Cà kê chuyện Gà năm Dậu
Đặng
Tiến
Viết từ Orleans - Pháp
Hình tượng con gà có lẽ được
thấy nhiều nhất trong nhiều loại
tranh dân gian như Đông Hồ, Hàng Trống
và Kim Hoàng.
Ngày xưa người ta hay treo tranh Gà với
dụng ý trừ tà, có lẽ v́ con gà gáy sáng,
có khả năng xua đuổi bóng tối và tà ma, mang
lại ánh sáng, b́nh an, tin tưởng, sức khỏe,
dương khí cho con người.
|
Tranh gà Đông Hồ thường
hay treo trong dịp Tết
|
Quê tôi có lời hát ru thật hay :
Chiều chiều con quạ lợp nhà
Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh
Câu hát đơn giản truyền đi một thông điệp
ḥa b́nh và hạnh phúc, giấc mơ đă xuyên
triền miên qua nhiều thế hệ.
Ước mơ ḥa b́nh: quạ là loài ác điểu chuyên
ăn cướp trứng và bắt cóc gà con: gà là loài
gia cầm hiền lành, nhưng khi bảo vệ ổ trứng
và đàn con cũng trở thành hung tợn, thường
đánh bạt đối phương.
Ở đây hai con chim thù địch hợp tác làm
chung một việc. Quạ chim trời, ở vị thế cao,
làm việc chủ đạo là lợp nhà: gà, chim chuồng,
ở vị trí thấp, đưa tranh làm việc trung gian:
cu, biểu tượng cho t́nh yêu đôi lứa, chẻ lạt,
tạo điều kiện ràng buộc.
Về câu ca dao này, nhà thơ Thanh Thảo đă có
nhận xét tinh tế: quạ làm thợ cả, gà làm
thợ phụ. Thật thế, quạ là chim trời và chim
dữ, sống bằng bạo lực, ở đây khởi sự lợp nhà
nghĩa là được «cải tạo», thuần hóa, theo cái
nghĩa « apprivoiser » của Saint Exupery
trong Hoàng Tử Bé: con chồn đă được thuần
hóa bởi t́nh cảm.
Ước mơ hạnh phúc: mái nhà, lợp tranh - trong
một xứ sở nghèo - b́nh thường che mưa che
nắng và khi cần có khả năng chống đỡ giông
băo. Mái nhà, trước tiên bảo vệ cơ thể, sau
đó tạo điều kiện cho hạnh phúc cá nhân hay
đôi lứa và gia đ́nh, tộc họ.
Mái nhà tượng trưng t́nh thương và sum họp.
Vợ chồng gọi nhau là nhà, một hoán dụ và ẩn
dụ thắm thiết. Mà tượng trưng cho ngôi nhà,
là mái nhà : mẹ già phơ phất mái sương, h́nh
ảnh trong Chinh Phụ Ngâm thật tuyệt vời.
Hang động là địa chỉ đầu tiên của loài người,
thuộc về thiên nhiên. Mái nhà, nhân tạo, là
tiền trạm của văn hóa, của tiến bộ ; nó di
chuyển, di cư, di tản, nhưng dù ở chân trời
nào, khí hậu nào, mái nhà vẫn là trạm cuối
cùng của đời người. Thậm chí, ở thế giới bên
kia, Đạm Tiên khi về báo mộng cho Thúy Kiều,
đă cho địa chỉ : "hàn gia ở mé Tây thiên,
dưới ḍng nước chảy"
Do đó công việc lợp nhà ở đây rất ư nghĩa.
Chữ lợp nôm na mà chính xác, v́ chỉ có một
công dụng từ vựng duy nhất ; người ta lợp
nhà chứ không lợp cái ǵ khác. Lợp tranh, rạ,
lá dừa hay lợp ngói, lợp tôn, th́ vẫn là lợp
nhà. Hai động ngữ kia cũng vậy : chẻ lạt,
đưa tranh. Chẻ là rọc theo chiều dọc, nương
theo thớ tự nhiên của thân cây, đối lập với
chặt và dứt ngang làm đứt đoạn ; đưa là động
tác trung gian, như trong chữ đưa đ̣, đưa
thư.
Như vậy cả chùm ba động ngữ đều mang chung
một ư nghĩa tiếp nối, ràng buộc. Danh từ chủ
thể cũng nôm na: quạ, cu là tiếng tượng
thanh, nhại tiếng chim, gà tuy là gốc Hán
nhưng du nhập từ lâu, có thể là qua tiếng
Thái (kai là gà). Cả ba loài chim đều là
h́nh ảnh thân thuộc của thôn quê.
C̣n lại chữ chiều chiều đậm t́nh mà nhạt
nghĩa. Nhạt nghĩa v́ chẳng nhẽ cứ mỗi buổi
chiều lại rủ nhau đi lợp nhà ? Ư nghĩa của
nó chỉ là âm vang t́nh cảm.
Chiều chiều mở ra một thời gian nhớ nhung
trong một chân trời mộng mị, nó chỉ là giai
điệu đẩy đưa. Ca dao Việt nam có hơn một
trăm câu nhập đề chiều chiều như vậy.
Có người cho rằng câu hát ru nói trên bắt
nguồn từ lối hát Bài Cḥi ngày Tết ở miền
Trung, khi rút ra con bài Ba Gà, người hô sẽ
ngân nga
"Chiều chiều...Con quạ...con cu...con gà,
là ba con, uớ là con Ba Gà". Nhưng có lẽ
người hô Bài Cḥi khéo sử dụng một câu ca
dao có sẵn từ trước.
Về sau có ngưới ráp nối thêm
(...) Chèo bẻo nấu cơm nấu canh
Ch́a vôi đi chợ mua hành về nêm
(...) Chuồn chuồn đi bán chiếu manh
Niềng niễng lót ổ, vàng anh vô nằm
Nhưng chỉ là cho câu chính loăng đi. Như
bóng chiều c̣n lưu luyến.
Văn, vũ, dũng, nhân, tín...
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Câu thơ Hoàng Cầm thật đằm thắm, dù làm
trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đang
gay gắt, cụ thể là tháng 4 năm 1948. Đông Hồ,
quê Hoàng Cầm, là tên làng ven sông Đuống,
tỉnh Bắc Ninh, nay là Hà Bắc, nổi tiếng về
loại tranh dân gian thường được chưng bày
ngày Tết từ thế kỷ XVII. Hoàng Sĩ Khải, Tiến
sĩ khoa 1544, trong bài thơ dài hơn 300 câu,
Tứ thời khúc Vịnh, tả cảnh Tết vùng Thăng
Long :
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương
(Thọ Dương là hoa mai, theo điển cố)
Như vậy tranh Gà, ngày nay là trang trí, xưa
kia có tác dụng trừ tà, có lẽ v́ con gà gáy
sáng, có khả năng xua đuổi bóng tối và tà
ma, mang lại ánh sáng, b́nh an, tin tưởng,
sức khỏe, dương khí cho con người.
Do đó, tranh gà được phổ biến trong nhiều
loại tranh dân gian như Đông Hồ, Hàng Trống
và Kim Hoàng.
Thật ra, không cứ ǵ ở nước ta, con người
đâu đâu cũng cần ánh sáng và hơi ấm của mặt
trời, h́nh tượng gà, do đó được trọng vọng ở
nhiều nền văn hóa khác nhau, như con gà trên
đỉnh nhà thờ Thiên Chúa giáo ở phương Tây.
Tại nhiều nước, gà lại có ư nghĩa riêng: ở
Nhật Bản, gà quan hệ với Thái Dương Thần Nữ,
ở Pháp, gà là biểu tượng dân tộc ḍng dơi
gô-loa (gaulois) một danh từ đồng âm với tên
gà bằng tiếng La-tinh (gallus) - và nhiều
chuyện gà khác kê khai ra thêm cà kê dài
ḍng.
Chúng tôi chỉ nhấn mạnh vào tranh Gà Việt
Nam, h́nh ảnh của ngày Tết âm lịch thịnh
hành v́ nhiều lư do.
Ngoài niềm tin tự nhiên, như trên đă nói,
c̣n có những lư do văn hóa. Theo sách vở xưa
và truyền thuyết, th́ gà trống ứng vào tháng
giêng, ngày mồng một cũng mang cầm tinh gà,
do đó, con gà biểu tượng cho ngày Tết Nguyên
Đán.
H́nh ảnh gà trống cánh lông sặc sỡ, dáng dấp
oai dũng c̣n tượng trưng năm đức tính: mào
đỏ giống mũ cánh chuồn là văn (chữ Hán mào
gà gọi là quan, đồng âm với quan (mũ) và
quan (chức); cựa sắc nhọn như gươm là vũ;
đấu đá không sợ địch là dũng; chia mồi cho
gà con là nhân, gáy đúng giờ là tín.
Một đức tính không nghe sách vở ca ngợi, là
khả năng tính dục, nôm na là "đạp mái". Do
đó tranh Gà thường kèm theo phụ đề như Thần
Kê (Gà Thần) với chữ Kê thần chú viết thảo,
có tác dụng trừ tà; hay Đại Cát (vui lớn);
Nghênh Xuân ; tranh "Bé trai ôm gà trống"
c̣n có tên là Vinh Hoa, có phần trọng nam
khinh nữ lỗi thời.
Bên cạnh h́nh ảnh gà trống, c̣n có tranh
Trống Mái : Gà Thư Hùng, Gà Đàn, Trống Mái
và Đàn con với hảo ư chúc tụng : gia đ́nh
đông đảo và đông đủ, ḥa thuận, ấm no trong
truyền thống tư tưởng dân gian.
Gà mái tượng trưng cho t́nh mẹ con :
Con rắn không chưng (chân) lượn năm rừng bảy
rú
Con gà không vú nuôi đặng chín mười con
Cho đến gà rừng cũng biết thương con :
Cuốc kêu réo rắt đầu non
Gà rừng táo tác gọi con tha mồi
Lạnh lùng thay láng giềng ơi
Gà con tượng trưng cho t́nh cảm anh em, đồng
bào, đùm bọc, thương yêu, nhường nhịn lẫn
nhau v́ "cùng một mẹ".
Tranh Đông Hồ gợi lên được những t́nh ư ấy.
Nhà thơ Hoàng Cầm - thường hoang tưởng - đă
không cường điệu khi viết
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
"Màu" là cách nói tượng trưng, hoán dụ, ám
chỉ tổng thể nghệ thuật Đông Hồ, từ chất
liệu đến kỹ thuật.
Chất liệu trước tiên là giấy: giấy dó làm
bằng cây dó, mọc hoang trong rừng núi, do
các làng Bưởi, làng Cót, ngoại thành Hà Nội
sản xuất. Nguyễn Tuân có truyện Cô Dó trong
loạt Yêu Ngôn là chuyện làm giấy. Gọi là
giấy điệp v́ nghệ nhân phất lên trên một lớp
màu trắng, làm bằng vỏ con điệp (một loại ṣ
ốc) nghiền thành bột, khiến cho chất giấy
cứng xốp và vân lên màu nền độc đáo.
Màu dân tộc khác là màu vàng lấy từ hoa ḥe
hay hạt dành dành, màu đỏ vang lấy từ gỗ cây
vang, màu đỏ son lọc từ sỏi quăïng, màu xanh
của lá chàm, màu đen than lá tre khô. Nghệ
thuật dân gian chơn chất này đă gây ấn tượng
và hứng thú, ngạc nhiên, và kính phục cho
nhiều họa sĩ tân học như Tô Ngọc Vân, Nguyễn
đỗ Cung, Nguyễn Sáng.
Và trong Thơ, nhiều tác giả đă nhắc đến
tranh Đông Hồ, như Đoàn văn Cừ :
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi
(Chợ Tết)
Và đặc biệt nhất là Vũ Hoàng Chương, vào
ngày Tết Bính Th́n 1976, đă làm bài thơ xuân
cuối cùng của đời ḿnh :
Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om ṣm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết ḷng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Ḷng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Gà bôi phẩm
Nhà văn Thạch Lam, trong Nhà Mẹ Lê, miêu tả
một gia đ́nh cùng khổ, mà ông đă thật sự
quan sát bên hàng xóm.
Cảnh hiện thực
Nhà mẹ Lê là một gia đ́nh một mẹ với mười
một người con (...)Mười một đứa mà đứa lớn
mới có mười bảy tuổi, đứa bé nhất hăy c̣n
phải bế trên tay (...).
Trong ngày hè nóng nực, con bác Lê đứa
nào cũng lở đầu, nên bác lấy phẩm xanh bôi
cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại giống mẹ
con một đàn gà, mà người ta bôi xanh lên đầu
cho khỏi lẫn
Đàn gà bôi phẩm xanh ở đây không biết rơ là
gà thật trong sân, hay cảnh Gà Đàn trong
tranh dân gian.
Chửi mất gà là văn hóa?
Nói chuyện con gà trong văn học nghệ thuật
dân gian, nếu chỉ điểm qua truyền thống cao
siêu, những t́nh ư tinh tế mà không đề cập
đến chuyện chửi mất gà, th́ quả là một khiếm
khuyết trầm trọng.
Trầm trọng v́ thiếu tính cách...nhân dân, v́
chửi mất gà cũng là một nét văn hóa.
Ví dụ một trích đoạn chửi mất gà miền Núi
Nùng Sông Nhị
Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu
dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài,
thằng nhai thủ lợn. Con gà nó ở nhà tao nó
là con gà, nó sang nhà mày nó là thần đanh
đỏ mỏ...
Miệt Núi Ngự Sông Hương, lời chửi c̣n ngân
nga hơn
Hôm qua tau mất con gà mái dầu khoang cổ.
Hôm ni tau mất con gà mái nổ khoang bông.
Con mô bắt là gái trốn chúa lộn chồng. Thằng
mô bắt là đàn ông ba đời đi ở đợ...
Tụi bay hăy vén mái tai, gài mái tóc,
chống cửa ngơ cho cao, chặt hàng rào cho
thấp mà nghe tao chửi...
Bay ăn cho chồng bay sợ, cho vợ bay kinh,
bay ăn cho ngă miếu sập đ́nh, cho mồ cha bay
chết hết, để một ḿnh bay ăn.
Và như thế người chửi cứ ca cẩm hằng giờ,
hằng buổi. Lời lẽ ở đây chủ yếu là vần vè,
câu chữ tầm thường, khuôn sáo, nhưng không
phải là không có văn chương. Nh́n dưới góc
đôï dân tộc học, nó cũng là một khía cạnh
văn hóa.
Thơ hay về gà
Nằm trên biên giới giữa văn học viết và
truyền khẩu là câu thơ "gà" này
Phất phơ ngọn trúc, trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ xương
Nguyên là sáng tác của Dương Khuê
(1839-1902), tả cảnh Hà Nội. Thọ Xương là
tên huyện, khu thương măi, kết hợp với huyện
Vĩnh Thuận, phía Hồ Tây lập thành phủ Phụng
Thiên, sau đổi là Hoài Đức, là tên cũ của
thành phố Hà Nội. Trấn Vũ là tên đền, c̣n
gọi là Trấn Quốc hay Trấn Bắc, nằm trên một
bán đảo nhỏ ven Hồ Tây.
Câu thơ có âm vang dân dă nên được phổ biến,
nhiều người nhầm với ca dao, và lan truyền
đi, theo những ngọn gió la đà, vào tận Thiên
Mụ, Thủ Thiêm.
Nền văn chương quốc ngữ, nhất là phong trào
Thơ Mới 1932-1945, h́nh thành song song với
sự phát triển các đô thị. Thời ấy, những
thành phố lớn vẫn c̣n vọng âm thôn dă. Mà
tiếng gà gáy là âm vang biên giới giữa nông
thôn và thành thị - quá khứ và hiện tại. Do
đó mà văn thơ eo óc tiếng gà, từ Lưu trọng
Lư đến lời nhạc Trịnh Công Sơn sau này.
Xao xác gà trưa gáy năo nùng
Nhiều người thuộc câu thơ thật hay này của
Lưu trọng Lư. Chữ trưa đứng giữa câu như mặt
trời đứng bóng, giữa hai âm g (gà - gáy) cân
phân giữa hai cặp nguyên âm luyến láy khác:
xao xác, năo nùng ; tất cả loang xa trong
không gian bằng phụ âm a. Tế Hanh cũng đă
tạo được tiếng gà năo nùng như thế :
Sang bờ tư tưởng ta ĺa ta
Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà
Nguyên âm t luyến láy 7 lần trên 14, như
tiếng gà xé rách nội tâm.
Nhưng nhà thơ thân thiết nhất với loài gà có
lẽ là Huy Cận, tác giả ngơ ngác tựa gà trống.
Phải yêu tiếng gà sâu sắc mới làm được bài
thơ này, trích trọn bài :
Gà gáy đầu thôn, gáy giữa thôn,
Mưa tinh sương mát tận tâm hồn.
Đêm qua tắt gió cây không ngủ,
Mưa sớm hàng cây đứng ngủ ngon.
Gà gáy trong mưa tiếng vẫn trong,
Giọng kim giọng thổ rộn vang đồng.
Được mùa giống mới, gà no bữa,
Tiếng gáy tṛn như lúa nặng bông.
Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ, mào đỏ thắp b́nh minh.
Mênh mông gọi nắng cho mùa chín,
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thủy Tinh.
Bài thơ làm năm 1972, tác giả tự giải thích
bằng một tựa đề dài: Gà gáy trên cánh đồng
Ba V́ được mùa, dài ḍng một cách không cần
thiết, nó lại hiện thực hóa bài thơ, giới
hạn khả năng truyền cảm của tiếng gà.
Năm 1962, Huy Cận có bài Sớm mai gà gáy tả
cảnh nông thôn, thơ súc tích, rạo rực, sâu
lắng, riêng tư
Tiếng gà gáy ơi! gà gáy ơi!
Nghe sao ấm áp tựa nghe đời.
Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp,
Trâu dâïy trong ràn, em cựa nôi.
Cha dậy đi cày trau kịp vụ,
Hút vang điếu thuốc khói mù bay.
Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu,
Chút cá kho tương mẹ vội bày.
Gà gáy nhà ta, gáy láng giềng,
Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen
Cha ơi con chửa nghe gà chú!
Nó cũng như mày hay ngủ quên.
Hàng cau mở ngọn đón ngày vào,
Xóm nhỏ nép bên triền núi cao.
Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa,
Nắng lên x̣e quạt đỏ như mào.
Gà gáy ơi ! tiếng gà gáy ơi !
Nghe sao rạo rực buổi mai đời !
Thương cha lủi thủi không c̣n nữa,
Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui.
(gáy ran = gáy vang ; ràn = chuồng trâu, ḅ
(chính xác là phần trên của chuồng, nơi gác
nông cụ) ; cày trau = cày vỡ, lật đất phơi
cho ải, dễ tơi ; nhút = dưa muối làm bằng xơ
mít)
Đời thực, cảnh thực, nhưng hiện thực đă nhập
tâm, nhập thần, trở thành ma lực truyền cảm,
yếu tính của nghệ thuật. Triền núi cao, đỏ
như mào là cảnh thật, một rặng núi tên là
Mồng Gà gần làng Ân Phú, quê hương của Huy
Cận, một vùng cận sơn Hà Tĩnh.
Huy Cận đă trải qua thời thơ ấu, lang thang,
đùa chơi, chăn trâu, thả diều dưới chân núi,
và có thể cái tên núi Mồng Gà, kết hợp với
tiếng gà gáy, đă suốt đời ám ảnh nhà thơ.
Khi anh tả núi Tản Viên "mào đỏ thắp b́nh
minh" th́ đă di chuyển tâm cảnh Mồng Gà từ
ấu thời sang hiện thực, và từ hiện thực gợi
lên huyền thoại.
Thậm chí khi ra biển khơi, anh vẫn lắng nghe
Tiếng Gà trên Biển :
Tiếng gà trên biển hạ cung trầm,
Tiếng sóng ḥa theo chẳng tạp âm.
Tiếng sóng làm nền cho tiếng gáy,
Trầm bao nhiêu, lại bấy xa xăm.
Câu cuối súc tích, yêu cầu được hiểu theo
nhiều giai tầng khác nhau trong địa chất của
thi pháp Huy Cận.
Năm 1967, Mỹ ném bom bắn phá dữ dội khu Tư.
Huy Cận về sống tại vùng Thanh Hóa ba tháng
dưới bom đạn, giữa những ầm vang long trời
lở đất th́ nhà thơ lắng tai nghe :
Đây là giờ trưa. Những con gà cục tác.
Bài Giờ Trưa làm tại Hàm Rồng bắt đầu như
vậy. Và kết thúc :
Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục,
Con gà mái lại đâu đây cục tác.
Dụng ư nhà thơ là chọn một h́nh ảnh tầm
thường để nói lên niềm tin b́nh tĩnh của
người dân, ở cuộc sống, trước thảm họa chiến
tranh.
Nhưng biểu tượng cho chính luận được "năm
châu chân lư đứng nh́n theo", sao lại là
"con gà cục tác"?
Xuân Diệu và Võ Phiến viết về Gà
Biết rơ vị trí con gà trong tâm thức Huy Cận
th́ sẽ thân thiết hơn với câu thơ tả cảnh
gánh xiếc thời thơ ấu, trong tập Lửa Thiêng,
1940
Có chàng ngơ ngác tựa gà trống
E đến trăm năm c̣n trẻ thơ
Câu thơ không mấy duy lư : gà trống sao lại
ngơ ngác, trẻ thơ ? h́nh ảnh ngớ ngẩn, nhưng
vẫn hay, thậm chí hay hơn nhiều câu duy lư
khác về sau của Huy Cận, được nhiều người ca
tụng.
Trong Lửa Thiêng, Huy Cận có bài Em Về Nhà
rười rượi, man mác
Tới ngă ba sông nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê
Làng xa lặng lẽ sau tre trúc;
Bến cũ thuyền em sắp ghé về.
Âm vang "gà lạ" ngân lên thê thiết. Xuân
Diệu đă phê là "tŕu mến, chứa cảnh, chứa
hồn, chứa cả những ǵ không thể nói được,
đây là Ngă Ba Tam Sa, trên sông Phố, tại
Linh Cảm, ở quê Hà Tĩnh của Huy Cận, đă thấm
vào chú học sinh từ mấy mươi năm trước"
Địa danh Xuân Diệu đưa ra, đă gây xúc động
nơi Vơ Phiến, trong một buổi "Đàm Thoại" với
Nguyễn Xuân Hoàng, năm 1993 (không can dự ǵ
đến tiểu sử Huy Cận).
Linh Cảm là một làng nhỏ, cách Vinh 30 km về
phía Tây Nam. Vơ Phiến kể
Địa danh ấy làm tôi liên tưởng đến mối
t́nh đau đớn của người bạn lớn hơn tôi ba
bốn tuổi...Người nữ sinh anh yêu chính ở
Linh Cảm.
Bấy giờ nào tôi biết Linh Cảm là đâu, nhưng
cái cách anh nói đến hai tiếng Linh Cảm
trong những đêm tâm sự truyền cho nó bao
nhiêu là thắm thiết, bi thương, quằn quại
(...) Đang dạy học ở Huế, anh bạn bỏ dạy,
hỏi đi đâu, bảo nghe mách có chỗ dạy ngoài
Hà Tĩnh, muốn ra xem thử. Lại lần khác gặp
biến cố lớn, gia đ́nh chờ măi bặt tin anh.
Về sau anh về, bảo rằng, lúc ấy bị kẹt ở
Linh Cảm, v.v. . Tôi lén lút nh́n anh,
thương xót
Từ đó tiếng gà lạ gáy bên đê lại gợi lên
trong trí tôi những liên hệ u uẩn, khổ đau,
gợi một nét mặt đẹp dịu dàng, và buồn bă ;
cái ngă ba sông nước bốn bề tự dưng liên hệ
với nỗi đau âm thầm một đời...
Dĩ nhiên, đây là cả một câu chuyện đầy t́nh
tiết, t́nh cảm, t́nh bạn, t́nh yêu. Nhưng
nhà văn cảm nhận cả khối "u uẩn" đó, v́ câu
thơ hay và anh đă yêu thích từ trước, thời
anh chưa có kinh nghiệm văn học để "ḿnh
càng gần gũi lâu một ngôn ngữ, càng thấy nó
chất chứa trong mỗi lời, mỗi tiếng lắm điều
ngổn ngang. Hăy thư thả, thư thả. Để cho mỗi
tiếng từ từ nhả ra hết cái chứa đựng t́nh
cảm của nó" (sđd).
Góc bể chân trời, tuổi xế bảy mươi. Vơ Phiến
viết như vậy là đă tận t́nh với văn chương
và tận nghĩa với cuộc đời. Nhưng tôi vẫn
muốn đi xa hơn nữa với anh. Sở dĩ Vơ Phiến "linh
cảm" được với tiếng gà Ngă Ba Tam Sa trên
sông Phố, là v́ bản thân anh, cũng như Huy
Cận đă bị tiếng gà ám chướng.
Trong tập tùy bút Thư Nhà, 1962, Vơ Phiến kể
chuyện làng quê B́nh Định trong chiến tranh.
Năm Thiều, dân vệ xă, bị hạ sát ; người cha
là Thập Tam làm phó thôn trưởng nhận thư
cảnh cáo, phải lánh vào Sài G̣n, sống nhờ
người con gái, "tính ở đây luôn, v́ ngán
ngoài đó lắm". Chỉ được vài tháng, vào ngày
áp Tết, lại bỏ về quê, v́ một tiếng gà trái
chứng.
Người con gái kể lời cha, vào khoảng 9 giờ
tối
Hai ba đêm nay tao nghe con gà ṇi nhà
phía cuối đường cứ gáy vào giờ này. Sung sức
quá rồi đó nghe. Gà của ai đó, phải nói với
họ cho "xổ" đi. Xổ là cho gà nó đá nhau qua
loa cho bớt sung sức. Nhà tôi cười: ai hơi
sức đâu đi t́m chủ gà, ở thành phố này hơi
nào để ư... Vậy mà rồi bữa sau, cậu tôi t́m
tới ông cụ ở cuối đường làm quen, nói chuyện
gà đó!
Vậy là ông cụ "nhớ làng xóm quá rồi...ở chốn
thị tứ xe cộ ồn như vầy mà để lỗ tai lắng
đón không sót một tiếng gà gáy..."
Thôi, thế là cuối năm, một người nữa lại
quay về, gắn liền vận mệnh ḿnh với số phận
làng mạc.
Trên đời, không có Thập Tam nào trong thực
tế, mà chỉ có tác giả mới là người để lỗ tai
lắng đón không sót một tiếng gà gáy. Tuy
nhiên, không giống nhân vật Thập Tam ḿnh đă
hư cấu, Vơ Phiến dường như đă lỗi hẹn với
một buổi cuối năm nào đó.
Thôi th́ chuyện cà kê gà ngóe Tết Ất Dậu năm
nay nên ngưng lại ở đây, nơi tiếng gà lạc
loài, eo óc, năo nùng này.
Thay lời kết
Con gà thường trực trong phong cảnh nông
thôn, từ vườn rộng rào thưa, đến ngă ba sông
nước bốn bề, sớm trưa, chiều tối ; con gà
thân thiết trong tâm cảnh Việt Nam, từ lời
ăn tiếng nói hàng ngày cục tác lá chanh, đến
bàn thờ ông bà ngày giỗ tết, vào đến văn thơ,
tranh pháo ngày Xuân.
Chuyện gà ngày Tết, nói bao nhiêu cũng không
hết những ư những t́nh mà Bàng Bá Lân đă gợi
lên trong một câu thơ ngắn gọn :
Tết về nhớ bánh chưng xanh
Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh Lợn-Gà
Nguồn:
BBC.UK