Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Lễ hội Kỳ Yên Nghi Thức

Hàng năm, mỗi đ́nh làng ở B́nh Dương có nhiều ngày lễ:

- Các lễ tiết tứ thời có ngày đưa thần (25/12), rước thần (30/12), nguyên Đán (1/giêng), Đoan Ngọ (5/5), khai sơn (7/1).

- Xưa kia, ngày 25 tháng chạp, lúc hội có c̣n làm việc tại đ́nh, có lợi rửa con dấu bỏ vào hộp niêm kín, rồi dựng nêu báo tin thời gian nghĩ tết. Do đó ngày đưa thần c̣n gọi là ngày dựng nêu hoặc ngày niêm ấn. Đồng thời đến chiều ngày mồng 7, hương chức hội tề làm lễ khai ấn.

- Các ngày lễ của các tôn giáo xâm nhập vào chốn đ́nh trung có ba ngày Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên.

- Các ngày lễ mang tính dân gian như lễ cúng miếu, cầu an tống phong.

Nhưng quan trọng nhất là lễ Hạ Điền và Thượng Điền. Lệ Hạ Điền thường tổ chức đầu mùa mưa - biến dạng của lễ Xuân Tế và thường ba năm có lệ lấy ngày Hạ Điền là ngày Kỳ yên. C̣n lễ Thượng Điền tổ chức vào cuối mùa mưa, gọi là Thượng Điền chạp miễu. Nhưng ở B́nh Dương thường không tổ chức lễ Thượng Điền vào những ngày cuối năm mà lại ảnh hưởng điển lễ "thu tế", tổ chức lễ Cầu Bông (c̣n gọi là lễ Cầu Hoa, Kỳ Huê) tổ chức vào khoảng giữa tháng 8. Đại khái các đ́nh trong tỉnh B́nh Dương mỗi năm đều có một lễ lớn và một lễ phụ Kỳ yên có nghĩa là cầu an, có nơi gọi là vía thần Thành Hoàng, vía Ông. Đây là lễ hội quan trọng nhất trong năm. Lễ này kéo dài một ngày rưỡi đến ba ngày. Theo Trịnh Hoài Đức tác giả sách Gia Định Thành Thông Chí th́ ngày giờ cúng tế tuỳ theo tục lệ của từng làng. Có chỗ chọn tháng giêng, tháng hai, giữ nghĩa "Xuân kỳ", có nghĩa vào mùa xuân làm lễ cầu thần cho được sắp tới. Hoặc có chỗ tháng 8, tháng 9, giữ nghĩa "thu báo", có nghĩa vào mùa thu làm lễ báo đáp sau khi gặt xong. Hoặc dùng trong ba tháng mùa Đông, giữ nghĩa trọn năm đă thành công nên tế "chưng", tế "lạp" tạ ơn thần (ta gọi là chạp miễu). Như thế lễ Kỳ yên hay lễ Cầu Bông đều nhằm mục đích cầu "Phong điều vũ thuận", mùa màng bội thu, "Quốc thái dân an", làng xóm yên vui, dân giàu nước mạnh.

Kỳ yên thường tổ chức vào các ngày 12 - 13 hoặc rằm - 16 là những ngày có trăng để dân làng có thể đến tham dự suốt đêm, ra về thuận tiện. Trong những ngày này triều cường cao, ghe xuồng tới lui cũng tiện. Kỳ yên thường tổ chức vào những tháng giao mùa như tháng 2, tháng 4, tháng 11… là thời điểm dân làng rănh rỗi. Hiện nay chúng ta thấy nhiều đ́nh ở gần nhau th́ có ngày lễ hội trùng gống nhau. Tương truyền đó là ngày đưa sắc thần về làng nên dân làng tổ chức hội hè ăn mừng. Nhưng đó chỉ là một cách giải thích.

Chương tŕnh lễ Kỳ yên tại các ngôi đ́nh ở B́nh Dương diễn tiến như sau:

  • Lễ Khai môn
  • Lễ thỉnh sắc thần
  • Lễ Tiền Hiền, Chiến sĩ, Cúng miếu.
  • Tế Túc Yết
  • Tế Đàn Cả
  • Lễ Đưa Sắc

Lễ Kỳ yên (tại đ́nh làng) hay các lễ cúng tế ( tại các miếu thờ phúc thần) đều mục đích tạo việc cho dân địa phương đến lễ bái cầu làng xóm b́nh yên, quốc gia thịnh vượng. Lễ Cầu Bông c̣n mang nét đặc trưng của nông nghiệp, lễ này có nghi tiết tế Thần Nông, Vũ Sư, Phong Bá, Lôi Công, Điển Di… cùng các vị thần sông núi để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Ngày Kỳ yên cũng là ngày tế Tiền Hiền - Hậu Hiền, Tiền Bối - Hậu Bối … Đây là một nghi lễ bắt nguồn từ nếp nghĩ quư trọng công lao của các bậc tiên tổ có công, biểu thị tư tưởng truyền thống uống nước nhớ nguồn, một h́nh thức tri ân các bậc tiền nhân có công khai sáng bồi đắp cho địa phương.

Gần đây các đ́nh trong tỉnh B́nh Dương thịnh hành tục thờ phượng cúng tế các liệt sĩ, là con dân trong làng hy sinh v́ sự nghiệp cứu nước và giữ nước. Hoặc các đ́nh định ra nghi thức niệm hương tưởng nhớ đên Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Vị lănh tụ tài ba của dân tộc. Các tục lệ này bao hàm ư nghĩa cũng tương tự như tục lệ thờ cúng các danh nhân hữu công ở địa phương, cần duy tŕ và phát huy.

Theo tên gọi, "Kỳ yên" tức là "Cầu an". Do đó ngoài nghi thức tế tự chính thống c̣n mang nhiều dạng tính ngưỡng dân gian. Như trong ngày Kỳ yên có lễ cúng miễu, có thể mời bà bống diễn xướng múa hát. Một số nơi ngày Kỳ yên có thể mời thầy Pháp đến làm lễ tống ôn, tá thổ. Một số nơi, nhiều nhà sư đến tụng kinh cầu an cho bà con trong làng trong xóm. Tuy nhiên, không phải nơi nào cũng như thế v́ xưa kia có nơi quan niệm chính thống đă lấn át các loại tín ngưỡng dân gian. Hơn nữa, càng về sau các loại nghi lễ không c̣n hợp thời, (như lễ Tống On, Tá Thổ) cũng bị trào lưu khoa học tấn công nên đă bị trừ. Thế nhưng từ khi kinh tế thị trường mở cửa th́ các dạng tính ngưỡng dân gian này có khuynh hướng khôi phục.

Lễ hội là dịp trưng bày tài nghệ, sự khéo léo của dân chúng. Đây là dịp chị em phụ nữ thi tài làm bánh, thổi sôi (thông qua lễ vật dâng cúng). Đây là dịp các nghệ nhân giới thiệu tài chưng kết bằng hoa quả, cây lá, giới thiệu bộ đỉnh đồng, cái lọ cắm hoa… có một số nơi ngày Kỳ yên c̣n là dịp giới thiệu các loại trái cây đầu mùa… xa hơn có nơi c̣n tổ chức các tṛ chơi dân gian, đua ghe, đua xuồng, triển lăm gia súc, gia cầm… sau lễ hội ban tổ chức thường trích một phần quà phát thưởng (có thể là một khúc vải, một ít tiền) giá trị vật chất tuy không nhiều nhưng về tinh thần th́ không có ǵ sánh được.

Nói đến lễ hội là nói đến tiệc tùng, hát xướng. Thế nhưng ở địa phương B́nh Dương không có cảnh "chiếu trên, chiếu dưới" cũng không có cảnh "miếng thịt làng bằng một sàng xó bếp". Lư do là theo tục lệ ở Nam bộ khi chức vụ cao được phần nhiều th́ phải đóng góp nhiều. Hơn nữa, ngay từ khi những ngày đầu bị đô hộ, đ́nh làng hội hè đă không c̣n do chính quyền địa phương trực tiếp quản lư. Do đó những người tham gia lễ hội có tính tự nguyện và b́nh đẳng, nhưng mang tính chiêu đăi thù tạc vui vẽ. Ở thị xă, thị trấn… cảnh ăn uống nhậu nhặt say sưa trong ngày lễ hội đă bắt đầu lùi vào quá khứ.

C̣n hát bội trong ngày Kỳ yên là chương tŕnh văn nghệ mang tính nghi lễ gồm ba tiết mục: Khai chầu đại bội, hát tuồng và tôn vương, hồi chầu. Tiết mục cuối cùng mang tính chúc tụng. Tiết mục đầu tiên mang tính nghi lễ như tẩy uế, thử trống và đánh ba hồi trống khai tràng. Chương tŕnh đại hội là chương tŕnh văn nghệ gồm các điệu múa cung đ́nh giải thích thuyết tạo lập vũ trụ theo Dịch lư từ Thái cực sinh Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành. Tiếp theo chương tŕnh đại hội là ba màn hát: hai màn đầu có thể là cảnh loạn lạc, người trung bị gian thần hăm hại, vua bị tiếm quyền. Nhưng màn cuối cùng bắc buộc chính nghĩa phải thắng gian tà. Như vậy chức năng hát bội cung đ́nh không hoàn toàn là tṛ biểu diễn giúp vui mà c̣n mang tính nghi lễ. Như thế người cầm chầu là người thay mặt thần, thay mặt khán giả khen chê bằng tiếng trống.

"Nghe trống chiến chết điếng cái đầu, nghe trống chầu cái đầu láng mướt" là tâm trạng của dân làng trong ngày Kỳ yên. Xưa kia theo nguyên tắc "tam niên đáo lệ Kỳ yên", tức là ba năm phải tổ chức Kỳ yên to, có tế lễ, có hát xướng. Thế nhưng sau giai đoạn chiến tranh kéo dài một phần truyền thống được khôi phục, nhưng nh́n chung chỉ mới có một số đ́nh đủ điều kiện tổ chức theo lễ.

 

Lễ Kỳ Yên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, là lễ tế thần Thành Hoàng lớn nhất trong năm của một ngôi đ́nh thần ở Nam Bộ, Việt Nam.
 
Tùy theo điều kiện kinh tế, nhưng thường th́ cứ ba năm (tam niên đáo lệ kỳ yên) Ban quư tế đ́nh làm lễ tế long trọng và qui mô hơn: Đại lễ Kỳ yên, tức ngoài các lễ tế thường kỳ c̣n có thêm 4 lễ nữa, đó là: Lễ rước Tổ hát bội, lễ Xây chầu, Hát chầu và Hồi chầu.
Sơ lược các lễ tế
 
Giới thiệu lễ Kỳ yên ở Nam Bộ xưa, sách Gia Định thành thông chí (mục Phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn:
 
 
Cúng Kỳ yên: mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đ́nh, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đ́nh, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học tṛ lễ mặc áo, măo, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về...[1]
 
Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiều lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc, thứ tự & chi tiết, nhưng thường th́ các lễ được tiến hành đại để như sau:
Ngày thứ nhất
Có các lễ tế:
Lễ rước Tổ hát bội
 
Đến kỳ đáo lệ Kỳ yên (Đại lễ Kỳ yên), ngay từ sáng sớm, Ban quí tế cử người bưng một khai gỗ có trầu, rượu, hương, đèn, tiền lễ; cùng 4 quân hầu cầm 4 món thuộc bộ Lỗ bộ và Ban nhạc lễ ra tận cổng để rước Tổ hát bội vào đ́nh, rồi đặt trang trọng sau hậu trường vơ ca.
 
Lễ Thỉnh sắc
 
Sau khi an vị Tổ hát bội xong, một đám rước với đầy đủ chiêng, trống, cờ, lộng, long đ́nh cùng đội nhạc lễ, đội lân...đi đến chỗ cất giữ sắc thần (thường th́ để ở trong một ngôi nhà kiên cố của một vị chức sắc có uy tín). Đến nơi, người có trách nhiệm vào tế một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế ngắn gọn (hay khấn cũng được), rồi đem sắc đặt vào long đ́nh, rước về. Đến đ́nh, phải cử hành thêm nghi thức an vị, gồm: một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà, rồi mới đưa tráp đựng sắc phong để trên bàn thờ thần nơi chính điện.
 
Lễ này, Đ́nh Châu Phú (An Giang) tiến hành vào 7 giờ sáng ngày mùng 10 tháng Năm âm lịch. Vào lúc ấy, một đoàn xe được trang hoàng đẹp đẽ chạy đến Nhà lớn cũng ở gần đó, làm lễ thỉnh sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đ́nh.
 
Lễ Nghinh
 
Một số làng, sau lễ thỉnh sắc thần Thành hoàng c̣n tổ chức Lễ Nghinh, tức đưa kiệu đến các đền miếu trong làng, dâng hương, khấn cung thỉnh mời chư vị thần về đ́nh dự lễ. Xong, đem lư hương của các vị thần này lên kiệu trở về, đặt trên bàn hương án bày ở ngoài đ́nh, hoặc trên bàn Hội đồng ngoại ở bên trong đ́nh.
 
Ở Đ́nh Châu Phú, sau khi rước sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đ́nh; tiếp theo là Lễ nghinh, tức lễ thỉnh sắc thần Thoại Ngọc Hầu tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc Hầu), và sắc thần của hai ông là Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh.
Tụng kinh cầu an
 
Có một số đ́nh có phần lễ này. Đây vốn là nghi thức của Phật giáo hội nhập vào đ́nh miếu, mục đích cầu chư Phật, chư thần thánh ban cho dân làng sự an lành. Khởi đầu cử người thiết lập bàn thờ Phật Quan Âm, rồi tiến hành niệm hương tán Phật, tụng kinh Phổ môn; cuối cùng đọc sớ rồi đốt sớ gửi cho chư Phật và cho chư thần thánh.
Ngày thứ hai & thứ ba
Có các lễ tế:
Lễ Túc yết
 
Tức là lễ hương chức ra ra mắt thần. Theo cổ lệ mà sách Gia Định thành thông chí đă biên chép, th́ lễ này được tiến hành vào buổi chiều cho đến hết đêm ngày thứ nhất. Nhưng giờ đây, tùy theo điều kiện của mỗi đ́nh, mà giờ giấc có thay đổi đôi chút.
Theo sách Sổ tay hành hương đất phương Nam th́, sắp đến giờ hành lễ, các thành viên của Ban tế tự mặc áo thụng xanh, khăn đóng, mang giày đứng sắp hàng hai bên vơ ca cùng với ban nhạc lễ, các lễ sinh và đào thài (đào chuyên hát chúc tụng) trong tư thế sẵn sàng. Rồi một lễ sinh bắt đầu xướng các nghi thức và các hương chức được phân công tuần tự thực hiện những nghi thức như sau:
Củ sát tế phẩm: kiểm lại đồ cúng.
Tuần hương: dâng hương.
Tuần rượu thứ nhất: dâng rượu lần nhất.
 
Đọc văn tế chữ Hán: cầu nguyện thần Thành hoàng phù trợ sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an,...
Tuần rượu thứ hai: dâng rượu lần hai.
Tuần rượu thứ ba: dâng rượu lần ba.
Hiến quả phẩm: dâng trái cây.
Hiến bỉnh: dâng bánh.
Tuần trà: dâng trà
 
Ẩm phước: giống như lễ "thụ tộ" miền Bắc, tức Ban tế tự được thừa hưởng lễ vật đă dâng cúng, xem như đây như là lộc của thần ban.
 
Hóa văn tế: có nghĩa đốt văn tế. Có đ́nh giữ đến xong lễ đoàn cả mới đốt.
Ở Đ́nh Châu Phú, lễ Túc yết diễn ra vào lúc một giờ đêm ngày 11 tháng Năm âm lịch (tức ngày thứ hai của đại lễ) Ban quản trị đ́nh đă tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông Chánh tế - cũng là trưởng ban quản trị đ́nh. Lễ cúng gồm một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Ngoài ra c̣n có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.
 
Bắt đầu vào lễ, ông Chánh tế đến dâng hương trước bàn thờ, rồi lần lượt các thành viên trong Ban quản trị thay nhau vào lễ. Kế đến là phần "Khởi chinh cổ", sau khi đánh ba hồi trống và ba hồi chiêng mơ. Ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chuốc tửu, tiệm trà bắt đầu...Sau cùng, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Người được cử quỳ xuống "đọc văn", trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc phụ họa. Dứt bài văn tế, ông Chánh tế đốt bản văn này và một ít giấy tiền vàng bạc, phần nghi thức lễ túc yết coi như đă xong
 
Lễ Tỉnh sanh và lễ Đàn cả
 
Theo Sơn Nam th́ Lễ Đàn Cả là quan trọng nhất. Nhà văn viết:...trước đó có lệ Túc yết, tức là ban Tế lễ gom lại, tŕnh diện, diễn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên. Đ́nh nào khiêm tốn th́ bỏ lễ Túc yết cho bớt kinh phí...Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi: Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chợ Biên Ḥa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lập đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn. Về cơ bản, trong cả nước, nghi thức nhau nhưng "đại đồng tiểu dị".
Lễ Tỉnh sanh thường diễn ra lúc 0 giờ (tức giờ ), với vật tế là một con heo c̣n sống, toàn sắc, bị cột bốn chân, đặt trên một chiếc ghế ngựa ngay trước bàn thờ Hội đồng ngoại. Sau khi heo bị thọc tiết, viên chánh tế dùng chén sạch hứng máu cùng một nhúm lông của con vật này, đặt lên bàn hương án. Chén huyết có ít lông này gọi chung là "mao huyết". Theo Sơn Nam, lễ này bắt nguồn từ lễ giết người để tế thần; sau dùng trâu, ḅ hoặc heo để thay thế. Tỉnh sanh (tỉnh là tịnh, gạn cho trong sạch; sanh mang ư nghĩa hy sinh. Con vật bị giết để tế gọi là hy sinh); nói nôm na, lễ tỉnh sanh là lễ đâm con heo để tế thần[2].
 
Có nơi, như ở Đ́nh Châu Phú dâng cúng một con heo trắng (heo đă mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo (gọi chung là "mao huyết"), một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra c̣n có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.
 
Ngay sau lễ Tỉnh sanh là lễ Đàn cả[3]. Cổ lệ chọn giờ này (giờ Tư) bắt nguồn từ quan niệm dịch lư: đây là giờ “âm lăo, dương khởi”, tức là mọi điều tốt lành bắt đầu nảy sinh. Việc hành lễ tương tự như lễ túc yết, duy chỉ khác câu ở phần ẩm phước: lễ túc yết xướng: Nghinh thần cúc cung bái, th́ ở lễ này xướng câu: Tạ thần cung cung bái.
 
Lễ Chánh tế
 
Cũng theo sách Gia Định thành thông chí, th́ lễ Chánh tế được tổ chức vào sáng hôm thứ hai của lễ Kỳ yên, với phần nghi thức giống như lễ Túc yết. Ở Đ́nh Châu Phú, lễ này được cử hành lúc vào 3 giờ sáng ngày 12 tháng Năm âm lịch, tức sáng sớm ngày thứ ba của cuộc lễ.
 
Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền
 
Đây là lễ tế các vị tiền nhân đă có công lập làng, lập đ́nh; và các anh hùng liệt sĩ địa phương. Có đ́nh tiến hành lễ này ngay sau khi lễ đoàn cả xong, nhưng cũng có đ́nh để sang ngày thứ ba. Điều đặc biệt trong lễ này là cử nhạc lễ theo điệu Nhịp Bụa, nhưng hoàn toàn mang hơi Ai; khác với lễ Túc yết và lễ đoàn cả đều hoàn toàn mang hơi xuân.
 
Lễ Xây chầu
 
Bài chính: Lễ Xây chầu
 
Theo Sơn Nam, nét đặc trưng của đ́nh miếu Nam Bộ xưa là mỗi lần có lễ Kỳ yên, th́ phải có các lễ: Xây chầu, Đại bội và hát bội. Căn cứ vào lời chúc tụng, lễ Xây chầu có từ đời vua Gia Long.
 
Thường th́ lễ này được cử hành sau lễ tế Đàn cả. Về cách thức xây chầu, đại để chia làm ba loại: Xây chầu văn, Xây chầu vơ, và Xây chầu bán văn bán vơ. Lễ này bắt nguồn từ quan niệm dịch lư của đạo Nho: thuận đạo trời (âm dương), an đạo đất (nhu cương) và ḥa đạo người (nhân nghĩa); ba đạo này có ḥa hợp th́ vạn vật mới hanh thông, tốt đẹp.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, th́ lễ Xây chầu vốn bắt nguồn từ Lễ Đại Bội trong cung đ́nh nhà Nguyễn. Đây là một cảnh diễn lớn, gồm nhiều tiết mục liên hoàn nhằm thể hiện sự sinh thành vũ trụ và phát triển của vạn hữu[4]. Bởi vậy, theo Sơn Nam, Muốn ổn định thời tiết, trật tự xă hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo sự vận hành của Trời Đất mà kim chỉ nam là Kinh Dịch với thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành. Việc Xây chầu chính là để nhắc nhở nguyên tắc ấy.
 
Trích diễn biến lễ xây chầu ở Đ́nh Châu Phú:
 
Sau khi lễ túc yết xong, là đến lễ xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian vơ ca phía trước chính điện. Những người tham dự cũng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng nhưng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian vơ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bội đă hóa trang, trống mơ sẵn sàng. Ông Chánh bái chủ tŕ lễ nhúng một cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện:
Nhất sái thiên thanh. (Trời thêm thanh b́nh)
Nhị sái địa linh (Đất thêm tươi tốt)
Tam sái nhơn trường (Người được sống lâu)
Tứ sái quỷ diệt h́nh (quỷ dữ bị tiêu diệt).
 
Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và nói: "Ca công - tiếp hát", lập tức trống mơ của đoàn hát bội rộ lên và chương tŕnh hát bội được bắt đầu.[5] Đến khi ấy, trống chầu được đặt dưới sân khấu, và cử quan viên ra cầm chầu gọi là cầm chầu đại bội để khen chê nghệ sĩ.
 
Hát chầu
 
Bài chính: Hát chầu
 
Hát tuồng trong lễ Kỳ yên tại đ́nh Mỹ Phước (Long Xuyên) năm 2010
Thường th́ mỗi năm hay cứ ba năm một lần (đáo lệ Kỳ yên), Ban tế tự đ́nh thuê một gánh hát bội về tŕnh diễn gọi là hát chầu, trước để cúng thần (chức năng chính), sau để giúp vui cho dân làng. Tuồng diễn (thường là 3, 4 tuồng) đều phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt những quy phạm chính thống. Điều này thể hiện rơ trong hầu hết mọi nghi thức, nhất là phần lễ tôn vương. Nói chung, các vỡ diễn đều phải biểu hiện cho được ư nghĩa: "trung thắng nịnh, chính thắng tà" và kết thúc bằng một màn tôn chân chúa (tôn vương) hay tôn soái.
 
Tuồng hát bội mà các đ́nh thường chọn hát là San Hậu (tôn vương), Phàn Lê Huê (tôn nữ soái), Tiết Nhơn Quí (tôn soái)...Ở Đ́nh Châu Phú các tuồng được chọn hát thường là: Trần B́nh Trọng, Sát Thát, Trưng Nữ Vương, Lưu Kim Đính, San hậu...
 
Lễ hồi chầu
 
Được cử hành sau khi khi tôn vương hay tôn soái. Lễ này có ư nghĩa là tŕnh với thần rằng các buổi hát đă kết thúc.
Lễ hồi sắc hay nối sắc
Tức đưa sắc thần về nơi cũ. Nghi thức lễ diễn ra tương tự như khi thỉnh. Sau lễ này, các lư hương của chư thần trong lễ Nghinh cũng hoàn về nơi thờ phụng họ.
 
Nhận xét
 
Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt t́nh cộng đồng. C̣n hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ b́nh thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương tŕnh văn nghệ phải có nội dung đạo lư, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đ́nh làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đăi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới”, nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.[6]
 
Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ư nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy tŕ và tạo điều kiện phát triển.

 

Thêm Một Bài Viết Lễ Kỳ Yên rất súc tích

DIỄN TIẾN CỦA LỄ KỲ YÊN

Tác giả: Sơn Nam

 

Ở đồng bằng sông Hồng, hồi đầu thế kỷ,sinh hoạt ở đ́nh làng đa dạng. Đọc Phan Kế Bính, ta thấy nào Kỳ Yên, Kỳ Phúc (cầu an, cầu phước), Nhập Tịch. Ở Nam Bộ, nói chung không nghe đến Cầu Phước, tùy truyền thống để lại, do nguyên quán của dân địa phương hoặc của ban Tế tự mà bày ra cúng lớn, cúng nhỏ, thêm vấn đề « tiếp thị », nơi tập trung nhiều bạn hàng, tiểu thương…


Đ́nh B́nh Tân, trước chợ B́nh Tây (Chợ Lớn) có thể tạm làm điển h́nh. Ngoài ra, c̣n đ́nh Minh Hương Gia Thạnh (quận 5, đườnh Trần Hưng Đạo) thời trước đă tập trung nhiều thân hào am hiểu sinh hoạt cổ truyền, nay đang trên đà phục hồi.


Ban Quí Tế, hiểu là cúng tế dịp Tam Ngyên, Tứ Quí (ba ngày rằm và bốn mùa) lo chắm sóc phần trùng tu, tổ chức tế lễ. Xưa, ở đ́nh, gọi Hương hội, Hương chức đ́nh, với từng chức vụ trong hội, Ban tuy khác nhưng gần giống nhau, ở các đ́nh. Xưa kia, đứng đầu là ông Hương Nhất, thành viên gồm Hương Nh́, Hưong Ba, Hương Tư, ĐạI Tổng Lư chấp sự, Chánh Hồi, Phó Hồi, Đông Hiến, Tây Hiến, Tổng Lư, Hiệp Lư, Hương trưởng.


Công việc của ban Tế lễ khá bề bộn, nhất là ở đ́nh qui tụ đông đảo khách và bá tánh. Đây là những ngày lễ của đ́nh B́nh Tiên, thời trước (theo âm lịch) :


- Tháng Giêng : Tết Nguyên Đán, mùng 1, mùng hai, mùng ba.
Ngày 13, vía Quan Thánh Đế Quân (Quan Công).
Ngày rằm, 16, 17,lễ Kỳ Yên (cúng Thần).
- Tháng Hai : mùng 2, vía Phưóc Đức Chánh Thần, một dạng, ông Bổn, Thần Tài.
- Tháng Ba : Thanh Minh.
Ngày 19, vía Hậu Thổ.
- Tháng Năm: Mùng 5 và 6, vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu. Bà nầy , theo
truyền thuyết, được phong cho thần núi Bà Đen (Tây Ninh).
Mùng 10 và 11, tế Bổn Cảnh Thành Hoàng (thần sở tạI).
Ngày 13, vía Quan Thánh Đế Quân.
- Tháng Sáu: ngày 24, vía Quan Thánh Đế Quân.
- Tháng Bảy: ngày 17 và 18, Vía Ngũ Hành Nưong Nương.
- Tháng Chín: mùng 9, vía Quan Thánh Đế Quân.
- Tháng MườI: Mùng 10, cúng Thần, cử hương chức đ́nh nhiệm kỳ mới.
- Tháng Chạp: 25, đưa Chư vị.
Ngày 30, rước Chư vị.

 

Đại khái, tùy địa phương. Nhiều nơi, ở nông thôn, bày lễ Hạ Điền, Thượng
Điền, hoặc Cầu Bông (cầu lúa trúng mùa, bông trái xum xuê). Nhiều đ́nh nặng về cúng Quan Thánh,dấu ấn, có lẽ thời trước của “Hội kín” chống Pháp, suy tôn Quan Công là vị Thần linh ứng nhất. Có nơi bài thêm lễ vào mùng 7 tháng Giêng, dịp tiệm quán khai trương đầu năm. Hoặc mùng 9, mùng 10 tháng Giêng (mùng 9 vía Trời, mùng 10 vía Đất). Rằm tháng Giêng là rằm đầu năm, Thượng Nguyên, cúng lớn.


Đ́nh Minh Hương Gia Thạnh (Chợ lớn), thời trước 1945 v́ sung túc, gồm nhiều thân hào nhân sĩ nên dịp cử Ban Tế lễ cuối năm khá long trọng. Bàn căi sôi nổi, biểu quyết, không ai đủ phiếu th́ bầu lại trong ṿng nh́, ṿng ba. Mở đầu, buổi trưa ăn bánh Hỏi (ngụ ư hỏi han, xem chừng ai ứng cử). Nếu bầu chưa xong, bàn căi tốn th́ giờ, bày ra ăn bánh Xèo (xèo, nghĩa đen là xẹp, héo, x́ hơi như trường hợp quả bóng mất hơi). Bầu xong, bày lệ ăn Suông (kiểu báng canh, con bánh co nhồI thịt, tôm). Suông, hiểu là suôn sẽ.


Phần việc nặng nề không kém là tiếp đón các hội của đ́nh bạn, lắm khi từ xa đến. Đón nhận lễ phẩm, mời ban đạ diện hội đ́nh bạn vào chánh điện để tế. Nói chuyện vui, mới ăn cỗ, rồi sau đó, khi đ́nh bạn gặp dịp cúng tế, phải cử đại diện đến mà đáp lễ, thường là bằng hoặc là trội hơn món lễ của bạn, trường hợp đ́nh chủ nhà khá giàu (nhang đèn, tiền mặt).


Trong số bá tánh, thường cử vài phụ nữ đứng tuổi phụ giúp về giao tế, hoặc làm trưởng ban lo thết đăi. Theo cỗ lệ, trừ trường hợp đ́nh thờ nữ thần, trong ban Tế lễ chọn toàn là đàn ông. Nhưng từ nhiều năm, việc phân biệt ấy lần hồi trở nên linh động, họa chăng tỏ thái độ dè dặt, đề nghị những phụ nữ có uy tính, đứng tuổi vào ban Tế lễ, nhưng không cho trách nhiệm niệm hương hoặc làm Chánh tế, Bồi Tế. Đ́nh Thần Hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật.


Tuy theo đạo Khổng, ăn mặn, uống rượu nhưng dịp Kỳ Yên, để làm vui ḷng bá tánhvá cũng để đoàn kết dân trong xóm, vă lại, những vị trong ban Tế lễ thường « kính Phật, trọng Tăng « nên cũng rước một nhà sư đến tụng kinh cầu an. Trước ngày lễ, bày bàn thờ Phật, thường vào buổi tối, trên bàn thờ chưng bày hoa, trái cây, nước trà thỉnh nhà sư tụng kinh. Vị Chánh tế hoặc Bồi tế phải quỳ xuống nghe kinh, ít nhất cũng vài đoạn.
Lắm nơi, đủ phương tiện, thường là buổi chiều, bày cúng Thần Nông, với xôi, thịt, bánh qui trước miễu. Cúng luôn ông Hổ, nếu có thờ, thường là cái bệ gạch, không nóc. Đáng lưu ư : Thần thánh, chư vị ngày xưa không quen những thức ăn quá mới, bởi vậy, cúng với rượu đế. Trước khi tế, lấy văi đỏ phủ cái mơ, cái chiêng, cái trống ; bên cạnh ba nhạc khí nầy, cắm ngọn nến, đốt cháy, phải chăng gợi sự quan trọng lửa thời xưa, âm thanh và ánh sáng rất cần thiết. Kiểm soát các người trực tiếp lănh trách nhiệm xem khăn áo chỉnh tề chưa.


Ngoài việc trang trí thường lệ, ở làng, thậm chí ở thành phố, cần tŕnh con heo « hy sinh » trên cái tợ nhỏ, tợ có dáng đặc biệt, như hai mái nhà chính giữa cao, hai bên hơi thấp, nhờ vậy tư thế con heo (đă thọc huyết trong lễ Tỉnh sanh) trông trang nghiêm hơn. Lắm khi,nếu giữ tục xưa th́ khoét bên vai con heo một cục thịt nhỏ,tượng trưng thịt sông, đặt trên cái dĩa, cúng trên bàn thờ chính.


Đề pḥng hôi hám, lắm khi đem con heo trụng sơ trong nước sôi có không luộc. Nhiều nơi c̣n giữ lề đặt miếng sườn heo sống (gói trong bao giấy hoặc ny lông) kế bên những món đă nấu chín, ở bàn thờ phụ.


Việc Tế lễ gồm nhiều tiết mục, tùy miếu hay đ́nh làng, miếu thờ danh nhân không có mơ v́ mơ thuộc về Thành Hoàng, chăm sóc trực tiếp việc làng thời xưa. « Mơ« , chữ Hán gọi là Thác, theo Đào Duy Anh, là miếng gỗ để đánh canh ban đêm. Đọc Phan Kế Bính, thấy chiêng và trống mà thôi, không thấy ghi cái mơ. Đ́nh ở Nam Bộ, đánh mơ gọi là Kích thác. Phải chăng đây là bảo lưu một lệ hồi xưa, nghe tiếng mơ th́ dân làng hiểu là họp dân hoặc báo động trôm cướp, chức năng ấy khi Pháp đến, giao cho hương chức hội tề, về hành chánh ; đ́nh làng c̣n giữ vai tṛ tinh thần tượng trưng mà thôi.


Diễn biến của buổi cúng đ́nh ở Nam Bộ được đơn giản hóa lần hồi, đại khái là vẫn ba tuần rượu, sau đó « Thụ tộ « hoặc « Ấm tộ « , hưởng tượng trưng lộc của thần, dùng chén rượu đă cúng mà uống, thay cho dân làng.


Buổi lễ lớn, quan trọng nhất là « Đàn Cả « , trước đó có lệ Túc Yết, tức là ban Tế lễ gom lại, tŕnh diện, diẽn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên thựng. Đ́nh nào khiêm tốn th́ bỏ lễ Túc Yết cho bớt kinh phí.


Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi : Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chọ Biên Ḥa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lâp đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn.


« Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính tóm tát những chi tiết và lời xướng của lễ tế vùng đồng bằng sông Hồng. Trong quyển « Non Nước Khánh Ḥa «, Nguyễn Đ́nh Tư đă ghi nghi thức ở Nam Trung Bộ. Gần đây, cụ Đỗ Văn Rỡ đă ghi lại nghi thức (đă cải biến) ở Lăng Ông Bà Chiểu. Đây là ngôi miếu có cơ ngơi rộng, với kinh phí tế lễ tưong đối đầy đủ, giữ vài nét chính để gây không khí tôn nghiêm, trong hoàn cảnh Sài G̣n - Chợ Lớn đô thị hóa. Xin ghi lại để tham khảo. Về cơ bản, trong cả nưóc, nghi thức nhau nhưng « đại đồn tiểu dị « .


Những lời xướng sau đây do lễ sanh (học tṛ lễ) « xướng » lên, theo giọng riêng của hát bội (ta c̣n gọi đờn ca hát xướng).

-          Bài ban ban tề, đứng vào vị trí của ḿnh.
- Tịnh túc thị lập, giữ im lặng.
- Chánh tế tựu vị, Chánh Tế bước đến trưóc bàn nghi.
- Bồi tế tựu vị, Bồi Tế (trợ lư) bước đến bàn nghi.
- Củ sát tế phẩm, đích thân xem xét nhũng lễ phẩm trên từng bàn, cho biết đủ thiếu, sơ sót chi tiết nào chăng.
- Ế mao huyết, đến hai cái tô đựn huyết tươi và ḷng heo, nâng lên, đưa ra ngoài mà chôn. Nếu không làm tịt heo, trường hợp « tế chay « , không xướng mục này. Nhưng theo ư tôi, khó chấp nhận việc giải thích như thế. Món « hy sinh « không có, th́ lấy ǵ thay thế cho « tam sinh « . Tế thần, dùng rượu, không ǵ thay thế được. Phải chăng rượu là món mặn ? Có thể giải thích v́ lư do vệ sinh nên không chưng bài con heo đă cạo lông trước mặt quan khách, có thể gây ấn tượng « hôi hám ».
- Thiểu thối , hoặc lễ nhượng, hai vị chánh và bồi tế xá, lui ra ngoài.
- Chấp sự viên tựu vị, mấy vị chấp sự xếp hàng đi đế chánh điện. Chấp sự là người thi hành những công tác qui định, thí dụ như đánh trống, đánh chiêng. PhảI là người trong ban Tế lễ, khăn đen áo dài.
- Nghệ quán tẩ sở, lễ sinh cầm ngọn đèn đi trước, hướng dẫn các vị trong ban đén cái giá, sẵn thau nước và cái khăn. Giữ mặt mày, tay chân sạch sẽ trở thành nguyên tắc.
- Quán tẩy, tḥ tay vào thau nước, rửa mặt tượng trưng.
- Thuế cân, lấy khăn mà lau mặt tuợng trưng.
- Chỉnh y quan, sửa lại khăn áo cho chỉnh tề, tượng trưng.
- Phục vị, trở lại vị trí cũ,trong chánh điện.
- Chấp sự viên chấp kích, lễ sinh đưa cái mâm trong đó đặt sẵn cái dùi trống, dùi đánh chiêng, mơ. Chấp sự viên lănh cái dùi, xá kính cẫn.
- Chấp sự viên giả các tư kỳ sự, chấp sự viên đến vị trí, gần cái chiêng, cái trống hoặc cái mơ.
- Khởi cổ lịnh, đánh ba hồi trống lịnh, hiểu đây là cái trống nhỏ, cầm tay, có cán. Thời xưa, vua hoặc quan đại thần đi ngoài đựng,có tên quân hầu cầm loại trống nầy, chạy phía trước , mở đường. Tiếng trống nầy giúp ta tưởng tuợngvị thần đang ở trên đựng vào đ́nh miếu, đă tới ngoài cổng rồi.
- Khai Thái b́nh thanh (thinh), đánh mơ ba hồi. Tôi hiển « Thái b́nh thinh « là những hồi mơ thongthả, b́nh thuờng, báo hiệu những ngày thái b́nh trong địa phhưong, khác với nhịp điệu của tiếng mơ báo động thời chiến.
- Khởi minh chính, đánh ba hồi chiêng.
- Khởi đại cổ, đánh ba hồi trống.
- Chinh cổ tề thinh, chiêng và trống đánh ba tiếng, hết chiêng rồi trống.
- Nhạc sanh tựu vị, đem hai cái trống lễ, loại trống đẹp, đặt trên cái giá ba chân, có thắp nến trên cái giá, trước cái trống. Hai trống nầy đặt bên tả, bên hữu ban nghi.
- Nhạc sanh tác nhạc, đánh trống lễ, hai trống ăn rặp với nhau, trong khi những nhạc công ở bên vách thổi kèn, đánh đàn dây, bản Nghinh Thiên Tiếp Giá, dành tiếp rước nhà vua, tưởng tượng như vị thần đang ngự trên bàn thờ, thay mặt cho nhà vua để nhận lời thỉnh cầu của dân làng. Bản nầy khá dài, dứt một hồi, có tiếng trống cơm vỗ đơn chiếc, nghe độc đáo, rồi kèn, đàn, chập chơa lại ḥa tấu.
- Niệm hương viên tựu vị, người niệm thya mặt cho ban Tế lễđến trước bàn thờ, đ&ung ra, phải làm lễ quán tẩy, rữa mặt, chùi mặt tượng trưng, chỉnh đốn lại khăn áocho ngay ngắn,
- Phục vị, người niệm hương qú xuống.
- Phần hương, lễ sinh đốt ba cây nhang cung kính đưa lên trán, xưóng lên : tạ Thiên, tạ Địa, cầu chúc những vị lănh đạo dân tộc mạnh khỏe, tạ Thánh Thần, nguyện ǵn giữ nhang khói trong đ́nh miếu, lễ tế măi phát huy trang trọng.Thời xưa, ngướ lănh đạo dân tộc là nhà vua.
- Thượng hương, trao ba cây nhang cho lễ sinh cắm lên bàn thờ.
- Phủ phục hương b́nh thân, bỏ tư thế qú, đứng thẳng người.
- Cúc cung bái, xá rồi , qú lại.
- Hưng, rồi bái ba lần.
- Hưng b́nh thân, đứng thẳng người.
- Lễ nhượng, lui ra ngoài, rới chiếc chiếu giữa điện.
- Chánh tề tựu vị, viên chánh tề vào chiếu, đứng thẳng người xá.
- Bồi tế tựu vị, viên bồi tế bước vào chiếu.
- Đông hiến tựu vị, viên chấp sự phụ trách bàn thờ phía Đông bưóc vào chiếu, tŕnh diện.
- Tây hiến tựu vị, viên chấp sự phụ trách bán phía Tây đến tŕnh diện , cả hai trở lại chỗ củ.
- Đông tây các tư kỳ phận, hai viên chấp sự đến bán thờ phía Đông và phía Tây.
- Nghệ hương án tiền, học tṛ lễ bưng đài đựng lư hương nhỏ đến chiếu giữa.
- Giai quỳ, chánh tế, Bối tế và hai vị Đông, Tây hiến qú xuống.
- Phần hương, hai tay nâng nén hương lên, bỏ vào cái lư nhỏ. Hiểu đây là dót trầm hương, trong lư nhỏ sẵn than đỏ rực, không trầm hương thứ thiệt th́ dùng trâm hương vụn, gói lại với giấy, từng thỏi nhỏ. Hương cháy lên, rồi nâng ngang trán.
- Thượng hương, Lễ sinh nhận cái ḷ hương, lui trở lại vị trí phía sau, rồi tiến vào chánh điện.
- Phủ phục hưng b́nh thân, chánh, bồi tếĐông hiến, Tây hiến đứng dậy, rồi hưng bái, lại bốn lần.
- Hành sơ hiến lễ, dâng tuần rượu thứ nhất. học tṛ lễ đem đến một khay rượu, với cái nhạo và chén trong khi xướng Nghệ tửu tôn sở.
- Chước tửu, châm rượu vào chén, nửa chén.
- Tấn tước, nâng chén rượu lên ngang trán.
- Hiến tước, học tṛ lễ lui về phía sau rồi theo nhịp trống, tiến lên bàn thờ.
« Tước » là kiểu chén đựng rưọu bằng đồng, thời cổ, thời đại đồ đồng, tước có ba chân ngắn và hai cánh ngạnh ; vị thần (hoặc quan to) cầm tước với ba cái chân, đứ lên miệng, ngữa mặt mà uống,nhờ hai cái ngạnh chỏi vào má mà rượu không đổ…

Kế đến phần đọc văn chúc, hiểu là văn tế, ca ngợi công đức, cầu xin ơn của vị thần. Trước đây, có ngưởi chuyên đọc chúc văn, với lời lẽ ê a, rất khó nghe, như là kiểu đọc kinh. Nay th́ caỉ cách, đọc dễ nghe hơn.

-         
Nghi lễ cứ diễn tiến, đến tuần rượu thứ nh́, gọi « Á hiến « , rót rượu nâng chén ngang trán, rồi « Hiến tưóc « . Đến tuần rượu thứ ba, gọi « Chung hiến lễ « . Có thể bài ra việc dâng bánh, dâng trái cây, dâng trà.

-         
Để chấm dứt, c̣n một lễ quan trọng là « Ẩm phước « , uống phần rượu trên bàn thờ, cúng năy giờ, đem xuống cho Chánh tế, Bồi tế uống tượng trưng, rồi « Thụ tộ « ăn phần thịt đă cúng, tượng trưng, thường là ăn trái cây (nho, nhăn), ăn và uống thay mặt cho dân làng, như là lộc của thần thánh. Xong rồi, đốt văn tế, tuyên bố « Lễ Thành », tức là bế mạc. Học tṛ lễ xếp hàng, lạy thần, bá tánh lạy sau.
Nói chung, khi đa số dân làng sống với nông nghiệp, sau vụ mùa hoặc chờ vụ mùa, chờ trời mưa, ai nấy rảnh rỗi, cúng ba tuần rượu (sơ hiến, á hiến , chung hiến) kéo dài hơn tiếng đồng hồ, với những động tác trang nghiêm,chậm răi đưa rượu đến Chánh tế, rót rồi, lui ra phía đằng xa, để chậm răi tiến lên bàn thờ, cứ lặp đi lặp lại dễ nhàm chán đối với người tham dự đang bận rộn sinh kế, thời nay. Nhưng không thể nào rút ngắng được, phải đúng ba tuần rượu ! Và mỗi tiết mục dâng rượu, trà, phải lạy bốn lạy, không bớt được, quá nhiều lần qú lại.
Nếu rảnh rang, khi lớn tuổi, người tham dự có tể thư giăn tinh thần, trong bầu không khí đầy ánh sáng lung linh của nến, giọng thoi thúc liên tục của nhạc lễ, thêm màu sắc và bước đi cách điệu của học tṛ lễ.

-         
Ở đồng bằng sông Hồng, lễ sinh mặc khăn đen áo dài, đi chậm răi, nhưng ở phía Nam, lễ sinh tiến tới, thối lui như vũ điệu, lắm khi lễ sinh cắm cờ sau lưng (điệu vơ, khác với văn). Học tṛ lễ lần hồi cải cách dáng đi, đại khái mỗi hàng gồm hai người, người đi trước nâng ngọn đèn sáp, người thứ nh́ nâng khay rượu, chân đá, nhún nhảy theo những bài bản xuất hiện từ sau năm 1930, thí dụ như chân đặt theo chữ Đinh (chữ Hán), rồi mở ra chữ Bát, kết thúc, đá chân lên, như chữ Tam. Lễ sinh mặc áo, đội măo như người thi đậu tú tài ngày xưa, chân mang giày ủng như vơ tướng, trong khi nhạc trỗi, nhịp trống hướng dẫn bước đi cho rập ràng. Phải chăng điệu đi đứng của học tṛ lễ ở đ́nh làng mô phỏng phần nào dáng đi của vũ sinh, trước kia, múa dành cho ông hoàng, bà chúa thưởng thức riêng ở cung điện, rồi du nhập vào phía đồng bằng sông Cửu Long và Đồng Nai, trở thành món ăn « b́nh dân« cho dân gian, khi khẩn hoang. Những người cố cựu, bảo lưu truyền thống xưa, bảo đó là sáng kiến của Tả Quân Lê Văn Duyệt, khi ngài làm Tổng Trấn cai quản toàn Nam Bộ. Như ta biết, Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng không thích nhau, v́ mối thù riêng : Là công thần, họ Lê đứng về phía hoàng tử Cảnh (đă chết), chọn con hoàng tử Cảnh lên ngôi, khi Gia Long mất, không đồng ư chọn Minh Mạng. Minh Mạng trù dập bằng cách đưa họ Lê vào Nam, không cho ở Huế, e gây bất trắc về quân sự và chánh trị. Vào Nam, họ Lê mở mang đất đai, tổ chức cho dân khẩn hoang. Lại ban hành chính sách ngoại thương rộng răi, như lấn quyến thách thức Minh Mạng. Ở Huế, có múa hát riêng cho vua chúa và hoàng tộc thưởng thức như là đặc quyền, đặc lợi ; vào Nam Bộ, Lê Văn Duyệt với quyền hạn lớn như vị Phó vương cũng trự xem ḿnh đặc quyền đạc lợi không kém, và b́nh dân hóanhững thứ giải trí của giới quư tộc.
Tham khảo « Nhưng đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam » do Đỗ Băng Toàn và Đỗ Trọng Huề biên soạn, thấy có múa Lục Cúng, ghi lại kiểu đi theo h́nh các chữ Hán.
- Dâng b́nh hương, chân đi theo kiểu chữ Nhật.
- Dâng b́nh hoa, đi theo kiểu cái hoa nồi, một cánh (không rơ chi tiết hoa một cánh nầy – S.N)
- Dâng đèn, chân đi theo h́nh chữ Á.
- Dâng trà, theo h́nh chữ Thủy.
- Dâng quả, theo h́nh chữ Vạn.
- Dâng thực (thực phẩm) theo kiểu chữ Điền.


Về các bản nhạc dùng trong dịp tế lễ ở đ́nh, có sự cải cách cho hợp với t́nh
huống, trang nghiêm ra trang nghiêm, vui tươi ra vui tươi, dùng nhạc tài tử, nhạc hát bội và làn điệu hát dân gian.
Dịp cúng tổ ngành nghề (thợ Bạc, hát Bội), thậm chí cúng cá Ông (cá Voi),
vẫn tuân thủ nguyên tắc ba tuần rượu, không ai dám làm khác hơn, họa chăng thêm thắc chi tiết nhưng gọi với từ ngữ khác. Lễ Tất hoặc lễ Thành, lắm khi nói trại hoặc nói sai. Lại bài ra cúng những hội viên trong ban Tế quá cố, học tṛ lễ đi thật chậm, nhạc cử điệu Ai.


Ở Nam Bộ, lễ hội lớn vẫn là Kỳ Yên, những lễ khác diễn ra ở đ́nh thường
nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu của đồng bào địc phương, như mùng Bảy tháng Giêng, hoặc đêm Giao Thừa. Ở đồng bằng sông Hồng, theo Phan Kế Bính ghi lại có :
- Tế Kỳ Phúc, với nghi thức và nội dung giống hệt như Kỳ Yên ở Nam Bộ, làm lễ cáo yết(Túc Yết ở Nam Bộ), rồi Tỉnh sanh để giết con « hy sinh ». Tế chủ, Bồi Tế tựu vị đọc chúc văn, Thụ Tộ, nhạc sinh tựu vị, sơ hiến, tiến tưóc, đọc chúc, Lễ Tất, cũng như quán tẩy, thuế cân, vân vân. Đáng lưu ư v́ mang tính thống nhất đến tận mũi Cà Mau.


- Trà Nhập tịch, các bô lăo lau thần vị,rước thần vị về đ́nh, cử hành đại tế rồi xướng ca, có ả đào, kép hát chúc mừng, reo vang tỏ ư khoái trá, với đám đông phụ họa, reo ba lần, hát chèo măi đến hôm xuất tịch, gọi « ră đám » (giải tán). Nội dung lễ « Nhập Tịch » được nêu rơ : « Lễ nầy cũng đồng nghĩa với cách ăn Tết đầu năm, nghĩa là dân ḿnh khó nhọc, vất vă quanh năm th́ phải có một dịp ăn uống vui chơi. Vậy nhân cái tục sùng thượng quỉ thần, bày ra tṛ nầy tṛ nọ, nhưng rút lại chỉ để cầu vui mà thôi… Xét ở luật lệ bản quốc (có lẽ luật Gia Long – S.N.), trong làng hát xướng thờ thần chỉ được phép làm một ngày một đêm, nếu là quá th́ lấy luật vi chế mà luận tội. « Đă có luật cấm như thế, sao mà không thấy mấy nơi tuân hành đưọc ».


- Đại hội. Nếu Nhập tịch mỗi năm mở một lần th́ Đại Hội cứ năm muời năm,hoặc năm bảy mươi nămmới mở một lần. Nếu đúng như lời Phan Kế Bính, có lẽ những người 50 tuổi lắm khi suốt đời không được thấy lễ Đại Hội ! Lễ nầy chỉ cử hành khi dân trong làng liên tục trúng mùa, hoặc được phong sắc thần (như vậy là có nhiều đ́nh không có sắc thần) hoặc là tu sửa đ́nh miếu (đại tu). Cũng là một kiểu nhập tịch nhưng qui mô lớn hơn, vui chơi suốt tháng mới dứt, «Tháng Giêng là tháng ăn chơi«.

 

Đ́nh miếu sửa sang cho đẹp, mỗi người giàu hay nghèo sắm bộ quần áo
mới, đường cái trong làng treo đèn.


Trướ nửa tháng, người đồng văn mỗi đêm dạy cho đàn em kỷ thuật đánh trống, điệu trống rước, đổ hồi, trống tế ; tập tành khiêng kiệu , đánh thanh la. Đến lễ rước nước, t́m giếng nước tốt, hoặc ra giữa sông, múc thức nước tinh khiết nhất để lau chùi tấm thần vị, dùng nấu nước pha trà khi cúng.


Lễ Gia quan cử hành, nhằm bắt buộc nhưng người khiêng kiệu và lănh trách nhiệm khiêng trống, chiêng (gọi đô tùy) phải giữ thân thể sạch sẻ, ăn chay từ mấy ngày trước, họ vào pḥng mặc quần áo riêng, với màu sắc rực rỡ, đặc biệt là mang một thứ khẩu trang, đề pḥng mùi ô uế tứ miệng có thể làm ô uế cái thần vị.


Lễ Phụng nghinh hồi đ́nh cử hành vào hừng sáng, nưng chuẩn bị trước khá lâu, tiếng trống thúc giục liên hồi để ai nấy đủ thời giờ sẳn sàngkhiêng kiêẹu từ miếu ra cổng.
Kiệu dừng ở cổng tam quan để chờ các xă kết nghĩa đến, sắp hàng rồi cùng đi, đường kha xa từ miếu đến đ́nh, cần thay đổi ngướ khiêng kiệu. Bọn đô túy mang nhiều thứ cờ đủ máu sắc tiêu biểu cho tứ ling (long, lân, qui, phụng) , cho bốn phưong Đông, Tây, Nam, Bắc, thêm trống chiêngtượng con ngựa bằng gỗ, lắm khi có voi trận (đan bằng mây)với lọng tán, gươm giáo. Các nữ nhạc côngvỗ tróng cơm. ỗi kiệu có tám người khiêng và tám người trù bị để tiếp sức. Đây là trường hợp một làng có một đ́nh nhưng có bảy, tám đền miếu thờ thần thánh khác nhau. Ta thấy đô tùy mà trong Nam gọi trại ra « đạo tỳ « là người khiêng vác, không riêng ǵ cho đám tang, nhưng cũng cho lễ hội. Khiêng kiệu đ̣i hỏi kỹ thuật riêng, khi lên dốc, qua đồi cần được giữ thăng bắng.


Mục hát xướng đưọc tŕnh diễn linh động, kèm theo ăn uống, mâm cỗ đưa đến, do những người nhá giả, nào cỗ chay, cỗ mặn.


Bách hí là nhưng tṛ giải trí như hát Bội với người cầm chầu đánh trống khen chê cách diễn xuất. Phải chăng hát Bội nầy là dạng mà trong Nam gọi « tuồng đồ « , lờ́ lẽ b́nh dân, pha tṛ để gây cười cho khán giả. Loại hát tuồng nhằm diễn lại những sự tích trong truyện Tàu như Tam Quốc…


Tṛ quỷ thuật (nay gọi ảo tuật) đă có từ xưa, như thả câu vào chậu nước không có ǵ, nhưng khi giật lên th́ được con cá tươi, hoặc căng dây ngoài trời, có đi trên dây hát múa, ném và chụp những quả cầu nhỏ mà không để rớt. Dưới ao to, mọI người xúm nhau xem mua rối nước.


Tiết mục bắt bài (trong Nam gọi bắt bài Phiên) với nhiều cô gái cầm đèn, đội măo cài trâm, phấn son xinh đẹp, tới lui nhịp nhàng, múa hát theo bản »bắt bài« .
Múa bông, theo Phan Kế Bính, « tṛ ấy ở Nam Kỳ thường có« . Ta hiểu đây là nhưng « bà bóng múa rối « , họ bái tró xiếc, trên đầu chiếc đũa, đặt cái dĩa, cử động nhẹ khiếng cái dĩa quay tṛn, không rớt, hoặc cắn vào mồm một cái chân bàn nhỏ, ba chân kia nằm nghiêng, hàm răng cắn quá chặt khiếng cái bàn khôngrơi, hoặc cắn khúc cây ngắn, ở đầu khúc cây đạt cái ve chai dựng đứng. Ở trong Nam, những bà bóng nổi danh thường là « ái nam ái nữ « , lúc tŕnh diễn, họ múa tay để giữ thăng bằng cho cái dĩa hoặc cái ve chai vừa nói ; thiếu âm nhạc đàn, sáo, hoặc thiếu tiếng vỗ tay để đánh nhịp của đồng bọn th́ không tŕnh diễn có kết quả được. Tổ tôm điếm, bái phu điếm là tṛ cờ bạc may rủi, trong rạp, ở mỗi gốc cất một cái cḥi khá cao (gọi điếm, như điếm canh). Một hiểu Bài cḥi ? Lại c̣n đánh cờ người, bên nam, bên nũ, ai muốn đánh th́ đăng kư trước, đánh trên bàn cờ nhỏ, nhưng phất cờ, để những quân cờ (nam hay nữ) di chuyển. Tṛ đô vật, với kiện tướng đống khố. Lại đốt pháo bông (đốt cây bông), pháo bắng ra nhiều màu sắc, h́nh ảnh, hoặc chữ Hán ca ngợi sự thái b́nh, thạnh trị.


Bơi chải, gọi nôm na là đua thuyền, mỗi thuyền ngắn, nhỏ gồm chín mười người bơi, thi nhau đến mức trưóc. Lại c̣n tṛ chọi trâu (ở vùng Hải Dương), chọi chim họa mi, thi thả diều, leo côt thoa mỡ (phải chăng tục leo cột để giật phần thưỏng treo ở chót ngọn cờ do Tây phương du nhập ?). « Nấu cơm thi « đ̣i hỏi khả năng ứng phó trước khó khăn bất ngờ, như thiếu củi, chỉ có cây mía, phải ăn mía cho nhanh, lấy xác mía ẩm ướt ấy mà chụm bếp. Rồi đến buổi ră đám, tức là giải tán, bế mạc, sau non một tháng vui chơi.


Thật tốn kém thời giờ, tốn sức khỏe, tiền bạc, lăng phí quá đáng, thí dụ như chọi gà ăn tiền. Phan Kế Bính cực lực lên án kiểu hội hè nói trên. « Tiên chi lực ư dân nhi hậu thần giáng chi phúc « . Con người nên gắng sức làm việc, rồi sau đó, họa may thần ban phước cho.


Đọc Phan Kế Bính, ta c̣n thấy lễ Kỳ An (Kỳ Yên) ở đồng bằng sông Hồng lắm khi mang nội dung tôn giáo, đúng ra là đạo Lăo suy thoái , với ít nhiều phù phép, nhằm đuổi ma đuổi quỉ. Khác với nội dung Kỳ Yên ở Nam Bộ. Hồi đầu thế kỷ nầy,
Theo Phan Kế Bính, buổi lễ dùng toàn đồ hàng mă, mời nhà sư (hiểu là thầy cúng) và các pháp sư đến, lập hai đàn, dành cho môn phái nhà Phật và các pháp sư. Pháp sư múa gươm, mặt mày hoá trang cho ra vẻ hung hăng. Phía đạo Phật, nhờ thầy cúng đến bái lễ « Lục cúng », cúng sáu món như hương, đăng, hoa, trà, quả thực. Phap sư giăng dây, treo quần áo giấy, rồi cắt đứt sợi dây, tượng trưng cho việc cắt đứt sợi dây oan nghiệt ḥng giải cứu chúng sanh. Lại lập đàn Mông Sơn, bên dưới bày cơm, cháo, ḿa, khoai, kẹo, bánh, rồi th́ dân trong xóm, trẻ con, người ăn mày tha hồ giành giật, chia phần. Lại bài lễ tống ôn do pháp sư bắt ấn, tay cầm nhang, tiễn đua ơn dịch ra khỏi làng.


Ở Nam Bộ, lễ nầy hồi xưa cử hành đơn giản, lắm nơi kết bè chuối, để trên bè con gà luộc, cái đầu heo, trên bè cắm cờ ; cúng xong thả bè cho trôi, chẳng ai muốn vớt. Theo lệ, chỉ có trẻ con chăn trâu, gốc là con, cháu vua Thần Nông mới được quyền vớt mà ăn. Các nhà dân tộc học phương Tây đă phân tích : Món dân cúng có hai yêu cầu khác nhau :


- Ở đ́nh làng, với con heo, con ḅ làm vật « hy sinh », món cúng tưọng trưng cho phần thưởng quí giá ; Thần thánh đă hưỏng rồi, ta xin được cùng hưởng với Thần thánh để được phước, do ân trên ban cho.Những món cúng trở thành sạch sẽ, thiêng liêng, vô giá, « một miếng thịt làng bằng môt sàng thịt chợ « .


- Dịp tống ôn, tống quái là lo lót cho những hung thần ác độc, xấu xa, món cúng đă bị ô uế sau khi thần ôn dịch hưởng, nó trở thành ô uế, xui xẻo, không đem phước đúc, trái lại c̣n gây tai họa, phải vất bỏ.


Với sự phát triển vế pḥng bịnh, tiêm chủng, những bịnh không cứu chửa được như dịch tả, đậu mùa lần hồi khó hoành hành, nếu không là trừ tuyệt
Vói nước sạch, vệ sinh cá nhân. Lần hồi, việc tống ôn không c̣n chỗ đứng trong tâm tư của những người b́nh thường, thậm chí những người bảo thủ, hoài cổ

Sơn Nam

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18