổ-chức tiệc-cưới
tại nhà hàng, nhà trai và nhà gái phải nhờ
thân-nhân làm ban tổ-chức để tiếp-tân và
điều-khiển nghi-lễ. Công-việc của ban
tiếp-tân là ghi danh các quan-khách,
bằng-hữu, và thân-nhân đến dự, nhận quà do
mọi người biếu cô dâu chú rể, và chụp h́nh
cùng quay phim khi gặp mọi người đến
tham-dự. Việc chụp h́nh và quay phim c̣n
thực hiện trong suốt buổi tiệc cưới tại nhà
hàng để có tài liệu làm kỷ-niệm cho cô dâu
chú rể. Cần phải có ban nhạc để giúp
thân-nhân của hai họ cùng bằng-hữu và cô dâu
chú rể t́nh-nguyện trong việc hát giúp vui
cho tiệc-cưới.
Trước khi bắc-đầu
tiệc-cưới, cha mẹ cô dâu và cha mẹ chú rể
phải lên sân-khấu chào mừng và giới-thiệu
quan-khách, bằng-hữu, cùng thân-hân hai họ
nhà trai và nhà gái. Sau đó, ban tổ-chức
phải đặc biệt giới thiệu cô dâu và chú rể.
Ở hải-ngoại này, nếu các
gia-đ́nh người Việt dốc ḷng tranh-đấu cho
tự-do dân-chủ và nhân-quyền của đồng bào
trong nước, họ đều tổ-chức lễ chào cờ bản-xử
và cờ Việt Nam Tự Do trong các buổi
tiệc-cưới ở nhà hàng v́ đây là trường-hợp
tập-thể của người Việt sum-họp với nhau
đông-đảo tại cộng-đồng th́ phải có lễ chào
cờ.
Trong khi mọi người đang
ăn uống tại bữa tiệc-cưới này, bố mẹ chú rể
cùng với bố mẹ cô dâu phải dẫn cô dâu chú rể
đi đến từng bàn ăn để chào mừng quan-khách,
bạn-bè, và thân-nhân. Trong lúc này, người
phụ-trách chụp h́nh và quay phim cần phải
thực-hiện cho chu-đáo.
Sau khi mọi người ăn-uống
xong trong tiệc-cưới tại nhà hàng, có những
gia-đ́nh nhà trai và nhà gái tổ-chức
khiêu-vũ hay nhảy đầm ngay tại đây để giúp
cho kết-quả tiệc-cưới vui-vẻ một cách
hoàn-hảo.
Khi quan-khách và
bằng-hữu cùng thân-nhân ra về, bố mẹ cô dâu
cùng với bố mẹ chú rể cần phải ra đứng ở cửa
để cám ơn và tiễn quan-khách, bằng-hữu, và
thân-nhân.
o. Lễ Lại-Mặt
Theo lệ thường của dân
Việt, sau khi cưới được 3 ngày, hai vợ chồng
phải đem xôi, chè, rượu, và trầu cau về nhà
bố mẹ vợ để cúng gia-tiên. Lễ này được gọi
là Lễ Lại-Mặt hay Tứ-Hỷ. Nếu vợ chồng đem lễ
về nhà bố mẹ vợ ngay hôm sau ngày cưới th́
tên lễ này cũng được gọi là Lễ Lại-Mặt hay
Nhị-Hỷ. Sau khi cô dâu chú rể lễ gia-tiên,
bố mẹ vợ có lời dặn-ḍ cô con gái (cô dâu)
phải đối-xử trọn-vẹn bổn-phận với chồng và
gia-đ́nh nhà chồng v́ từ nay cô dâu sẽ là
người của nhà chồng. Chính v́ thế mà ca-dao
Việt có câu: “ Con gái là con người ta, /
Con dâu mới thật mẹ cha mua về.”
p. Giấy Giá-Thú
(marriage licence)
Giấy giá-thú hay giấy
hôn-thú rất quan-trọng để vợ-chồng sống với
nhau một cách hợp-pháp hầu hưởng mọi
quyền-lợi của gia-đ́nh và trợ-cấp của
chính-phủ, nhất là ở nơi hải-ngoại này.
Ở hải-ngoại này, khi đă
làm lễ-cưới tại chùa hay nhà thờ, giấy
giá-thú của cô dâu chú rể đều được nhà thờ
hay chùa cấp cho v́ nhà thờ hay nhà chùa đều
được chính-phủ địa-phương chấp-thuận cho làm
việc này. Nếu không làm lễ-cưới tại chùa và
nhà thờ th́ gia đ́nh nhà trai và nhà gái
phải tới văn-pḥng “City Clerk’s Office” của
“City Hall” (Ṭa Đô-Chánh) hay văn-pḥng
luật-pháp ở địa-phường để làm giấy giá-thú
(marriage licence). C̣n ở Việt-Nam trước
ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi làm
lễ-cưới, chủ nhà trai và nhà gái phải đến
văn-pḥng hộ-tịch tại địa-phương để làm giấy
giá-thú cho con, nếu không th́ việc hôn-nhân
có thể bị tiêu-hủy.
q.Tuần Trăng-Mật
(Honeymoon)
Sau khi cưới, vợ chồng
thường nghỉ một tuần hay một tháng để đi
chơi chung với nhau. Đi chơi chung với nhau
một tuần gọi là hưởng tuần trăng-mật, đi
chơi chung một tháng với nhau gọi là hưởng
tháng trăng mật. Suốt một tháng trời sau
ngày cưới là tháng ngọt-ngào tuyệt-vời (the
first month of marriage is the sweetest). Ở
Bắc-Mỹ này, trong 30 ngày của tháng đầu-tiên
sau ngày cưới, vợ chồng đều uống ly thuốc bổ
có mật-ong để hưởng thú-vui hợp-cẩn (a newly
married couple drink a potion containing
honey on each of the first 30 days of the
marriage to enjoy the pleasure of wedding
feast). Tuần trăng-mật hay tháng trăng-mật
này rất quan-trọng cho hạnh-phúc của cuộc
đời đội vợ chồng từ sau ngày cưới cho đến
khi đầu bạc răng long.
r. Cưới Chạy Tang
Trước đây, tiền-nhân ta
có luật-pháp cấm nhà trai nhà gái không được
làm lễ-cưới gả trong khi gia-đ́nh để tang
thân-nhân kể từ tiểu-tang cơ-niên (để tang 1
năm) đến đại-tang (để tang 3 năm). Chính v́
thế mà sau Lễ Ăn-Hỏi, nếu nhà trai hay nhà
gái có ông, bà, cha, me, hoặc chú bác bị
bệnh nặng có thể chết th́ gia-đ́nh phải lo
làm lễ-cưới cho con trước khi nhà có người
chết. Khi gặp trường-hợp bất-đắc-dĩ,
gia-đ́nh phải làm lễ-cưới ngay sau khi có
ông, bà, cha, hay mẹ chết bất th́nh-ĺnh.
Việc làm lễ-cưới vội-vă trước khi làm đám
tang có tên là cưới chạy tang. Đám
cưới chạy tang rất giản-dị và nhanh chóng
đối với cả hai gia-đ́nh nhà trai và nhà gái
v́ mọi người c̣n phải dành th́ giờ để lo đám
tang cho thân-nhân.
London, ngày 21 thang 6 năm
2004
------------------------------------------------------------
Cước-Chú:
1. Thiếp Báo-Hỷ và
Thiệp Mời
(Thiệp làm bằng giấy màu
vàng th́ viết bằng chữ màu đỏ hay xanh; nếu
thiệp làm bằng giấy màu trắng th́ viết bằng
chữ màu vàng, đỏ, hay xanh; )
Thiệp Báo-Hỷ
Ngày . . . . . . . . .
(Chỗ viết tên và địa chỉ
(Chỗ vẽ dấu-hiệu về tên (Chỗ viết tên và địa
chỉ
của bố mẹ chàng rể) của
cô dâu chú rể) của bố mẹ cô dâu)
Kính thưa quư-vị,
Chúng tôi trân-trọng báo
tin Lễ Thành-Hôn và Vu-Quy của con chúng
tôi:
. . . . . . . . . . . . .
. (viết họ và tên chú rể) . . . . . . . . .
. . . . .(viết họ và tên cô dâu)
Trưởng-nam (hayThứ-nam)
Trưởng-nữ ( hay Thứ-nữ)
Hôn-lễ sẽ được cử-hành
vào lúc . . . (giờ sáng/chiều) . . . .(ngày
trong tuần-lễ)
Ngày . . . tháng. . . . .
năm . . . . . . . . (ngày tháng năm
tây-lịch)
Nhằm ngày. . .tháng. . .
năm . . . . . . . . (ngày tháng năm âm-lịch)
Tại. . . (địa-chỉ nơi
tổ-chức hôn-lễ)
Trân-trọng,
( Kư tên và biên tên ba
hay má của chú rể / ba hay hay cô dâu đứng
ra báo tin)
------------------------------------
Kèm theo tâm thiệp báo-hỷ
này, chúng ta c̣n cần phải có tấm thiệp mời
quan-khách đến dự tiệc-cưới. Tấm thiệp mời
này cũng phải viết bằng song-ngữ để tiện
việc mời cả người Việt lẫn người bản-xứ.
Tiếp theo đây là bản thiệp mời bằng tiếng
Việt với nội-dung như sau:
Thiệp Mời
Ngày…. . . . . . . . . . .
. . .
Kính thưa . . . . . . . . .
. . .(biên tên người được mời)
Trân trọng kính mời Ông Bà
(Ông/ Bà/ hay Anh Chị) đến dự buổi tiệc-cưới
chung vui cùng với gia-đ́nh chúng tôi tại:
. . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . (biên địa-chỉ nơi tổ-chức
tiệc-cưới)
Vào lúc . . . . . . . . . .
. (biên giờ, ngày trong tuần, và ngày tháng
năm tây lịch)
Sự hiện-diện của Ông Bà sẽ
là niềm vinh-dự cho gia-đ́nh chúng tôi. Kính
xin Ông Bà làm ơn thông-báo cho chúng tôi
biết (bằng số điện thoại dưới đây) là có đến
tham-dự tiệc-cưới được hay không.
Xin thông báo cho chúng tôi
biết trước ngày . . . . . . . . . . . . . .
.(đề ngày trước một tuần của ngày có tiệc
cưới).
. . . . . . . . . . (tên
người của gia đ́nh nhà trai), . . . . . . .
. . . . . .(số điện thoại)
. . . . . . . . . . (tên
người của gia đ́nh nhà gái), . . . . . . . .
. . . . . .(số điện thoại)
Trân-trọng,
(kư tên và biên tên của
người đứng mời)
Hồi xưa ở Việt-Nam, các
gia-đ́nh đều dùng bài Văn-Tế Tơ-Hồng sau đây
của Học-Giả Triêu Dương Nguyễn Các-Phụng:
2. Văn-Tế Tơ-Hồng
Duy Nguyệt-Lăo xe duyên
ngày... tháng . . . năm . . . thành-phố . .
. tỉnh . . . nước. . . V́ việc kết-hôn của .
. . . (tên chú rể) cùng . . . (tên cô dâu),
nay hôn-sự đă thành, kính dâng lễ bạc ḷng
thành lên Đức Tơ-Hồng Nguyệt-Lăo Thiên-Tiên.
Ngài rất công, rất thẳng,/ Không vị, không
thiên,/ Đem kính ngọc xét soi thế-sự, / Lấy
chỉ hồng xe kết nhân duyên, / Xui nhạn cá
mối-manh đưa lại, / Nên uyên-ương sum-họp
phỉ-nguyền, / Bởi nợ trước duyên sau cùng
sinh một hội, / Vậy người Nam kẻ Bắc
kết-duyên bách niên, / Đuốc hoa xán-lạn hai
nhà nhờ ơn Nguyệt-Lăo,/ Thước ngọc hợp-thành
một cặp bởi đức Hoàng-Thiên, / Gối phượng
chăn loan tưng-bừng đôi lứa, / Chèo lan lái
quế êm-ấm một thuyền, / Mong sớm ứng điềm
lành, mộng hổ, mộng hùng, mộng sà, mộng
lộc,/ Được sau nên họ lớn, sinh đào, sinh
lư, sinh huệ, sinh liên, / Nguyện cùng trăm
năm giai-lăo, / Ước rằng hai họ măn-viên, /
Trông ơn đại-đức, / Tấc dạ vi kiền. Cẩn cáo