TỤC NGỮ
CA DAO
VỀ NGÀY
TẾT NGUYÊN ĐÁN
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
Chuyện xưa kể
rằng: Vào một thời xa xưa lắm, người đang sống yên ổn thì một
bầy quỷ dữ đến xâm lăng. Chúng dùng mưu mô quỷ quyệt chiếm hết
đất đai, tài sản của người. Người thành kẻ làm công cho quỷ.
Người trồng lúa, quỷ chia cho người phần gốc, quỷ lấy phần
ngọn. Thấy người khổ quá, Phật hiện ra giúp kế. Theo điều
kiện đã được giao ước đúng như lời Phật dặn, người trồng khoai
lang. Đến mùa thu hoạch, quỷ lấy phần ngọn chỉ có dây và lá,
người lấy phần gốc, củ chất đầy nhà. Quỷ lại đặt điều kiện:
quỷ ăn phần gốc và ngọn, người ăn phần giữa. Lại theo lời
Phật dặn, người trồng bắp. Đến mùa, người lấy hết trái, quỷ
chẳng có gì để ăn. Quỷ thua bèn đòi lại đất. Phật khuyên
người nên xin quỷ bán cho mình một mảnh đất bằng bóng của một
chiếc áo cà sa. Quỷ bằng lòng. Phật bảo người trồng một cây
tre rồi máng chiếc áo cà sa lên ngọn. Phật hóa phép làm cây
tre cao mãi, cao mãi đến tận trời và bóng chiếc áo cà sa lan
xa càng lúc càng rộng. Quỷ phải dắt dìu nhau chạy ra ngoài
bóng râm của chiếc áo. Cuối cùng quỷ bị đuổi ra mãi ngoài
tận biển Đông. Người lại làm chủ vùng đất của mình. Từ đấy,
quỷ xin với Phật hàng năm cho vào đất liền để thăm mồ mả tổ
tiên. Phật bằng lòng cho quỷ vào đất liền nhân ngày Tết Nguyên
đán của người. Phật dặn người nên trồng cây NÊU trước nhà vào
những ngày này để cho quỷ không thể xâm phạm đến người.
Trên đây
là sự tích cây nêu ngày Tết của ta. Thế nên ca dao ta có câu:
Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau tới Tết dựng NÊU ăn chè.
Trong
tâm thức của dân tộc Việt, cây nêu là biểu trưng của sức
mạnh tinh thần Việt chống lại sức phản động của cái ác
(quỷ). Cây nêu cũng biểu hiện quyền lực của mỗi gia đình
trong làng xã ngày xưa:
Thứ nhất nêu cao,
Thứ nhì pháo kêu.
Nhà có
cây nêu cao là nhà giàu sang quyền quí. Tràng pháo nổ giòn và
đều là báo hiệu điềm tốt cho gia chủ.
“Trông
mau tới Tết dựng nêu ăn chè” chỉ là tâm trạng trẻ con bởi
lẽ chỉ có trẻ con mới mong chóng tới Tết để được “ăn ngon mặc
đẹp” còn đối với người lớn, Tết đến là cả một nỗi lo :
Tết đến sau lưng
Ông vải thì mừng
Con cháu thì lo.
Quả
vậy, vào những ngày năm cùng tháng tận, đa số dân ta lo lắng
đủ điều. Nào là nợ nần chưa trang trải. Nào là công việc chưa
hoàn thành. Nào lo sắm sửa cho 3 ngày Tết. Nào lo sửa sang nhà
cửa để đón Xuân . . .
Đời
sống của người nông dân ta ngày trước không phải là dễ dàng vì
phương pháp canh tác cổ truyền, mọi việc phần lớn như còn tùy
thuộc vào sự định đoạt của Trời. Cuộc sống tuy có muôn vàn cơ
cực, ăn buổi hôm lo buổi mai, thế nhưng việc tiêu tốn cho 3 ngày
Tết lại không thể dè xẻn được. Thế nên có nhiều gia đình đã
phải chịu cái cảnh:
Đi cày ba vụ
Không đủ ăn ba ngày Tết!
Tết
đến, trăm vạn nỗi lo quấn quít trong đầu, thứ nhất là lo nợ
nần chưa trang trải:
Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không an.
Thật
là trớ trêu. Tiền không có mà tiếng còi của gánh hát Quảng
Đông lại quyến rũ, thúc dục. Về nhà thì nợ đòi. Mà nợ đòi
thì nguy lắm. Các chủ nợ có lệ cuối năm giằng thúc con nợ,
cố đòi cho được số tiền đã cho vay, dù rằng đòi được tiền về
để đấy. Người ta cho rằng, nếu không đòi được tiền trước giao
thừa, ngày hôm sau, món tiền nợ đã ra nợ cũ, và ngày Mồng
một đầu năm và những ngày sau nữa, người ta không dám đòi nợ,
vì con nợ kiêng sợ giông.
“Tục
lệ như vậy nên cái ngày tất niên nầy, những người có nợ làm
ăn kém may mắn, không có tiền trả mà phải khất chủ nợ không
chịu, đành phải đi trốn nợ đến lúc giao thừa mới trở ve”.(1).
Tục
ngữ lại có câu:
Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu có Ba mươi Tết mới hay.
Hoặc
là:
Có, không: mùa Đông mới biết
Giàu nghèo: Ba mươi Tết mới hay.
Trên đây
là những quan sát thực tế của người bình dân ta ngày xưa. Kẻ
khôn ngoan là kẻ khéo biện bạch trước cửa quan (tức cơ quan
chính quyền hàng Xã, Tổng, Huyện...) để giành lẽ phải về
mình. Mùa Đông là mùa giá rét. Nhiều công việc làm ăn hầu như
đình trệ. Đây thường là khoảng thời gian đem lương thực dự trữ
ra để ăn. Nhà giàu có của dự trữ nên không lo. Nhà nghèo phải
đi vay từng đấu gạo. Đến ngày giáp Tết, nhà giàu sắm sửa ề
hề, dân nhà nghèo đôi khi còn phải lo trốn nợ. Thế nên dù ai
có tài khoe mẽ đến đâu, đến ngày giáp Tết là người ta biết
hết, không thể nào giấu giếm được.
Ngoài
những ngày kỵ giỗ bình thường để con cháu tưởng nhớ đến ngày
từ trần của người đã khuất, hàng năm người Việt ta còn có lệ
Chạp mả, tất cả mồ mả của giòng họ đều được giẫy cỏ sạch
sẽ vào tháng Chạp để sửa soạn mời gia tiên về ăn Tết với con
cháu. Cũng có nơi để sang tháng Giêng mới giẫy mả.
Đi đâu mặc kệ đi đâu
Đến ngày giỗ chạp phải mau mà về.
Con
cháu không thể bỏ được ngày giỗ chạp bời vì “con cháu muốn
tròn đạo hiếu với tổ tiên thì những ngày kỵ Chạp, Tết nhứt
phải cúng cấp tử tế. Những người bỏ giỗ bỏ Tết là bất hiếu
chi cực”. (2)
Bỏ sêu
Tết kỵ Chạp là một điều bất hiếu. Vì thế đã có cô gái
trách cứ vị hôn phu của mình một cách nặng nề:
Chiều Ba mươi anh không đi Tết,
Rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ,
Hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công.
Lạy
bàn thờ gia tiên quả một điều hệ trọng. “Về Tết Nguyên đán,
từ ngày 29 tháng Chạp, gia trưởng phải làm lễ Rước Ông Bà.
Trong 3 ngày Tết, suốt đêm ngày lúc nào cũng có hương đèn và
lễ vật để cúng tổ tiên. Đến chiều Mồng 3 hay sáng Mồng 4 thì
làm lễ Đưa Ông Bà để đốt vàng mã cúng trong 3 ngày Tết”.
(3).
Lạy
bàn thờ gia tiên vào 3 ngày Tết là một nghi lễ không thể thiếu
của con cháu đối với những người đã khuất. Thế nhưng, khi bị
vị hôn thê trách cứ, người con trai đã khéo biện bạch cho sự
vắng mặt của mình bằng một lễ nghi có vẻ còn quan trọng hơn:
lo việc họ, việc làng.
Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ
Sáng mồng Một anh bận việc làng,
Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!
Đến
ngày Tết, con cháu dù làm ăn ở đâu cũng cố tìm cách về nhà
để ăn Tết, mừng tuổi ông bà cha mẹ. Con cái dù đã lập gia
đình ra ở riêng cũng đem con cái về thăm và chúc Tết cha mẹ
mình:
Mồng một Tết cha
Mồng ba Tết thầy.
Hay :
Mồng một thì ở nhà cha,
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
Lệ tết
thầy của ta ngày xưa thật đẹp. Đó là tinh thần “tôn sự trọng
đạo”, là tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”. Học trò học
nghề hay học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy
trò. Học trò phải kính trọng thầy, quý mến thầy mà nhất là
thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.
“Lúc
học, gặp khi mồng Năm ngày Tết như: Tết Nguyên đán, Thanh minh,
Đoan ngọ, Trung thu, ... mùa nào thức nấy, hoặc cặp gà thúng
gạo, đường mứt bánh trái hoặc năm ba quan tiền, tùy tình đa
thiểu mà đem đến lễ thầy”.(4).
Trong
các tục lệ về ngày Tết, ta có tục xông đất hay xông nhà đầu
năm. Theo tục lệ nầy, có nhiều người tin rằng, có người vía
xấu đến xông đất nhà nào (tức là người đến chúc Tết đầu
tiên) nhà đó sẽ gặp điều xui xẻo quanh năm. Vì thế, “nếu
không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ
một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm
ngày mồng Một Tết đến xông nhà, trước khi có khách đến chúc
Tết, để người này đem sự dễ dãi may mắn lại”. (5).
Do tục
lệ nầy, vào sáng Mồng một Tết ít người dám ra khỏi nhà để
đi thăm bà con láng giềng, sợ mình sẽ đem điều xui xẻo đến cho
người khác. Cũng do tục lệ nầy, người ta rất sợ những kẻ
“mang tiếng không tốt” đến xông nhà mình. Ơ đất Hà thành vào
những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có hai nhân vật trào
phúng nổi tiếng, một cặp bài trùng mà những tay có máu mặt
thời bầy giờ đều ngán, đó là Ba Giai và Tú Xuất. Hai nhân vật
này mang tiếng là hay chòng ghẹo và phá phách thiên hạ. Vì
thế người ta đã hù dọa nhau:
Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết Ba Giai đến nhà.
Đa số
dân ta sống bằng nghề nông. Hàng năm, nhiều nhà dâng lễ cúng
đất, còn gọi là lễ “tạ thổ kỳ yên” vào những ngày đầu năm. Ơ
vùng đồng bằng sông Cửu Long, lệ cúng đất được thực hiện vào
ngày ngày 10 tháng Giêng:
Mổng chín vía Trời
Mồng mười via Đất
Ngày
vía đất có lệ cúng đất. “Ơ nhà quê miền Nam, đến ngày 10
tháng Giêng người nhà nông làm lễ cúng đất. Nghi lễ rất giản
dị. Nhà khá giả thì dọn mâm cơm có gà vịt đem ra ruộng cúng
rồi cùng nhau ăn uống tại chỗ. Ơ nhà thì dọn lễ vật ra cúng
tại bàn thờ Thổ Địa đặt trong nhà. Lễ vật cũng đơn giản: con
gà, miếng thịt hoặc rút gọn chỉ còn bộ tam sên với dĩa gạo,
muoi”. (6).
Trong 3
ngày Tết ta có lệ chúc Tết. Con cháu chúc Tết ông bà cha mẹ,
ông bà cha mẹ chúc Tết lại con cháu; bà con quên đi mọi ghen
ghét, giận hờn; hề gặp nhau là gửi lời cầu chúc tốt đẹp cho
nhau:
Nay mừng tứ hải đồng xuân
Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình.
Sĩ thời chăm việc học hành,
Một mai khoa bảng để dành công danh.
Công
thì phượng các long đình
Đủ
nghề sư khoáng, rứt nghề công thâu.
Nông
thời cuốc bẫm cày sâu,
Thu
hòa hạ mạch, phong thâu có ngày.
Thương thời buôn bán liền tay
Rứt
tài Tử Cống ai tày cho đang!
Ơ miền
Bắc có tục hát “xúc xắc xúc xẻ” để mừng Tết ngay vào đêm
giao thừa. Một đoàn trẻ con gồm chừng 10, 15 em tay cầm ống
bương đựng đồng tiền kẽm. Ngay từ lúc chạng vạng, bọn trẻ lũ
lượt kéo đến từng nhà để mừng gia chủ sang năm mới gặp nhiều
điều may mắn với lời hát mừng đầy ắp những điều tốt đẹp:
Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở
cửa cho chúng tôi vào
Bước lên giường cao: Có đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp: Có đôi rồng chầu
Bước ra đằng sau: Có nhà ngói lợp
Ngựa ông còn buộc
Voi
ông còn cầm
Ong
sống một trăm linh năm tuổi lẻ
Vợ
ông sinh đẻ
Những con tốt lành
Những con như tranh
Những con như đối...
Ơ một
số địa phương lại có tục “hát sắc bùa” vào ngày Tết. Thông
thường hát sắc bùa do phường sắc bùa hát theo điệu dân ca sắc
bùa của từng dịa phương. Có một số địa phương lại kết hợp
múa sắc bùa với hát sắc bùa thành một vũ điệu dân-gian đầy
quyến-rũ như ở một số xã miền biển quận Đức Phổ, tỉnh Quảng
Ngãi. Phường sắc bùa còn có những bài hát riêng cho từng nghề
nghiệp: buôn bán, nông tang, canh cửi . . . :
Thánh
chúa vạn niên.
Thánh
chúa vạn niên!
Chúng
tôi nay dâng cách đội đèn
Thái
hòa gặp tiết xuân thiên
Gió
đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng
Trong
nhà ta đèn thắp sáng trưng
Song
le còn muốn chơi trăng ngoài thềm
Để
cho ấm ngoài êm...
Vào sáng Mồng một Tết, một số chức sắc trong
làng từ Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lý trưởng, Trương tuần cùng các bô
lão đều tề tựu về đình làng để tế cáo thần linh bản thổ và
thần Thành hoàng. Trong ngày gặp mặt đầu năm ở nơi linh-thiêng
này, quý chức sắc của làng đều dâng lời cầu nguyện xin Thành
hoàng và thần-linh bản-thổ phù trợ cho dân làng sang năm mới
được vạn sự như ý:
Chúc
mừng thượng đẳng tối linh
Phù
trì dân xã hiền-vinh sang giàu
Trước đình lại có rồng chầu
Có
đôi qui phụng tựa màu non tiên
Giữa đình có đấng bát tiên...
Trong
những hội Xuân đầu năm, làng thường tổ chức các hội hát nam
nữ như: hát đúm, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ...
Thường vào cuộc hát, người khởi xướng thường hát những lời
chúc tụng tốt đẹp:
Tới
đây viếng cảnh, thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân.
Sau
nữa tôi mừng cả làng tuần
Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy
Một
mai đàn có bén dây
Ơn
dân vạn bội biết ngày nào quên!
Vào 3
ngày Tết, các làng thường tổ chức các trò chơi tại sân đình,
sân chùa hay một khoảng đất trống nào đó để dân làng tụ tập
vui Xuân. Các trò chơi thông thường gồm có: cờ người, tổ tôm
điếm, đánh đu, ném cầu, chọi gà, đô vật, ... Ngoài dịp Tết
Nguyên đán, các làng còn tổ chức hội Xuân vào các ngày Thần
kỵ tức ngày húy kỵ của vị Thành hoàng của làng. Các lễ hội
này thường được tổ chức vào mùa Xuân hay mùa Thu vời nhiều
trò chơi đặc biệt hơn.
Ngoài
địa điểm chính nêu trên, dọc theo đường làng dưới bóng các lũy
tre hay cây đa, cây bàng, người ta thấy tụ tập từng 5, 7 người,
có nơi 10, 15 người để chơi các trò cờ bạc như xóc dĩa, đánh
đáo...
Mồng một chơi cửa chơi nhà,
Mồng hai chơi xóm, mùng ba chơi đình.
Thực
ra, các nơi vui Xuân không phận biệt ra từng ngày rạch ròi như
trên mà còn tùy thuộc vào từng hạng người, từng lứa tuổi.
Phần lớn các người đứng tuổi thích tụ tập về sân đình, sân
chùa để thưởng thức các trò vui Xuân, lớp con cháu lại thích
tụ tập ở các nơi xóc dĩa, bầu cua, đánh đáo...
Một số
tỉnh thuộc miền Trung Trung phần, ngoài các trò chơi như xóc
dĩa, bầu cua, đánh đáo, ... còn có thú chơi bài chòi:
Rủ nhau đi đánh bài chòi
Ơ nhà con khóc nó lòi rún ra.
Đây là
một hội bài chòi được nhà văn Võ Phiến thuật lại theo tài
liệu của nhà thơ Quách Tấn:
“Trên
một khoảnh đất, dựng lên 9 cái chòi. Các chân bài, mỗi chân
chiếm một chòi. Người ta dùng bộ bài Tam Cúc 27 cặp, đem mỗi
lá bài dán vào một thẻ tre. Bộ bài chia ra làm đôi: một nửa
bỏ vào ống do người hô hiệu giữ, một nửa đem phân phối cho 9
chòi, mỗi chòi 3 lá. Lúc vào cuộc, anh hiệu rút bài trong ống
ra, hô lên, chòi nào trúng lá ấy thì gọi hiệu đem lại. Khi có
một chòi trúng đến lá thứ 3 là xong một ván. Người hô hiệu
thu hết bài, trộn nhau, rồi lại phát ra mỗi chòi 3 lá để bắt
đầu lại ván khác. Cứ thế cho đến 8 ván là mãn hội” (7).
Phần
lớn những người thích chơi bài chòi là thích cái điệu hô đặc
biệt gọi là hô bài chòi của các tay hô hiệu.
Nói
đến Tết mà không nhắc đến các phiên chợ Tết là cả một điều
thiếu sót. Chợ Tết có thể là những phiên chợ cuối năm bày
bán các hàng Tết từ đồ cúng tế, hoa quả đến quần áo và đồ
chơi trẻ con. Chợ Tết cũng có thể là những phiên chợ đầu năm
họp lấy hên và thường được tổ chức các trò vui Xuân cùng với
việc bày bán hàng Tết. Có những phiên chợ Tết mỗi năm chỉ
họp một lần:
Bỏ
con bỏ cháu,
Không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên
Bỏ
tổ bỏ tiên
Không ai bỏ chợ Viềng mồng tám.
Đây là
hai phiên chợ Tết đặc biệt của Nam Định xưa: chợ Yên mỗi năm
chỉ họp một phiên vào ngày 26 tháng Chạp. Đây là một phiên chợ
Tết thật sầm uất với đầy đủ mặt hàng Tết cho người lớn và
trẻ con, quy tụ khá đông đảo người quanh vùng về mua sắm.
Chợ
Viềng lại họp vào ngày 8 tháng Giêng. Tương truyền ngày xưa ở
Nam định có đến 3, 4 chợ cùng mang tên chợ Viềng. Chợ Viềng
chính nằm ở xã Kim thái, huyện Vụ bản; họp phiên đầu năm vào
mùng 8 tháng Giêng, quy tụ dân quanh vùng. Dân vùng này tin rằng
buôn bán vào ngày nầy sẽ gặp may mắn quanh năm. Do đó, nếu gặp
những ngày có mưa gió, lại gặp đò ngang cách trở, dân buôn tự
động họp chợ ở một nơi nào đó để buôn bán gọi là “lấy
ngày”, cầu may cho cả năm. Thế là một phiên chợ Viềng mới được
thành hình. Sau phiên chợ họp lấy may đầu năm đó chợ không còn
để lại một dấu vết nào. Năm sau hoặc những năm sau nữa, nếu
lại gặp trở ngại như trên, dân buôn quanh vùng lại hình thành
một chợ Viềng khác, có thể là ở vùng đất năm trước hay một
nơi nào khác. Những phiên chợ Viềng này mỗi năm chỉ họp một
lần thôi.
Ơ kinh
đô Huế có chợ Gia Lạc, mỗi năm cũng chỉ họp có một phiên:
Gia
Lạc chỉ mở ngày Xuân
Quanh năm, suốt tháng khó lần tìm ra.
Gia Lạc
là một phiên chợ đặc biệt gần thôn Vĩ Dạ, hằng năm chỉ họp
vào mấy ngày Tết: từ 29 tháng Chạp đến mồng 3 Tết. Tương
truyền đây là phiên chợ đặc biệt do vị hoàng tử thứ 4 của Vua
Gia Long là Nguyễn Phúc Bính cho lập vào 3 ngày Xuân trên một
khoảnh đất rộng gần phủ đệ của ông để cho các người trong
hoàng phái đến sắm hàng Tết và vui Xuân như đánh bài chòi, đổ
xăm hường, đánh đáo lỗ... Chợ tập trung được nhiều mặt hàng
Tết nhất là đồ chơi cho trẻ con do dân các phủ huyện lân cận
sản xuất và mang về bán. Dần dần về sau dân quanh vùng cũng
được tham dự trong các sinh hoạt của phiên chợ Tết này và mỗi
năm chợ cũng chỉ họp vào 3 ngày Tết mà thôi.
Ơ tỉnh
Vĩnh Yên có phiên chợ Dưng cũng rất nổi tiếng:
Bỏ con, bỏ cháu
Không ai bỏ hội mùng 6 chợ Dưng.
Dưng là
tên nôm na của làng Văn Trưng thuộc phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên.
Hàng năm làng Văn Trưng mở hội Xuân vào ngàymùng 6 tháng Giêng.
Chợ Dưng tọa lạc gần đình làng Dưng và mở phiên chợ đầu năm
cũng vào mùng 6 tháng Giêng. Vừa gặp ngày hội Xuân, vừa gặp
phiên chợ đầu năm nên chợ Dưng vào ngày này thật đông đúc.
Ngoài việc buôn bán lấy may, dân chúng còn được thưởng thức
các trò vui Xuân, đặc biệt là trò chơi trai gái bắt chạch trong
chum.
Ơ huyện
Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Cầu Quan cũng thật
hấp dẫn. Chợ Cầu Quan, dân quanh vùng quen gọi là chợ Thượng,
họp chợ ngay bên bờ một con sông đào từ thời nhà Lê vào dịp
đầu Xuân. Dân chúng vừa đi chợ Tết vừa xem đua thuyền rồng:
Cầu Quan vui lắm ai ơi,
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng!
Vùng
quan họ đất Bắc cũng có những phiên chợ Tết nổi tiếng một
thời còn được dân chúng nhắc nhở qua câu ca dao:
Xứ Nam: nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc: Vân Khám, xứ Đoài: Hướng Canh.
Xứ Nam,
xứ Bắc, xứ Đoài là tên gọi nôm na của các tỉnh Hà Nam, Hà
Bắc và Sơn Tây ngày xưa.
Riêng
đất Nam Định còn có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ
của họ một cách thú vị:
Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình.
Mông
bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mùng sáu non Côi.
Qua
ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ
Viềng một năm mới có một phiên
Cái
nón em đội cũng tiền anh mua.
Tết
Nguyên đán là ngày lễ cổ truyền trọng đại của dân tộc Việt
Nam.
Trên đây
chúng tôi đã nêu lên một số tục ngữ ca dao phản ảnh một số
tập tục và hình ảnh quen thuộc của ngày lễ trọng đại đó.
Ngày
nay, vì hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, một phần con dân Việt
phải sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng, dù sống
trong hoàn cảnh nào, châu lục nào, quốc gia nào người Việt ta
cũng vẫn nhớ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc và vẫn tổ
chức những hội vui Xuân một cách trọng thể. Tổ chức vui Xuân
để giử gìn truyền thống Việt và quảng bá phần nào văn hóa
Việt với các sắc dân khác đang cùng sống trên một địa bàn với
chúng ta. Đó là ý nghĩa quan trọng của ngày Tết Nguyên đán mà
chúng ta vẫn thường tổ chức hằng năm.
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
Ghi chú
:
(1) Toan Ánh
Tín Ngưỡng Việt Nam, quyển hạ tr. 327
(2) Đào Duy Anh
Việt Nam Văn Hóa Sử Cương
tr. 204
(3) Lương Đức Thiệp Xã Hội
Việt Nam
tr. 311
(4) Phan Kế Bính Việt
Nam Phong Tục
tr. 154
(5) Toan Ánh Tín
Ngưỡng Việt Nam, quyển hạ tr. 316
(6) Đinh Tiểu Nguyên Tháng
Giêng . . . Thời Luận Xuân Đinh Sửu, 1997
(7) Võ Phiến Bài Chòi
– Đặc San Tây Sơn, Xuân Nhâm Thân, 1992
|