Ai ơi đừng rơi nước mắt
ớt
Đừng rớt nước mắt gừng
Văn chương th́ cũng...nửa
chừng mà thôi!
(Nhại Ca dao Việt Nam)
Ngạn ngữ, thành ngữ, ca
dao xứ ta đă nói đó, Ăn ớt th́ nói càn...Nói càn là nói bướng,
nói chướng, nói ba phải, nói ngược nói xuôi, nói lộn tùng phèo, nói ba
xí ba tú, nói phét...và cũng là nói tưới hột sen! Ăn ớt
như nhồng ăn, thét rồi mỏng lưỡi, nên sinh chứng nói bậy nói bạ. Quả ớt
đó, nó gần xịt với văn hóa nấu nướng ăn nhậu của dân ta, và của thế giới
đại đồng nữa. Ở xứ mô trên quả địa cầu này cũng có món ăn cay, mà chỉ
xin đưa ra một nhận xét mơ hồ sau đây, xứ mô càng nghèo, càng đông dân,
th́ món ăn lại càng cay. Nhưng hỡi ôi, kỳ ni th́ văn hóa Ớt lại không do
phe ta, Bách Việt Lạc Việt và lũ hậu duệ phát minh ra (như văn hóa thịt
cầy, văn hóa đũa, nguyên lí nhị nguyên...), trồng tỉa rồi truyền bá đi
năm châu bốn bể, mà lại là nguyên sản của Trung Nam Mỹ châu và các
địa khu nhiệt đới. Chẳng ăn nhằm chi cả, rứa mà hắn (ớt), đi
dzù dzù, đến xứ ta, xứ tàu, xứ ấn, khi mô không hay, rồi th́ ông già bà
cả, người lớn trẻ con, thi nhau ăn hắn như điên...Kẻ hậu sinh ni,
cũng biết ăn ớt, tất nhiên phải nói càn, nên một lần nữa lại xin cả làng
tha thứ chuyện ngông cuồng Ăn tục Nói phét này (ATNP).
Tạp luận Nói Phét về Ớt,
muốn giả bộ khoa học chú xíu (se veut quelque peu "pseudo"-
scientifique!), Có thể đọc sẽ chẳng có thú vị chi. Nhưng thiển nghĩ
Ớt là hảo bằng hữu, thử nghiệm xem trong năm 365 ngày, bao nhiêu ngày
không có hắn tới thăm, mà mỗi ngày hắn tới thăm bao nhiêu lần?
Cho nên vị chút thân t́nh đó, cũng nên t́m hiểu hắn cho đến nơi
đến chốn, rồi ra sẽ thấy t́nh Ớt nồng nàn thêm, quư báu thêm...Sau đây
thử đặt những câu hỏi cho tài tử giai nhân có một mối t́nh lưu luyến với
Ớt, Ớt có từ khi mô? Hắn ở mô mà ra? Tên hắn là chi? Hắn thuộc loại
chi mà mần răng hắn lại cay? Mần răng biết hắn cay nhiều cay ít? Mần
răng mà xứ ta xứ tàu lại biết ăn Ớt? Bộ ăn Ớt cũng làm thuốc sao?
***
Tổ
tiên Hắn Ớt, là ớt dại mọc ở Trung Nam Mỹ châu khoảng 7500
TCN, mà từ đời thượng lịch sử 5200-3400 TCN, các cụ Mọi Da đỏ Ấn Đệ
An 印第安(Indians)
ýn d́ ān đă thuần hóa trồng trọt. Ớt Chile có lẽ đă được
thuần hóa 4-5 lần từ đời tiền sử, không những ở Trung Nam Mỹ, mà c̣n ở
Bắc Mỹ, từ Pê ru (Bí Lỗ 秘鲁ḿ
lǔ ) đến Mễ tây cơ ( Mặc tây ca
墨西 哥
mo xī gē ), qua Cô lô ra đô và tân Mễ tây cơ. Sách vở đều chép Ông
Ca luân bố 哥 伦 布
gē lún bù Columbus, năm 1492, kiếm
ra Ớt ở Tây In đi (Indies), vùng Caribbean, và tưởng Ớt cũng thuộc loại
tiêu đen, khai sinh ớt với tên Ají, biến thể chữ Axi, chỉ cổ dân Aztec (Aztèques).
Ớt tên gọi Chile, Chili tiếng của thổ ngữ Nahuatil
của dân Trung Mỹ Aztec (1). Văn minh Aztec khởi đầu với ông chúa cai trị
(ruler) Acamapichtli (1376-1396), người khởi sự xây kinh đô
Tenochtitlan của Aztec. Các chúa tiếp sau, hậu duệ ḍng dơi Acamapichtli,
cai trị đến đời thứ 10, Cuitlahuac (1520); qua tới đời cuối cùng
Cuauhtemoc (1520-1525), th́ bị Tây ban nha chinh phục, tàn phá kinh đô
và đô hộ dưới sự lănh đạo của Hernando Cortes (1485-1547), lúc dó dân số
Aztec khoảng 5 triệu người.
Vậy
tên Ớt nguyên thủy là Chile, tiếng Nahuatil có nghĩa là
đỏ, chính tả có khi viết Chili, Chilli. Người Mỹ hay dùng chữ
Chile, dựa theo tên cây và quả ớt, chữ Chile cũng thông dụng trong tiếng
Tây ban nha. Chili cũng thấy hay dùng, nhưng miền Nam nước Mỹ không gọi
Ớt là Chili, bởi v́ tên Chili dành cho món ăn dân tộc quốc hồn quốc túy
và chính thức của tiểu ban Texas, với nhiều gia vị, gia vị chính
là Cumin (2). Tự điển
Oxford English Dictionary chính thức viết Ớt là Chilli, số nhiều là
Chillies! Ba chệt gọi Ớt là Lạt tiêu
辣椒
(pinyin: là jiāo). Lạt là cay, Tiêu
gốc bộ mộc. Bên Tàu trước khi Ớt đến chơi, người Hoa chỉ biết dùng gia
vị Gừng, khương 姜
jiāng và Hồ tiêu 胡 椒
hú jiāo. Chữ Hán cũng thấy
gọi ớt là phiên tiêu 番椒
, hải tiêu
海椒
,
lạt tử 辣 子,
lạt giác 辣 角,
tần tiêu đẳng 秦 椒等.
Đời xưa cứ năm mới th́ các cụ uống rượu hạt tiêu gọi là tiêu bàn
椒盤
, trong cấm cung dùng hạt tiêu trát
vào tường vách cho thơm và ấm. Đời nhà Hán gọi hoàng hậu là tiêu
pḥng 椒房,
đời sau gọi họ nhà vua là tiêu pḥng chi thân
椒房 之 親.
Chữ Nôm ta viết cây Ớt bộ thảo 艺và
trái Ớt bộ tân 乵
. Chữ
艺
hán tự là nghệ (nghề, tài
năng) có một nghĩa là trồng tỉa.
Tiếng Việt, cùng
với vài nước khác, gọi ớt là Ớt, như Trung Mỹ gọi Ớt là Chile-Chili,
như Pháp dùng tự piment-piment rouge, chứ không có rây mơ rễ má
chi với chữ Tiêu. Không những các chú ba Tàu gọi Ớt là Tiêu cay (lạt
tiêu), phần đông các nước
chịu ảnh hưởng tiếng Anh dựa trên chữ Tiêu Piper để gọi ớt là
Red pepper, Chile pepper (3), trong khi cây ớt có tên là khoa học là
Capsicum. Người Pháp lúc xưa cũng dùng sai lầm từ ngữ poivre
rouge. Nhưng xin đừng lộn chữ Chile, Chili với quốc gia Nam Mỹ tên
Chile tức Chí Lợi 智利
Zh́ĺ (Trí lợi).
Hai chữ ớt Chile, Chili không có bà con cô bác chi cả với tên nước
Chile; mà theo tiếng bản xứ
Quechua, tên nước Chile là từ 2 chữ chin (lạnh),
tchili (tuyết), và ở quốc gia này, Ớt được gọi là ají. Cây ớt
có phân loại thực vật như sau:
Vực |
Chân hạ vực 真 核 域 |
Eukarya |
Giới, Règne |
Thực vật giới植物
界 |
Plantae |
Môn, Division |
Bị tử thực
vật môn 被子植 物 門 |
Magnoliophita |
Cương, Classe |
Song tử diệp
thực vật cương 雙 子 葉 植 物綱 |
Magnoliopsida |
Mục, Ordre |
Gia mục
茄目 |
Solanales |
Khoa, Famille |
Gia khoa
茄科 |
Solanaceae |
Thuộc , Genre |
Lạt tiêu
thuộc 辣椒 屬 |
Capsicum |
Chủng |
Lạt tiêu 辣 椒 |
C. frutescens |
Ớt có 22 loại cây
dại (nguyên giống), chia ra 5 loại đă được chính thức thuần
hóa.
Capsicum annuum:
gồm loai ớt bell pepper, paprika, jalapenos, chiltepin.
Capsicum baccatum:
gồm Ớt ají Nam Mỹ (khảo cổ t́m thấy dấu vết loại này ở Âu châu khoảng
2500TCN)
Capsicum chinense:
gồm các loại Ớt cay nhất, habaneros, Scotch bonnets.
Capsicum
frutescens: gồm Ớt cayenne, tabasco
Capsicum pubescens:
gồm Ớt Nam Mỹ rocto, locoto.
Gần
đây, trong một cuộc triễn lăm ở Âu châu, có đến 100 cây ớt mang tên khác
nhau, nhưng đều thuộc về 5 loại Capsicum kể trên đây, phần lớn thuộc
Capsicum annuum, tức không phải là loại Ớt cay xé óc! Thế nhưng làm
sao có thể đo được độ cay của Ớt, biết ớt này cay hơn ớt kia? Từ năm
1912, W.L Scoville đă t́m cách đo độ cay của ớt bằng khối lượng đường
cần để trung ḥa (neutraliser) độ cay trong miệng, hoặc pha ớt vào một
dung dịch (có thể pha loăng tới 50,000 lần), rồi để 1 nhóm 3-5 người
nhấp nháp và cho ư kiến, xem dung dịch pha loăng bao nhiêu lần mà vẫn
c̣n vị cay. Tất nhiên những phương pháp này không có thể chính xác được.
Hóa chất của quả cây ớt
Capsicum có 2 chất chính, Capsaicinoids và Carotenoids.
Cay của Ớt là nhờ độ tập trung (concentration) của
Capsaicinoids, mà chất chính là capsaicin (4), chất
này có khoảng 60% trong mô trắng (white tissues) của vỏ, 40%
trong hạt. Carotenoids là chất đem lại màu và vị cho vỏ ớt, mầu
càng đậm th́ vị càng nhiều. Hiện nay hệ thống chia độ cay Scoville dựa
trên nồng độ của capsaicin t́m thấy trong ớt. Đơn vị cay Scoville SHU (Scoville
Heat Unit) biểu hiệu bằng 15 SHU là 1 ppm capsaicin và
Capsaicinoids; ppm part per million, là đơn vị để đo độ tập
trung, một phần trong 1 triệu, tỷ như ta h́nh dung 1mg trong 1kg. Tuy
nhiên cùng là một loại ớt, SHU có thể thay đổi từ cây này qua cây khác,
hoặc từ quả ớt này qua quả ớt khác. Chất Capsaicin nguyên chất có độ đo
tuyệt đối 16,000,000 SHU, trong khi lựu đan cay cảnh sát có 5,300,000
(làm ở pḥng thí nghiệm). Hiện nay vô địch cay hạng nặng poids lourd
là Red Savina Habanero (Guinness
Book of Records), mấy ông Chà dzà ấn độ, nổi tiếng ăn cay, ngông
nghênh tuyên bố có trồng được một giống ớt, Naga Jolokiai, độ cay đến
855,000 SHU, nhưng chưa được xác minh. Quả ớt tṛn lớn (tây gọi
poivron) típ Hungarian Paprika ít cay nhất, đo được 100-500 SHU. Sau
đây là vài loại ớt cay thượng hạng, đo bằng SHU :
Red
Savina Habanero 350-577,000
Habenero 150-325,000
Carolina Cayenne
100-125,000
Thai Dragon 50-100,000
Piquin 40-58,000
Talbasco, Cayenne 30-50,000
Ở Pháp, có nhiều tên Ớt
nghe rất dễ thương, piment banane, piment oiseau, bouquet,
chocolat,...Và rất hănh diện là có một giống Ớt côcôricô
Pháp, piment d'Espelette ở xứ Bát sơ kơ (Basque). Từ thế kỷ 18,
Thịt đùi Dăm bông jambon nổi tiếng của xứ này đă được ướp ngoài
vỏ với Ớt Espelette, sau khi được xông hương bằng Tiêu. Tất nhiên
các Cụ Gô Loa bảo thủ chả muốn biết SHU là cái giống chi, họ dùng một hệ
thống đo cay Scoville cổ lỗ sĩ khác, có độ từ 0 đến 10, ớt Espelette
xếp hạng 4. Bên ta có ớt gạo, ớt hiểm (ớt mọi), ớt rà, ớt sim, ớt
chỉ thiên, ớt sừng (vàng) châu Phi, ớt ch́a vôi, ớt giấy, ớt bi (bị), ớt
sừng trâu (ḅ), ớt xiêm (Thái lan), ớt cà chua, ớt cựa gà, ớt hạt
tiêu (5) ...Ớt hổng cay kêu là Ớt chuông (chắc dịch chữ
Bell pepper độ SHU zêrô), hay ớt tâyớt chuối...Nghe nói ngày
xưa ở Đà lạt có giống Ớt Bơ gốc Sóc trăng, nay đă tuyệt chủng,
dầm vào nước mắm nhĩ, thoang thoảng thơm mùi bơ !
Ông
Diego Álvarez Chanca, nhà Vật lư học đi theo ông Ca Luân Bố trong
chuyến du lịch thứ nh́ qua Tây Indies đem Ớt về Tây ban nha và năm 1493
đă viết sách nói về y dược của Ớt. Từ Mễ tây cơ, lúc xưa người Tây ban
nha điều khiển hầu hết tất cả mậu dịch với Á châu, nên Ớt ngao du đến
quần đảo Phi luật tân, Ấn độ, Tàu và Nhật. Một thuyết khác nói người Bồ
đào nha, đem Ớt từ Tây ban nha về xứ rồi đưa qua Ấn độ (6); dấu vết món
ăn Bồ tên Vindaloo c̣n t́m thấy trong nghệ thuật nấu ăn rất cay của xứ
Goan, một thuộc địa cũ của Bồ. Sau đó Ớt chinh phục Trung Á, Thổ nhĩ kỳ,
cho tới Hung gia lợi ; ở đây Ớt trở thành Paprika, gia vi truyền
thống quốc gia Hung. Người Ấn độ ăn rất cay, món cà ri là một tiêu biểu,
họ dùng 4 loại ớt chính: Lal Mirch, Hari Mirch (Lal Mirch tươi), Degi
Mirch (Paprika) and Simla Mirch (ớt chuông không cay). Chuyện nên để ư
là cây ớt du nhập vào nhiều địa khu khác nhau trên thế giới, mà đều hợp
phong thổ, khí hậu, sinh nở phát trưởng rất khả quan.
Ớt được truyền
nhập vào Tàu thế kỷ 16; cuối thời Minh (1368-1644) ớt được phổ biến rất
rộng răi trong các địa phổ, Trần Hạo Tử
陳淏子
nhà Thanh (1644-1911) trong sách Hoa kính
花鏡
đă kí tải hiện diện của Ớt trong cao lương mỹ vị Ba chệt. Rồi Ớt trở
thành gia phẩm số một bên Tàu, nhất chủng đại chúng hóa sơ thái
一種大眾化蔬菜!
Đặc biệt các tỉnh Tứ xuyên, Hồ nam (7), Quư châu, nhân dân vưu kỳ hỉ
hoan, cho nên mới có thành ngữ "Tứ xuyên nhân bất phạ lạt, Hồ nam nhân
lạt bất phạ, Quư châu nhân phạ bất lạt
四川人不怕辣 , 湖南人辣不怕 , 贵州人怕不辣
, nghĩa " Dân Tứ xuyên không sợ Ớt cay, Ớt cay chả làm dân Hồ nam sợ,
dân Quư châu sợ Ớt không cay!".
Ớt,
chưa hiểu được một cách dứt khoát, là đă truyền bá vào Việt nam ta lúc
nào, mới đây trong Ớt dầm Câu nhi, Quảng trị, tác giá viết "
Từ thế kỷ XVI, trong tác phẩm "Ô châu cận lục", tiến sĩ Dương Văn An
đă nhắc đến những mặt hàng nông sản nổi tiếng của vùng đất Quảng Trị như
hồ tiêu, ớt... ". Ớt đến Việt Nam chỉ có thể bằng 2 cách : Từ Mễ tây cơ
qua Tàu với thương dịch của Tây ban nha, rồi từ Tàu truyền nhập vào VN.
Hoặc do những nhà truyền giáo đầu tiên Bồ đào nha đến VN giảng đạo Kytô,
đem theo trong hành lư mấy cây ớt và nhiều giống cây khác, như sầu
riêng, măng cụt... Thuyết Lizzie Collingham (Oxford University Press,
February 2006) có giả thuyết người Bồ đào nha đem ớt lần đầu tiên đến Ấn
độ, rồi từ Ấn truyền qua các nước láng giềng. Thuyết này khá vững, tàu
Ca luân bố đem Ớt về Tây ban nha năm 1493, năm 1498 những thương thuyền
Bồ đâu tiên đến Ấn độ, trong khi Tây ban nha chỉ đến cập bến và lập
nghiệp ở Phi luật tân vào giữa và cuối thế kỷ 16. Một ít giai thoại kể
đến Bia đá padrăo người Bồ đào nha dựng năm 1524 trên ḥn đảo đối
diện với thương cảng Faifô (Hội An), sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục (1859-1884) có đề cập đến một cách không rơ ràng, dựa
trên dă lịch (chroniques non officielles), sự đột nhập vào thế kỷ
16 của một dương nhân (homme de la mer) vào lưu vực sông
Hồng, để truyền giáo. Bắt đầu từ 1583, các nhà truyền giáo Tây và Bồ mưu
toan đến giảng đạo ở đàng trong, nhưng không thành công mấy. Ḍng Tên,
từ " tỉnh ḍng, province " (8) Nhật bổn lập trụ sở chính thức ở
đàng Trong năm 1615 và đàng Ngoài 1627 (9). Mới đây, Roland Jacques (10)
thiết lập chứng cớ là nguồn gốc viết chữ quốc ngữ là từ tiếng Bồ đào
nha, và nhà truyền giáo Bồ Francisco de Pina cùng với một nhà Nho VN có
tên rửa tội là Phê Rô, am hiểu ngữ vựng Việt và Hán, là những người đầu
tiên, năm 1622, thực hiện một hệ thống phiên Việt ngữ qua các chữ cái
a,b,c La tinh (transcription alphabétique), Pina qua đời ngày
12/12/1625, một cơn gió lốc làm ông chết ch́m ngoài khơi Đà Nẵng.
Alexandre de Rhodes (tên Hán là A lịch sơn Đắc lộ
亞歷 山 得 路
Yālíshān Délù ), gốc người Pháp chay, không đủ khả năng để diễn
âm viết tiếng Việt qua những dấu dựa trên Bồ ngữ, ông này lại ở VN rất
ít, đến Đàng ngoài 1627, bị trục xuất 1630, trở lại VN 3 lần từ năm
1640, bị vĩnh viễn trục xuất 1645, và không bao giờ trở lại VN! Nhưng
Đắc lộ là một chuyên gia tài giỏi về khoa học quản lí (management),
biết cách chiếm bản quyền trước tác của các giáo sĩ Bồ, để trong những
năm 1649-1652 Đắc Lộ được ḍng Tên Bồ đào nha Macao gửi đi Rô ma thảo
luận tương lai truyền giáo ở VN, đem theo tài liệu và cho xuất bản dưới
tên ông năm 1651, cuốn Tự điển Annam-Lusitan-Latinh (tự điển
Việt-Bồ-La) và sách Phép Giảng Tám Ngày (11). Phải đợi 2 thế kỷ sau,
mới có sách tự điển in Dictionnaire Annamite-Latin của Taberd năm 1838.
Đắc lộ chép nguyên văn 2
quyển tự điển Việt-Bồ của Gaspar do Amaral và Bồ-Việt của António
Barbosa, nhưng khi đạo văn, ổng đổi phần từ vựng Bồ-Việt thành
Latinh-Việt! Thiệt mắc cỡ cho tui quá chừng, lúc c̣n sinh viên ở Sài
g̣n, tui nội trú trong Cư xá Đắc lộ (1960-1964), đường Yên đổ ; bây chừ
tui đang ngồi viết chuyện nói xấu ông A lịch sơn Đắc lộ! Thế nhưng không
ai có thể ăn gian với lịch sử tiếng quốc ngữ VN được, dù là VN,
trúng hay trật, sẽ trưng bày lại bia hay tượng Đắc lộ, bia này trước kia
thấy ở Hồ Hoàn kiếm, gần chùa Bà Kiệu, được dựng vào tháng 5 năm 1941,
mà nay đă biến mất. Theo thuyết các nhà truyền giáo Bồ, th́ sớm nhất là
đầu thế kỷ 17, chàng Ớt mới qua du hí Việt nam, và như thế Tiến sĩ Dương
văn An không thể khoác lác về Ớt dầm Câu nhi Quảng trị ở thế kỷ 16 được!
Phần nữa giả thuyết Ớt đi đường bộ từ Tàu qua VN cũng khó tin, bởi ví
sớm nhất là cuối đời Minh, đầu thế kỷ 17, Ớt mới ṃ mẫm đến đất Ba chệt,
phải đợi đến thời Tiền Thanh, giữa và cuối thế kỷ 17, hắn (Ớt)
mới tung hoành dữ dội ở xứ Con Trời này. Triều đại Lê và dưới thời Trịnh
Nguyễn phân tranh, có lẽ mậu dịch thương mại giữa Tàu và Việt nam không
thịnh vượng bằng những khi mà xứ ta bị Tàu đô hộ. Văn hóa Ớt ở Tàu hay ở
ta cũng cần một thời gian dài để phát triển, và có thể đă phát triển
song song qua 2 thế kỷ 17 và 18, cho tới cuối đời hậu Lê. Khi Lê chiêu
Thống cơng rắn Tôn sĩ Nghị về cắn gà nhà, rồi Nguyễn Huệ đánh bọn Tôn sĩ
Nghị và tay sai Hướng thế Hanh, Trương sĩ Long, Sầm nghi Đống, một trận
nhừ tử trối chết tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789, lúc đó mới khởi sự thời
vàng son của Ớt. Vậy có thể kết luận, Ớt truyền nhập vào xứ ta, Tàu,
Phi, Nhật cùng một lúc, khoảng đầu và giữa thế kỷ 17, nhưng bành trướng
và phát triển văn hóa Ớt đều khác nhau ở mỗi xứ. Xứ ta chẳng hạn, ăn Ớt
tươi nhiều, cùng với ớt bột, ớt khô và tương ớt, Tàu Ấn Phi hầu như
không ăn ớt tươi, thường ăn ớt xào xáo hoặc phần đông ăn ớt bột và ớt
dầm hay tương ớt. Ăn ớt tươi ở VN là cả một nghệ thuật thượng đẳng, Ớt
xanh tươi ăn nguyên trái, không cắt, để nghe cắn khi th́ cái rụp, khi
th́ cái rạo; nhất là ăn tô dấm nuốt, cắn trái Ớt xanh, vỏ da mịn căng
cứng lên xếch xi hết chỗ nói, th́ tiếng vang khi cắn Ớt, mùi rau thơm,
mùi mắm ruốc cùng với con nuốt nhai nghe sần sật, th́ thử hỏi coi đâu là
thiên đàng địa giới? Ăn ḿ Quảng, phải ăn với trái Ớt hiểm xanh vừa mới
chín tới. Ớt đỏ tươi phải cắt khoanh ăn với xà lách và rau thơm, khi ăn
với bánh khoái bánh xèo. Ăn ḅ kho hũ tiếu Nam vang, hũ tiếu xào (áp
chảo) lại phải ăn trái ớt sừng trâu xắt thành miếng mỏng. Ăn tô phở ḅ
mà không có những khoanh Ớt vừa xanh vừa đỏ, cắt đừng mỏng quá, để nh́n
thấy màu Ớt óng ả phản chiếu bánh phở, thịt phở nước dùng, hành vả rau
thơm, th́ đâu có ngon trọn vẹn cho đặng. Ăn cơm ngày ba bữa phải được kề
cà với chén nước mắm sống có dằn Ớt tươi, mà phải xắn Ớt bằng muỗng chứ
đừng cắt bằng dao, th́ mùi vị cay mới có hương có hoa nhiều cho khẩu vị.
Lúc hái Ớt tươi cũng nên phân loại, Ớt xanh vừa già hái ăn cho cay và
ḍn cái lỗ miệng, Ớt hường chín tới, màu xanh, lục, vừa lóe đỏ, có thời
điểm cay tối ưu của hóa chất Capsaicin, cay ni là cay tóe khói. Ớt chín
rồi, màu đỏ, ăn dzô, trong vị cay có cái ngọt ngọt d́u dịu, tựa như diện
kiến nữ nhân với sắc đẹp trưởng thành. Ớt khô, Ớt bột, Ớt hột khô, Ớt
khô nguyên trái, Tương Ớt, Ớt chưng, Ớt nước mầu, vv... ở VN là Bát quái
trận, mỗi địa khu có một đặc sản với đặc vị riêng biệt, không kể và tả
hết được, và nhiều khi dị kỳ, tỷ như giờ đây có loại Ớt bột một ḿnh đă
thơm rồi, lại trộn thêm tôm khô nghiền nhỏ với bột ngọt và chút muối,
thế th́ có lẽ đă ra khỏi thẩm quyền của chàng Ớt ta! Chỉ dám tản mạn sơ
sơ về Ớt, không dám đả động đến văn hóa nấu nướng dựa trên Ớt, như Bún
ḅ, Cơm hến,... không có hắn không đặng, ngoài ra ăn Ớt chung với
món ăn, vừa có truyền thống, mà cũng là vừa có gu riêng. Tôi thương và
quyến luyến Ớt, nhưng qua tới quê bà xă bên Tứ Xuyên, th́ ôi thôi đành
chịu thua, đi ăn th́ cũng chỉ dám đứng ngó, một tô ḿ, một nồi cù lao
hot pot, ớt và dầu đóng khoảng 2-3 cm trên mặt, nếm dzô, vị Ớt cay
xé ruột xé gan, nuốt hổng trôi.
Nước ta ba miền Trung
Nam Bắc (thứ tự ni là quen tật viết ra), không biết miền mô vô địch ăn
cay. Tui có ở xứ Huế, ăn món ăn Huế lai rai quanh năm suốt tháng, bạn
Huế nhiều vô kể, nhất là bạn nối khố bản tri kỷ, thương Huế nhớ Huế quá
chừng quá mực, kỷ niệm Huế vô số, nhưng quốc tịch th́ chỉ lai Huế.
Khách quan mà xét, phải nói dân Huế ăn cay thiệt, xứng đáng chức vô địch
toàn quốc, cái cay xứ Huế da diết lắm, ăn dzô miệng dzô bao tử tiêu hóa
rồi, mà cay vẫn c̣n nằm lại trong da trong thịt, trong chân răng kẽ tóc,
thiếu cay th́ thân thể người ta chia làm ba phần, đầu ḿnh và chân
tay (Quốc âm giáo khoa thư) sinh bải hoải, ngứa ngáy khó ở khó chịu,
không lẽ lại mang tội bất hiếu, thương cha thương mẹ không bằng
thương cay? Người bản xứ, tức Người Việt gốc Ớt (NVGƠ
- xin đọc bài phụ đính của Hoàng Lăo Tà dưới đây) th́ khỏi nói, thương
nhớ Ớt, thiếu hắn th́ ăn không ngon ngủ không yên, nhiều trự
NVGƠ tha phương cầu thực khắp nơi, châu Âu, châu Úc châu Mỹ, về thăm
Huế, không những suốt ngày tắm gội với đồ ăn Huế, chưa đă, lúc về chỉ
nhớ mua Ớt Huế làm kỷ niệm. Nhiều trự NVGƠ khác qua tới bên ni
rồi, mà mỗi khi trời trở lạnh, lại dzớ dzẩn sinh bệnh dzở hơi, nhớ tới
Ớt hiểm (c̣n gọi Ớt mọi, chữ ni thiệt kỳ thị chủng tộc quá xá, v́
người mọi hái trên núi, phơi khô đem về Huế bán, người Quảng nam
c̣n gọi là Ớt rài), khi ăn cay mồ hôi túa giọt hai bên thái
dương, không chịu thua tiếp tục ăn cay thêm, sinh nghẹn họng nuốt không
trôi, mà đâu đă chịu thôi, ăn thêm cay nữa cho đến sinh nấc cụt! Nghĩ mà
coi, xả thân thương Ớt, mà luyện Ớt tới ba thành hỏa hầu như ri, th́ chỉ
có NVGƠ !
Tại sao ăn ớt lại cay mà
lại phái, rồi sinh ghiền? Trong miệng, mũi và cuống họng ta có những cơ
quan nhận cảm (récepteurs) đau (cay) gọi là tam cấu trúc
tế bào (trigeminal cells), khi bị kích thích chuyền những tín
hiệu đau vào óc năo, óc năo nhả ra một chất gọi endorphins,
đó là một hóa chất ở thần kinh hệ làm bớt cảm giác (analgesic),
cho người ăn Ớt một cảm giác tê mê, phởn phơ, phan phái, dễ chịu (euphoria)!
Ở Âu châu vào thế kỷ 16, ớt được coi là thuốc kích thích t́nh dục (aphrodisiac),
hiện nay ba chú Rệp ở Trung đông vẫn c̣n giữ quan niệm này. Khi chất cay
Capsaicin tấn công cơ quan nhận cảm, thân thể cũng phản ứng, tim đập
nhanh, chảy nước miếng nước mũi, tháo mồ hôi, có khi c̣n bốc khói
trên đầu, như ông Tư Râu hay nói! ĂZn Ớt cay, uống nước vào chả thấm
ǵ, v́ Capsaicin là chất chỉ tan trong mỡ, phái mỡ (liposoluble,
lipophilic), cần phải có
caséine của sữa th́ mới trung ḥa được Capsaicin. Thần kinh hệ
chim nuông không giống động vật có vú, Capsaicin không làm khó dễ, do đó
nhiều loại chim chỉ sống nhờ Ớt, tựa như nhồng chẳng hạn. Loại chim này
ăn ớt, nhưng dạ dày không tiêu hóa hạt, nên phân chim có hạt gây giống
cho Ớt nhiều nơi hẻo lánh.
Tổ tiên nhân loại đă
biết Ớt ngoài thực vị cay, c̣n có giá trị dinh dưỡng cao, và nhiều y
dược, giàu vitamin B, potassium, magnesium, sắt,... Trong 100g Ớt tươi,
có 30kcal, nước 90.25g, tro 0.87g, sơ (fibres) 3.7g, đản bạch chất
protéines 1.74g, lipides 0.44g, glucides 6,7g, đường 4.06g, calcium
11mg, sắt 0.86mg, magnésium 22mg, phosphore 40mg, potassium 305mg, đồng
0.129mg, sodium 10mg, kẽm 0.26mg, vitamin C 44.9mg, B1 0.054mg, B2
0.081mg, B3 1.537mg, B5 0.200mg, B6 0.505mg, vitamin A 937 UI,
vitamine E : 0,69 µg,
vitamine K : 11,4 µg, Acides béo :
saturés : 0,059 g,
mono-insaturés : 0,023 g,
poly-insaturés : 0,222 g.
Mới đây,
American Association for Cancer Research báo cáo Capsaicin có
khả năng diệt trừ tế bào Ung thư Tuyến tiền liệt (Cancer de la
prostate). Đông y th́ khỏi nói, Ớt được ca tụng như là thần dược.
Ngoài tục truyền Ớt chữa sốt rét ngă nước cho mấy người tha phương lên
miền ngược, các thầy lang ta c̣n nói: Ớt vị cay, tính nóng, có tác dụng
tiêu đờm, ôn trung, tán hàn, giải biểu, kiện tỳ, tiêu thực, kháng nham
(chữa ung thư), gây sung huyết, kích thích chung, thông kinh lạc, chỉ
thống (giảm đau), sát trùng. Rễ ớt có tác dụng làm hoạt huyết, tán
thũng. Lá ớt có vị đắng, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi
tiểu. Ớt trị tỳ vị hư lạnh, tiêu chảy, nôn mửa, dạ dày ruột đầy trướng,
mất trương lực, tích trệ, ăn không tiêu, đau nhức nửa đầu, đau lưng, đau
khớp, thống phong, đau dây thần kinh, viêm thanh quản, viêm họng. Ớt c̣n
chữa sốt rét, phù thũng, rắn rết cắn, eczema (chàm), mụn nhọt, đau bụng
kinh niên, viêm khớp măn tính, tai biến mạch máu năo, vân vân và vân
vân...Hổng biết có bệnh chi mà Ớt hổng trị nổi?
Nồng như vôi cay môi
như ớt, Ai trông thấy ma biết bà già ăn ớt, Ớt cứ nhan nhản, ở đâu
cũng thấy hắn, ăn cay mà cứ ăn, ăn rồi sinh ghiền, không có ớt cay, th́
ăn hết ngon. Thế nhưng ghiền Ớt là chuyện tốt đẹp, không phải như ghiền
rượu, ghiền thuốc lá, thuốc phiện. Ăn ớt nhiều, miệng lưỡi không bị
chai, vẫn c̣n nhạy cảm, biết món ni ngon món kia dở. Không biết mấy ông
Trời thần chuyên nghiệp nếm rượu như Robert Parker (12) có dám ăn ớt
không? Cái miệng cái lưỡi của mấy xếp ni quư lắm, nếm rượu chỉ ngộm
ngoạm súc trong miệng rồi nhổ ra chứ không được nuốt, sợ quen mùi quen
vị, mà không phân biệt được rượu ngon hay dở. Ớt chả phải là rượu, không
đắt đỏ cho giới b́nh dân, bạn với Ớt, ăn no ngủ kỹ, không phải lo lắng.
Mà cũng dễ hiểu, khi chỉ có Ớt để biến cuộc ăn tầm thường thành cao
lương mỹ vị, th́ tội chi mà không làm, quen ăn Ớt rồi phát sinh ra những
khám phá, truyền thống, đáng mặt để trở nên thành phần của một văn hóa!
Mẫy xứ Viễn đông ta, Tàu, Phi, Ấn, chưa kể Cao ly, Mă lai, Thái, Lào,
Nam dương, Căm bốt, Nepal, vv...toàn xứ nghèo dân đông, văn hóa ăn ớt
rất cao. Mỹ quốc và Âu châu, xứ giàu dân ít, ăn Ớt mần chi, thiếu chi đồ
ăn khác, mà lại c̣n sợ ăn cay quá, mất mùi các vị ăn khác. Tưởng tượng
coi, ăn gan béo, trứng caviar,... vị quá tinh tế, chàng Ớt nhào dzô,
chèn hết các đối thủ, tỳ vị không c̣n khả năng phân biệt, chả biết là
đang ăn ba tê với ớt hay trứng cá kho ớt! Xứ ta không có mấy của Trời
đánh Thánh vật này, giá cả đắt hơn vàng, khỏi phải lo nghĩ xa xôi. Nói
xa gần mần chi, ngay ở VN ta, dân thành thị tương đối giàu có ăn cay ít
hơn dân đồng quê. Cho nên ngài Vũ Bằng b́nh chân như vại ở chốn đô
thành, chắc không ăn cay mấy; chả thế mà trong Miếng ăn Hà nội, Món
lạ miền Nam, Thương nhớ mười hai, ít thấy ca tụng địa vị Ớt trong
miếng ăn dân gian. Âu cũng là một khuyết điểm chăng? Dân Rệp th́ bị đạo
cấm uống rượu, muốn lửng lơ phởn phơ, chỉ có cách ăn thật cay để óc năo
thả chất endorphins, làm cuộc đời lên hương. Phần nhiều các dân
hồi giáo ăn cay lắm, đàn ông c̣n lấy cớ ớt kích thích t́nh dục để có
thêm vợ hầu.
Tuy Ớt không phải là
nguyên sản xứ ta, nhưng tiến tŕnh ăn nhậu với Ớt đă đem đến nước ta một
Văn hóa Ớt quá tốt đẹp. Phải nói dân ta biết ăn cay một cách văn hóa hơn
các xứ khác cũng ăn cay. Xin giải nghĩa một théc méc mà cũng là một ấm
ức âm ỉ bấy lâu nay trong tâm can. Số là tôi cũng nghiện phở với dĩa Ớt
đầy hoa đầy mộng, đă có cơ hội ăn phở ngon phở dở, đọc Thạch Lam, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng và nhiều tác giả khác viết về Phở, đều ngưỡng mộ và khâm
phục. Gần đây một số học giả nêu ra vấn đề nguồn gốc Phở, phân tích kỹ
lưỡng, đi đến 2 kết luận, primo, cơng rắn cắn gà nhà, phở có
nguồn gốc từ Pốt tô phơ của "thằng" Tây thuộc địa, secundo,
cũng cơng rắn cắn gà nhà luôn, v́ phở là ḍng giơi ngưu nhục phấn
Tàu trăm phần trăm và đă được Việt hóa, hoặc có họ với hủ tíu Ba
chệt miệt Quảng châu. Tôi muốn đưa ra một giả thuyết thứ 3, chứng minh
phở là văn hóa nguồn gốc Lạc việt. Thật vậy, người các chú từ xưa cho
đến nay phần đông ăn hai loại súp, mễ phấn và miến điều.
Mễ phấn là sợi hay bánh bằng bột gạo, miến điều th́ làm
bằng bột ḿ. Súp bánh bột gạo hay bột ḿ với thịt ḅ gọi Ngưu nhục
phấn (phở ḅ) và Ngưu nhục miến (ḿ ḅ). Dưới đây, h́nh tay
trái là tô Ngưu nhục phấn ở Quế lâm (tỉnh Quảng tây gần Việt nam)
(13), h́nh tay phải là tô Ngưu nhục miến ở Lan châu (tỉnh Giang
Tô, Đông bắc, gần Mông cổ). Tô phở Quế lâm trông chẳng khác tô phở Việt
nam bao nhiêu. Ṇi Bách Việt, chủng Nam Á cư ngụ miền Nam sống Dương Tử
sinh sống bằng nông nghiệp, ăn lúa gạo; trong khi dân du mục miền Bắc ăn
lúa ḿ. Văn hóa nông nghiệp ăn lúa gạo, cũng như văn hóa thịt cầy,
là đặc tính chung của văn hóa Bách Việt, dân Lạc Việt ta cùng chia xẻ
gia tài chung văn hóa đó với các tộc khác, Điền Việt, Dương
Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt. Nhưng đặc
biệt, phở th́ có lẽ thuần túy Lạc Việt, v́ hiện nay khi du ngoạn các
tỉnh Liễu châu, Quế lâm tỉnh Quảng Tây, du khách sẽ ngạc nhiên khi thấy
những quán cóc bên lề đường bán những tô Ngưu nhục phấn h́nh dáng cùng
một quan niệm y chang với tô phở Việt nam. Sử sách chép rằng tộc
Lạc Việt khởi nguyên cư ngụ ở Trung quốc tỉnh Quảng tây và Bắc Bộ (Việt
Nam) sinh sống với nghề Nông. Phở hay Mễ phấn đă sinh nở với dân tộc
này, với ngoại lệ là phở khi trở thành thuần túy Việt nam đă tiến tới
một văn hóa tân tiến hơn nhiều, so với mễ phấn của lũ hậu duệ Lạc Việt
c̣n sinh sống ở Quảng tây! Nh́n tô phở chín mễ phấn Quế lâm qua h́nh
ảnh, có bát Ớt bột bên cạnh, trông đơn giản nghèo nàn mà thấy thương.
Trong khi thấy tô phở Việt kiêu sa, trưởng giả mà thanh đạm, với rau
thơm ớt tươi, và nhất là phở nêm bằng nước mắm, mà nước mắm là văn hóa
độc quyền của dân ta! Sự khác biệt này cũng thấy qua văn hóa thịt cầy
(Xin đọc Năm chó nói chuyện Ăn thịt chó), người Việt ta sơi thịt chó văn
minh hơn người Tàu nhiều, tuy ăn cầy tơ là đặc điểm chung của Ṇi Bách
Việt.
Mễ phấn
米粉
pinyin là
mĭ fĕn, miến điều
麵條
(giản thể 面条)
pinyin miàn tiáo , Phở ḅ tức Ngưu nhục phấn
牛肉粉
niú ṛu fěn,
Ḿ ḅ tức Ngưu nhục miến
牛肉面niú
ṛu miàn (hay Ngưu nhục lạp miến
牛肉 拉 面
)
Quế lâm
桂林
Gú lín. Lan châu
兰州
Lán zhōu, Giang tô
江苏
jiāng sū
Phở, tức mễ phấn, nhất
định là văn hóa Lạc Việt, tức văn hóa Việt Nam thuần túy, không cha căng
chú kiết chi với pốt tô phơ Pha lăng sa hay hũ tíu Quảng châu. Món ăn
tinh thần quốc hồn quốc túy, qua nhiều giai đoạn đă biết biến thể để trở
thành của ngon vật báu của nước Đại Cồ Việt! Một trong những biến thể
thiết yếu là dĩa Ớt tươi đầy màu và đầy vị đi kèm phở, không có hắn,
chưa chắc Phở có thể nổi danh cồn cào như ngày nay.
Ông Nguyễn Dư
trong bài luận bàn về Phở đăng trên Chim Việt có tŕnh làng 2 tấm "tranh
dân gian" của Oger (1909). Bức đầu vẽ chú Chệt tóc đuôi sam (đời Thanh)
bán phở ghánh. Chú Chệt này, ngoài dzụ đuôi sam, có thể là công dân tộc
Lạc Việt miệt Quảng tây. Thời Chiêu Thống qua cầu binh bên Tàu, Càn Long
cũng bắt Chiêu Thống và đoàn hộ vệ cạo đầu để tóc đuôi sam. Nồi nước lèo
có mang tên Hàng nhục phấn
行肉 粉
chỉ rơ điểm tương tự Văn hóa nông nghiệp Mễ phấn. Danh tự Phở có thể
là tiếng Việt ta, chứ không phải là diễn âm hay biến thể của chữ phấn
粉.
Cụ mô đó hỉ, học giả
Phạm Quỳnh chớ ai: Truyện Kiều c̣n, nước ta c̣n. Chừ đây cũng c̣n
nhiều chuyện c̣n, để bắt chước mà nói, tỷ như phở c̣n, thịt cầy
c̣n...Huế ta th́ độc nhất: Ớt c̣n là Huế c̣n đó! Tui thương nước
tui, thương truyện Kiều, phở, thịt cầy, Huế, Ớt...thương mấy câu ca dao
đầm thắm thiệt dễ thương của Ớt:
Cũng liều cắn ớt nhai
gừng
Chua cay mặn chát ta
đừng quên nhau
Bước qua vườn ớt hái
trầu
Hỏi thăm lê lựu, măng
cầu chín chưa ?
Trèo lên cây ớt rớt
xuống bụi hành
Ai chẳng ḷng thành,
hành đâm đổ ruột
Ớt cay là ớt Định
Công
Nhăn ngon là loại nhăn
lồng làng Quang (14)
Ai về ăn ổi Định
Quang,
Ăn ớt Vĩnh Thạnh
Ăn măng Truông Dài
(15)
Cụ Khái Hưng có chuyện
Nửa chừng Xuân, tức Hạnh phúc không được trọn vẹn. Tôi đây chỉ ham Ăn
tục nói phét, nên Văn chương th́ cũng...nửa chừng mà thôi!
Gavilan
Springs ngày Ất măo tháng Hai năm Bính Tuất 03/27/2006
Chú
thích
(1) AUBIN, J.M.A.Histoire
de la Nation Mexicaine Depuis le départ d'Aztlan jusqu'a l'arrivée des
Conquérants Espagnols (et au delà 1607). Paris, Ernest Leroux, 1893.
Sách gồm nhiều bài viết bằng thổ ngữ Nahuatil (Mexicaine) của các tác
giả Mễ tây cơ với bản dịch qua Pháp ngữ. Aztlan là xứ sở thần
thoại, nguồn gốc của dân Aztec.
(2) Cumin, Cuminum
cyminum, hột gia vị nhiều ở các xứ Địa trung hải, thực vật thuộc
loại cà rốt.
(3) Tự điển
Oxford English và
Merriam-Webster đều ủng hộ viết Ớt là "pepper". Chữ pepper thông
dụng trong các sách Thực vật học Anh ngữ và các sách ăn nhậu.
(4) Capsaicin, hóa
chất C18H27NO3, người Tàu dịch là
lạt tiêu tố 辣椒 素
, tất nhiên không thỏa đáng
lắm. Trong Capsaicinoids hai chất cay là Capsaicin và
dihydrocapsaicin và các chất khác ít hay không cay,
nordihydrocapsaicin,
homodihydrocapsaicin, và
homocapsaicin. Khi pha dung dịch để đo độ cay SHU, ppm của
Capsaicin thường trộn Capsaicin lẫn với Capsaicinoids.
(5) Xin thêm vài chi
tiết về các loại Ớt. Ớt bị, ớt cà chua, ớt chuông, ớt chuối,...quả
to tṛn màu vàng hoặc đỏ (Capsicum annuum). Ớt cựa gà, ớt tây
quả vàng, h́nh tṛn hơi dài. Ớt hiểm, ớt hạt tiêu, ớt mọi, ớt rà...
quả nhỏ, nhọn đầu màu đỏ. Ớt sừng trâu, sừng ḅ,...quả to, dài,
màu đỏ, dạng cong như sừng trâu sừng ḅ.
(6)Lizzie Collingham:
Curry, A Tale of Cooks and Conquerors. Oxford University Press, February
2006.
(7) Hồ nam là quê của
Mao xếnh xáng, ông này là Vua ăn ớt nổi tiếng.
(8) Ḍng Tên có những
tiếng lóng nhà nghề, gọi một cơ sở truyền giáo ở một nước nào đó là
Tỉnh Province, ông xếp cơ sở này gọi là Provincial (giống
như tỉnh trưởng!), ông xếp của các ông xếp, ngụ tại La mă, gọi là Đại
tướng, le Général. Ông này có thời rất mạnh ở ṭa thánh Vatican,
nên được gọi là Giáo hoàng đen (le Pape Noir, v́ mặc áo
soutane đen), để phân biệt với Giáo hoàng thật, chỉ mặc áo trắng!
Ḍng Tên được gọi là Société des Jésuites, l'Ordre des Jésuites, la
Compagnie de Jsésus. Muốn hiểu chuyện lên voi xuống chó của Ḍng Tên xin
đọc Jean Lacouture, Les jésuites - T.I Les conquérants.
(9) Hai chữ Đàng Trong
Đàng Ngoài đuợc người Bồ đào nha đặt ra. Viết Đàng Trong là "Cochinchine",
do chữ Kochi là tên người Mă lai và Nhật bản gọi nước Việt Nam
ta, rồi thêm vào chữ "Chine" để phân biệt với Cochim là một thành phố ở
Ấn độ (Cochin), tên này tưởng là áp dụng cho toàn nước Đại Việt thời Lê,
nhưng vào chính thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Cochinchine về sau được
hiểu là vùng đất của chúa Nguyễn. Vùng đất chúa Trịnh phía Bắc, người Bồ
đào nha gọi là vương quốc Tunquim, tức Tonkin (do chữ Đông
kinh) một chữ Hán việt có nghĩa là kinh đô miền đông. Thực dân Pháp sau
xài 2 chữ này cộng thêm Annam, gọi 3 miền bị Pháp phân chia để đô hộ.
(10) Le Portugal et
la romanisation de la langue vietnamienne. Faut-il réécrire
l'histoire? Roland Jacques 2006.
(11) Dictionnarium
annamiticum, lusitanum et latinum, Rome, S.C. de Propaganda Fide,
1651; Catechismus pro ijs, qui volunt suscipere Baptismum, in octo
dies divisus. Phép giảng tám ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội Mà
Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời, Rome, S.C. de Propaganda Fide, 1651.
(12) Robert Parker,
Bob, gốc gia đ́nh nông nghiệp ở
Baltimore, Maryland, càng ngày càng nổi danh trên thế giới là nhân
vật hiểu biết nhiều, phê b́nh và xếp hạng (Oenologuevà
Wine critic) Rượu nho Pháp và Cali. Bob có người khen rất nhiều,
chê cũng không ít, nhưng là dân Huê kỳ Cờ hoa mà được người Pháp nể
trọng, kính tài, thật là chuyện hi hữu.
François M. A. M. Mitterrand tuyên dương Bob
Chevalier dans l'Ordre National du Mérite (1993), Jacques R.
Chirac phong Bob Chevalier dans l'Ordre de la
Légion d'honneur (1999). Bob tác giả các sách Les Vins de
Bourgogne et du Beaujolais, Les vins de Bordeaux (Editions Solar,
Paris). Tui mong được làm một đệ tử ruột của Bob, túi ngày nghiền
ngẫm Le guide Parker des Vins de France (1995-97 Ed. Solar), Bob
kể Beaumarchais " Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge
flatteur ", không chê trách, sao có tán tụng nịnh hót! Ông ni
thiệt đúng cha tổ nội nghề ATNP.
(13) Tin đồn
McDonald's (âm Hán 麦当劳
mạch đang lao mài dāng láo
) sau khi nghiên cứu thị trường khoái xan
快 餐
,
fast food ở Quế lâm, dẹp bỏ ư
định đầu tư, v́ phở mễ phấn ở đây vừa ngon vừa rẻ, mỗi tô giá chỉ
1.50-2.0 元
Yuán (tức Rimimbi RmB), khoảng US$
0.25 hay Euro 0.20, cụ Mac không cạnh tranh nổi.
Khoái xan快餐
kuài can; Khoái: Sướng
thích, như khoái hoạt 快活
, mau chóng. Xan: Ăn,
không có công mà ăn lộc gọi là tố xan
素餐
(14) (15) Tui không biết
Ớt Định công và nhăn lồng làng Quang ở mô, ai biết xin chỉ dùm. Định
Quang, Vĩnh Thạnh, Truông Dài th́ huộc huyện B́nh Khê, nay là huyện Tây
Sơn tỉnh B́nh Định.
***
Phụ
Đính
NGƯỜI VIỆT GỐC ỚT
Hoàng Lăo Tà
|
Tui là dân Huế chay tức là
Huế 100%, Huế từ trong ra ngoài, Huế đến nỗi ra Bắc vào Nam, lên vùng
cao nguyên tắm đủ sông hồ ao lạch mà cũng không gột rửa được chất Huế
trong người.
Rồi một sáng một chiều
theo với gịng người "di tản buồn", tôi đến cư ngụ trên xứ Cờ Hoa văn
minh hết xảy này mà chất Huế vẫn c̣n tồn tại thâm căn cố đế trong người
dù mỗi ngày cố gắng tắm một lần bằng nước ấm như ngày nào trên quê hương
yêu dấu vào mùa Đông mưa dầm thối đất thối đai. Tôi dùng chữ "cố gắng"
v́ chẳng hiểu sao tôi rất lười tắm v́ đă có lần tui thử không tắm gội
trong suốt một tuần mà cũng chẳng thấy người bốc mùi thơm, thúi ǵ hết
cả. Do đó tui tự nghĩ thầm tắm hay không tắm th́ cũng như nhau chẳng
được lợi ích ǵ, chẳng làm nên tích sự ǵ. Lại nữa, tui nhớ cách đây
cũng khá lâu, trong lúc trà dư tửu hậu, chuyện tṛ với một ông bạn của
ông Nội tui, tuổi ngoài tám mươi, Bố tôi mới hỏi :
- Thưa Bác , Bác có bí
quyết ǵ để giữ chữ thọ cho đến bây giờ không?
Ông Cụ vuốt râu cười khà
khà:
- Bác rất ít tắm con à!
Tắm th́ lỗ chân lông nở lớn nên vi trùng dễ xâm nhập vào người, v́ vậy
suốt mùa Đông, Bác không tắm, chỉ dùng khăn thấm nước lau sơ ḿnh mẩy
cho khỏi hôi thúi mà thôi.
Ông nội tui, tuổi lúc
bấy giờ cũng trên tám mươi đă ph́ cười mà bảo rằng:
- Tui khác ông , mùa Hè
cũng như mùa Đông, một ngày phải tắm một lần, một lần phải mất ít nhất 1
tiếng đồng hồ để kỳ cọ, xoa nắn các huyệt đạo cho máu huyết lưu thông
Hai
ông Cụ, ông nào cũng quy tiên lúc tuổi hạc đă ngoài chín mươi, ông nào
cũng có lư khi bàn đến bí quyết sống lâu , rất chi là khoa học. Vậy tui
phải nghe theo lời của ai bây giờ ? Sang Mỹ, sẵn có nước nóng chảy trong
ṿi, tắm một ngày một lần mà chất Huế trong tui vẫn c̣n nồng cay v́ tui
ăn ớt như nhồng trong ba bữa ăn sáng, trưa, tối. V́ thế, ai hỏi tui quê
quán ở đâu, tui đều trả lời một cách hănh diện rằng tui là người Việt
gốc ớt. Câu trả lời thật đầy đủ "thông tin".(Tui dịch chữ "́nformation"
cho có vẻ văn minh thời thượng). Này nhé! người Việt tức là người Việt
Nam không phải Phi Luật Tân hay Miên, Lào, Thái vv...Tui đă nhiều lần bị
mấy ông bà người Phi hỏi tôi có phải là Philippino không. Tức như ḅ đá!
Ḿnh là con Rồng cháu Tiên mà bị nhận lầm là Phi th́ có uất ức không cơ
chứ? Chắc là tại tui xấu trai , thô kệch.! Dân Phi nghe tui phát biểu
như thế này chắc là kiện tui ra toà, buộc tội mạ lỵ dân tộc. Các bạn có
biết không, mấy cô, mấy bà Phi lai Tàu đẹp lắm các bạn ơi ! Rồi th́ "gốc
ớt" là biết ngay nơi chôn nhau cắt rún của tui là xứ Thần Kinh chứ c̣n
théc méc ǵ nữa. Gốc ớt là gốc Huế không sai chạy vào đâu được v́ có lần
tui bị một ông bạn hỏi một câu cắc cớ:
- Mi dân Huế, vậy mi có
biết tại sao dân Huế chỉ ăn ớt xanh không mà thôi không ?
Tôi gân cổ căi lại là
dân Huế tui ăn đủ mọi thứ ớt: ớt xanh, ớt đỏ, ớt tím, ớt vàng, ớt chỉ
Thiên, ớt chỉ Địa, ớt ch́a vôi, ớt hiểm, ớt mọi, ớt bột, ớt trái tươi
cắn ḍn tan, chứ làm ǵ mà lại chỉ ăn ớt xanh. Ớt xanh là ăn với bánh
bột lọc để hài hoà với màu đỏ của con tôm nằm nữa kín nữa hở trong lớp
bột lọc. Ăn như thế là ăn kiểu cầu kỳ của các Mệ chứ thật ra ớt nào cay
th́ ăn chứ đâu kể màu sắc. Ông bạn tui để cho tui nói cho sướng lỗ miệng
rồi mới ung dung giải thích:
- Mi thật là dân Huế mất
gốc, không biết chi mô hết ! Dân Huế ăn nhiều ớt quá đến nổi ớt không
kịp chín đỏ nên chỉ ăn toàn ớt xanh. Có rứa mà cũng không biết !
Ui chui choa, tui khoái
quá trời khi nghe ông bạn tui ca tụng cái "đức" ăn ớt của quê hương tui.
Tui chỉ muốn ôm hun ông ta một miếng để thưởng ông ta mà không dám, v́
sợ bàn dân thiên hạ tưởng tui là dân "Gay" vừa mới từ San Francisco
xuống quận Cam chơi.
Nói
đến ớt th́ phải nói đến cái món ăn "quốc hồn quốc tuư" của Huế tui là
món bún ḅ. Ai cho tui ăn bún ḅ mà bảo tui đừng ăn ớt th́ thà chết c̣n
hơn. Thiệt là chưởi Cha tui, tui cũng không giận bằng! Ớt phải cay xé
họng mới làm cho bún ḅ ngon được! Ăn bún ḅ Huế chính gốc là phải vừa
ăn vừa hít hà v́ ớt cay, phải đổ mồ hôi trán, tuôn mồ hôi nách (V́ vậy
mà dân Huế ai cũng có một chai Lotion Kata, trị mồ hôi nách bỏ trong túi
quần để xài mỗi khi ăn xong tô bún ḅ Huế. Tui nói rứa mà ai không tin
tui th́ thôi). Ăn bún ḅ Huế là chỉ dùng đũa chứ không dùng muỗng , phải
húp xùm xụp mới đúng phong cách Huế. Muỗng chỉ dùng khi ăn phở Bắc Kỳ mà
thôi. Cầm muỗng để ăn bún ḅ Huế là chưởi Cha cái tô bún ḅ Huế mất rồi!
Mùa Đông ở Huế không có ớt tươi v́ quư hiếm lắm: "Ớt mùa Đông ba đồng
một trái" nên phải ăn ớt bột hay tương ớt hay ớt ngâm dấm nên v́ vậy mà
mùa Đông, tô bún ḅ Huế đă không ngon bằng tô bún mùa Hè.Trời đă "nóng
nung người, nóng nóng ghê" (Trong Quốc văn giáo khoa thư, mô tả mùa Hè)
thế mà lại c̣n ś sụp tô bún ḅ Huế ớt cay chảy nước mắt, nước mũi, th́
thật là ngon không để mô cho hết. Ngon như rứa th́ thôi! Tôi mời ai ăn
bún ḅ Huế mà mặt cứ lạnh như tiền, ăn một cách ung dung, nhàn hạ không
"khẩn trương" chê ớt không ăn , không thấy một giọt mồ hôi trên trán th́
đừng có ḥng được tui mời ăn lần thứ hai. Ăn như vậy là "thực bất tri kỳ
vị" là không kính trọng tô bún ḅ là khinh thường dân Huế tụi tui. Lúc
tui c̣n ở Bloomington, tiểu bang Indiana, tui có anh bạn trẻ người miền
Nam, Saigon hay đâu đó tôi quên mất tiêu. Anh ta khoái bún ḅ lắm ! Mỗi
lần đến nhà tui ăn bún ḅ, anh hít hà liền miệng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại,
anh tham dự hết ḿnh vào "công cuộc" ăn bún ḅ làm tôi thích thú quá
chừng, xem anh ta như bạn tri kỷ, tri âm vậy.
Ngoài món bún ḅ bắt
buộc phải có ớt lại c̣n một món ăn khác mà ớt cay đóng một phần tối ư
quan trọng. Ấy là món "Cơm Hến". Người ta đă nói lạt như nước ốc, nước
hến, vậy th́ để bổ sung cho cái "lạt" đó chỉ có cái "cay "của ớt. Không
có ớt là tô cơm hến xem như bỏ đi chẳng đáng một đồng xu. C̣n nhiều món
ăn đặc sệt Huế nữa như bánh bột lọc, bánh nậm, bánh ướt nhuỵ tôm, bánh
ram bánh ít, cơm dấm nuốt vv...không món ăn nào là không có ớt đi kèm,
dĩ nhiên là không ăn chè hạt sen hồ Tịnh Tâm cùng với ớt. Nhưng Mẹ tui
lúc sinh thời, Bà ăn mít ráo ngọt lịm và ḍn tan như rứa mà Bà cũng chấm
múi mít vàng ươm vào trong chén nước mắm ớt cay. Mùi vị dĩ nhiên là có
khác đi nhưng hương vị cũng độc đáo lắm, các bạn cứ thử xem một lần cho
biết ra răng.
Ớt
gắn liền với Huế của tụi tui nên sở dĩ tui phải nấn ná ở lại với quê
hương gần 10 năm, sau 1975 là v́ tui sợ qua Mỹ không có ớt mà ăn. Tui ăn
ớt như nhồng! Tui c̣n nhớ lúc c̣n học cấp tiểu học trường làng, ông
ngoại tui có nuôi một con nhồng, mỗi ngày phải cho nó ăn một chén ớt
hoặc tươi hoặc ớt bột. Ăn nhiều ớt để lột lưỡi và nói được tiếng người.
Và quả thật như vậy, sau một thời gian ăn ớt, con nhồng đă nói được. Cậu
tôi đă bị ông ngoại tôi thưởng cho một tát tai là v́ đă dạy cho con
nhồng chào khách chẳng lich sự tí nào. Số là một hôm có khách đến nhà,
ông ngoại tôi đang khoe với khách con nhồng biết nói th́ đột nhiên nó xổ
ra một câu khiến khách phải ph́ cười và thẹn đỏ mặt: "Chào khách toẹt!"
(Khách toẹt là khách chẳng ra ǵ, là chỉ như một món ăn dở, không ngon,
chỉ muốn nhổ toẹt ra khỏi miệng)
Nhồng ăn ớt để lột lưỡi,
để nói nhiều. Như vậy, dân Huế tụi tui ăn ớt nhiều th́ có nói nhiều
không hí ? Ai răng tui không biết chứ tui th́ h́nh như nói không ít mỗi
khi bạn bè bắt đúng tần số của tui. Ông ngoại tui thường mắng tui là:
- Cái thằng ni răng mà
hắn nói không để miệng đâm da non.
Chẳng lẽ ai nói ít th́
miệng nhiều da non hay răng? Tui thực không biết! E là phải nhờ mấy nhà
sinh vật học giải thích cho điều này mới được.
Trên đây tui đă nói đến
cái công dụng của ớt làm chảy nước miếng nhiều và do đó làm thức ăn trở
nên ngon miệng hơn. Nay xin nói về những đặc tính của ớt trên phương
diện y học. Có thời gian tui làm việc ở tỉnh B́nh Tuy gần căn cứ Bốn,
khu Rừng Lá trên đường từ Saig̣n ra Phan Thiết, tui có dịp tiếp xúc với
các giáo viên dạy học vùng Rừng Lá này. Họ ăn ớt nhiều đến nổi tui từng
tự phụ là người Việt gốc ớt mà cũng phải ngả mũ ra chào thua. Họ nhậu
rượu đế đổ trong thau nhựa trộn chung với nước ngọt xá xị và mồi nhấm
rượu chỉ là môt mâm trái cóc và một tô muối ớt, ớt nhiều hơn muối. Họ ăn
ớt không những để món ăn khoái khẩu hơn mà c̣n dùng ớt như một phương
thuốc trị bênh sốt rét v́ người nào cũng bị chứng bệnh này hành hạ và
chỉ nhờ có ớt mà căn bệnh thuyên giảm dần dần. Chắc các bạn đă từng nghe
hai câu thơ nói về Rừng Lá:
Ngày anh đi, rừng em
chưa xanh lá
Ngày anh về rừng lá đă
xum xuê
Và hai câu thơ đối lại:
Ngày em đi, anh c̣n
như trái ớt
Ngày em về th́ ớt lớn
bằng khoai.
Mới đây, tôi lại đọc
được mẫu tin loan báo đại học UCLA và các khoa học gia người Nhật vừa
khám phá ra ớt trị được căn bênh ung thư tiền liệt tuyến. Các tế bào ung
thư đă bị chất cay của ớt tiêu huỷ dần dần. Thật là một tin mừng gây
phấn khởi cho những con dân gốc Huế.
Trong cảnh Cali mưa buồn
nhớ mùa mưa xứ Huế, tôi thèm ăn một tô bún ḅ với ớt cay xé họng và tôi
lẩm cà lẩm cẩm nghĩ rằng không biết ai là người đầu tiên t́m ra cây ớt
trong rừng cây nhiệt đới và ai là người đầu tiên nếm thử trái ớt. Không
biết lúc bấy giờ người đó có nhảy nhỏm người lên v́ vị cay xé nồng của
ớt và có lo cuống cuồng v́ sợ ăn nhằm chất độc không. Nếu biết được vị
tiền nhân nào t́m ra và nếm trái ớt đầu tiên trên trần thế th́ tui sẽ
xin bàn dân thiên hạ tôn ông ta là vị Thần Bếp hay nói văn hoa Hán(g)
rộng th́ ông ta thật xứng đáng được phong làm Trù Thần trên cỏi thế.
Hoan hô ớt !