|
Lễ
Động thổ
Động Thổ nghĩa là Động đến đất. Vậy lễ Động Thổ nghĩa là Động đất, và
trong khi động đất phải có lễ cúng Thổ Thần để tŕnh xin bắt đầu động
đến đất cho một năm mới.
Nguồn gốc
Nguồn gốc lễ Động thổ bắt đầu từ năm 113 trước Thiên Chúa giáng sinh.
Nguyên năm đó là năm Mậu Th́n, vua Hán Vũ Đế thấy triều đ́nh chỉ có
tục tế trời mà không tế Đất mới bàn cùng quần thần, và sau đó đặt ra
nghi lễ Hậu Thổ, tức là Thần Đất, c̣n gọi là xă tế.
Nghi thức
- Đào một ao, ở giữa có một nền tṛn: trên nền tṛn có năm bệ, trên
mỗi bệ đều có lễ Tam sinh gồm ḅ, dê, lợn.
- Lễ phục của mấy vị chủ tế và bồi bái đều màu vàng.
- Lễ Xă Tế đầu tiên do vua Hán Vũ Đế chủ tế và cử hành tại đất Hoài
Khưu gân sông Phàn.
- Lễ Động Thổ bắt đầu từ đó, nhưng đến năm vua Hán Thành Đế lên ngôi,
năm 32 trước Tây lịch có lệnh băi bỏ lễ này.
- Về sau v́ có thiên tai xảy ra nên lễ Xă Tế lại được tái lập và tồn
tại măi về sau.
- Lễ Xă Tế chia làm năm bậc dành cho Hoàng Đế, các vua chư hầu và các
quan đại phu trở xuống và có tác dụng khác nhau.
Xưa kia, tại Việt Nam lễ này cũng được tổ chức từ triều đ́nh tới dân
gian, nhưng về sau lễ này chỉ c̣n tồn tại trong dân chúng, tại triều
đ́nh, Thần Đất đă có tế trong dịp tế Nam Giao.
Hàng năm, sau ngày mồng Ba Tết, tại các làng có làm lễ Động Thổ để cho
dân làng có thể Đào bới cuốc xới được.
Chính ra th́ ngày lễ Động Thổ không nhất định là ngày nào, nhưng để
giúp dân chúng tiện việc làm ăn, nhiều làng thường cử hành lễ này sau
ba ngày Tết.
Các bậc kỳ lăo và quan viên được cử làm chủ tế và bồi tế để cúng Thần
Đất. Lễ vật cũng gồm hương đăng, trầu rượu, y phục và kim ngân đồ mă.
Trong buổi lễ, ông chủ tế với nguyên áo thụng xanh cuốc mấy nhát xuống
đất để lấy một cục đất đặt lên bàn thờ, tường tŕnh với Thổ Thần xin
cho dân làng được động thổ.
Sau buổi lễ Động Thổ này, dân làng mới được động tới đất. Ai cuốc xới
trước lễ động thổ bị dân làng bắt vạ.
Trong ba ngày Tết, nếu không may có ai mệnh chung, tang gia phải quàn
lại trong nhà, đợi lễ Động Thổ xong mới được Đào huyệt an táng.
Lễ Thần Nông
Nguồn gốc
Thần Nông tức là vị Hoàng Đế Trung Hoa đầu tiên đă dạy dân nghề làm
ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đă làm lễ Tịch Điền hoặc Hạ
Điền.
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong sự được mùa và
nghề nông phát đạt.
Trên các quyển lịch hàng năm, người ta thường vễ một mục đồng giắt một
con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, c̣n con Trâu tượng trưng cho
nghề Nông.
H́nh mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán
của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó tốt hay xấu.
Năm nào được mùa, Thần Nông giày dép chỉnh tề, c̣n năm nào mùa kém,
Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con
Trâu đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, vàng đen trắng xanh, đỏ đúng
với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Hàng năm xưa có tục tế và rước Thần Nông tại triều đ́nh.
Nghi thức lễ tế Thần Nông
Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày Lập Xuân, bởi vậy nên tế
Thần Nông c̣n được gọi là Tế Xuân.
Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông Chí, ṭa Khâm
thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp
để nặn trâu và tượng Thần Nông.
Trước ngày Lập Xuân hai ngày, tại gần cửa Đông Ba (ngày nay tức là cửa
chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng Đông.
Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để
ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận
lễ phục, có lính vác gươm dáo, tàn lọng, cờ quạt đi theo.
Tời Đài th́ một lễ đơn giản được cử hành như có ư để tŕnh với thần
linh tượng và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về
kho. Hôm Tế Xuân lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các
quan bộ Lễ và các quan tỉnh Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua cung vua,
một viên Thái Giám vào tâu Vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi
và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông Trâu ba roi, có ư
thôi thúc cho trâu phải làm việc.
Tới Đài các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác.
Tế Thần Nông xong, Trâu và tượng Thần Nông lại có quân lính khiêng cất
vào kho.
Tại các tỉnh, trong ngày Lập Xuân cũng có lễ tế Thần Nông, và lễ cũng
được sửa soạn từ sau ngày Đông Chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành
lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn sau buổi lễ như tại
Kinh đô.
Lễ Thượng Nguyên
Lễ Thượng Nguyên vào rằm tháng Giêng. Từ Triều đ́nh đến dân chúng đều
có lễ Phật trong ngày này.
Tục ta tin rằng trong ngày rằm tháng Giêng, đức Phật giáng lâm tại các
chùa để chứng tỏ ḷng thành của các tín đồ Phật Giáo. Trong dịp này,
chùa nào cũng đông người tới lễ bái. Các cụ bà Đă quy y cũng nhân ngày
lễ này, đến chùa tụng kinh niệm Phật. Các cụ vừa lần tràng hạt vừa kể
lại sự tích của đức Phật và chư bồ tát.
Nguồn gốc
Theo đạo Phật, ngày mùng Một và ngày Rằm mỗi tháng được coi là ngày
Phật, các tín đồ Phật Giáo trong những ngày này đều rủ nhau đi lễ chùa.
Theo sách Trung Hoa, lễ Thượng Nguyên không phải là một ngày lễ Phật.
Trước đây chính là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp này, nhà vua hội họp các
ông Trạng để thết tiệc và mời vào vườn Thượng Uyển thăm hoa, ngắm cảnh,
làm thơ.
Tết cũng c̣n có một tên nữa là Tết Nguyên Tiêu. Nhân tết này, ban Đêm
tai kinh thành và các thị xă có chăng Đèn kết hoa. Ở các nơi gần sông
như Giang Châu, Tô Châu gần sông nước có cuộc bơi thuyền.
Thuyền được trang hoàng muôn màu sắc, thắp sáng, hoa treo rực rỡ. Tại
các hí trường và các Công viên có nhiều tṛ vui như đánh gươm, cưỡi
ngựa, nhảy múa...Các văn nhân trong Đêm Nguyên Tiêu thường họp nhau
uống rượu thưởng xuân, vịnh ngâm thơ phú.
Theo các nhà thuật số, ngày Rằm tháng Giêng c̣n là ngày vía Thiên
quan. Nhân ngày này, tại các đền chùa có làm lễ dâng sao, nghĩa là
cúng các vị sao để giải trừ tai ách quanh năm.
Cúng lễ dâng sao, người ta lập Đàn tràng tam cấp, trên cúng Trời Phật,
Tiên Thánh, giữa cúng các vị sao thủ mạng, ở dưới cúng bố thí chúng
sinh. Mỗi năm mỗi người có một vị sao thủ mạng.
Lễ vật cúng dâng sao dùng hoa quả, trầu cau, xôi, chè rượu, vàng mă và
cả h́nh nhân nữa.
Lễ Khai hạ
Theo tục lệ Việt Nam, ngày mồng bảy tháng Giêng là ngày lễ Hạ nêu.
Cây nêu trồng trong năm, khi sửa soạn đón Tết cùng với cung tên bằng
vôi trắng vẽ trước cửa nhà Để trừ ma quỷ, nay được hạ xuống.
Lễ Hạ Nêu c̣n gọi là Lễ Khai Hạ. Mọi công việc thường xuyên, người ta
chỉ bắt đầu lại sau ngày Lễ này, tuy tại vùng quê người ta vẫn c̣n ăn
chơi, v́ tháng Giêng là tháng ăn chơi, và v́ lúc đó công việc đồng áng
đă vơi.
Sự tích cây nêu
Tục truyền ngày xưa, khi Tết đến, bọn ma quỷ hay tối quấy nhiễu dân
gian. Dân gian kêu Đức Phật, Phật liền ra tay bắt bọn ma quỷ. Bọn ma
quỷ sợ hăi đức Phật, không dám quấy nhiễu, nhưng chúng hỏi ở đâu là
Đất của Phật để chúng tránh xa. Phật đáp: Ở đâu có phướn, có chuông,
có khánh, đấy là Đất của Phật.
Ma quỷ lại hỏi địa giới của Phật đến đâu và lấy ǵ làm phân biệt. Phật
bảo chúng là ở đâu có vết vôi trắng là Địa giới của Phật.
Sau đó, ngày Tết, người ta dựng cây, trên ngọn nêu có treo khánh sành
và phướn giấy, và ở trước cửa nhà có rắc vôi bột thành h́nh cung tên
để trừ ma quỷ. Ma quỷ thấy cây nêu và vôi trắng không dám phạm tới v́
sợ đức Phật
Nguồn gốc lễ Khai Hạ
Lễ Khai hạ, người Trung Hoa gọi là lễ Nhân nhật, nghĩa là Ngày của
Người.
Theo sách Phương sóc chiêm thú th́ tám ngày đầu năm mỗi ngày thuộc
riêng về một giống:
Mồng 1 thuộc giống Gà, Mồng 2 - giống Chó, Mồng 3 - Giống Lợn, Mồng 4
- Giống Dê, Mồng 5 - Giống Trâu, Mồng 6 - Giống Ngựa, Mồng 7 - Giống
Người nên được gọi là Nhân nhật, Mồng 8 - Giống Thóc.
Nhân ngày Nhân nhật là ngày của giống Người nên người ta làm lễ cúng
Trời Đất để đánh dấu ngày đó.
Người VN nhân dịp này, ngoài lễ giữa trời cúng Trời Đất, c̣n sửa soạn
lễ cúng Gia Tiên, cúng Thổ Công và cúng thần Tài. Thường sau lễ này,
những người buôn bán mới bắt đầu đi chợ, mở cửa hàng.
Lễ Khai Hạ ngày nay
Ngày nay, nhiều nơi không c̣n lễ Khai hạ nữa, tuy nhiên tại các gia
đ́nh Việt Nam nhất là những gia đ́nh buôn bán, ngày mồng 7 tháng Giêng
vẫn có cúng lễ, cầu buôn may bán đắt, phát đạt, thịnh vượng quanh năm.
Người ta cũng cúng gia tiên, cúng Thổ Công, cúng Thần tài và một số
người vẫn cúng Trời, Đất như cổ lệ.
Lễ Du Xuân
Lễ Du Xuân là lễ nhà vua ngự du lúc xuân sang.
Lễ có từ đời nhà Lê. Ngày mồng một tháng Giêng, sau khi các hoàng thân
và các quan chúc mừng, nhà vua ngự du xuân có các quan văn vơ đi theo.
Ngài mặc áo Hoàng Bào cỡi ngựa đi trước. Các quan, lính tráng mang cờ
quạt khí giới theo sau.
Lễ Du Xuân của nhà vua, cũng giống như việc người dân xuất hành, vị bộ
Lễ phải chọn hướng để nhà Vua đi, ngơ hầu quanh năm trong nước được
thái b́nh, khang thịnh.
Lễ Khai ấn
Các ấn đă được lau chùi trong năm, ngoài xuân bộ Lễ chọn ngày lành,
giờ tốt để làm lễ Khai ấn nghĩa là dùng ấn đóng lên một công văn chỉ
dụ.
Thường bản văn đầu tiên được đóng ấn là bản văn tốt lành. Tục khai ấn
này, tại các tỉnh, huyện, xă, mỗi viên chức có ấn đều chọn ngày khai
ấn.
Xưa, người ta có sửa lễ cúng vị thần giữ về ấn tín trong dịp lễ khai
ấn.
Lễ Khai bút
Đầu năm mới, sau lễ cúng đón giao thừa, ngày xưa, các viên quan, các
nhà giáo, nhà sư, các môn đồ chuẩn bị án thư, nghiên mực, bút lông và
giấy hoặc lụa để làm lễ khai bút đầu năm. Mực thường dùng là mực Tàu
thơm đen lánh được mài kỹ và sau đó người khai bút sẽ thảo lên giấy
trắng hoặc lụa trắng. Bên án thư, có người đặt một đỉnh trầm ngát
hương bay toả lẫn với hương xuân giao mùa ngoài cửa.
Nội dung bài khai bút thường là một câu đối, một bài thơ đường luật
ứng tác hoặc một câu danh ngôn, một lời chúc mọi người, có khi là một
lời tự chúc với bản thân như một tâm nguyện trước năm mới. Bài khai
bút sau đó được đặt ở một nơi trang trọng, có khi là đầu một cuốn sổ
nhật kư, một án thư, có khi được treo trang trọng trong thư pḥng hoặc
pḥng khách... trong suốt năm mới ấy. Lễ khai bút là một phong tục
trang nghiêm và thiêng liêng với mong muốn hướng tới một thế giới tinh
thần rông lớn, bày tỏ nguyện vọng kẻ sĩ lập ngôn cao đẹp của người trí
thức trước cuộc đời.
(theo Toan Ánh - Tín ngưỡng Việt Nam)