Home Tìm Ca Dao Trợ Giúp Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Cát Bủn Đường Giồng
NAM SAN
  
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về giồng ăn dưa. 
Có khi hát: 
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng.
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
 
Tùy theo cảnh huống mà nói, câu nào cũng đúng cả. Nếu ta định nghĩa phân biệt thế nào là rẩy và ruộng, thế nào là đồng và giồng thì càng rõ thêm.
Ruộng có ruộng gò ruộng sâu, nhiều vùng nê địa lại có cả lung cả quằng; nhưng ruộng thì phải cách xa sông. Trong khi rẩy, dù xa hay gần sông, nước rẩy vẫn là nước sông tràn vào. Nước ra vào nên có một loại cỏ bắc lá mướt như mạ non nhưng rất bén. Khi tới mùa gió chướng, nước mặn ngoài biển tràn vào nên sông có nước pha chè, lờ lợ mặn. Đương nhiên thòi lòi và còng gió rất nhiều. Cá bóng trứng, bóng nhảy, bóng sao đầy nhoi các lổ chưn trâu. Hai bên bờ sông là dừa lá dày đặc. Cá bóng dừa là loại đặc biệt ở trong các bẹ bộp dừa. Dưới bãi sông có nghêu có hến, lòng lạch sông là cá tép đủ loại. Rẩy trồng lúa không tốt, chỉ lên bờ trồng khoai dương ngọc, trồng mía trồng thơm. Rẩy rất dễ biến thành vườn dừa vì có huê lợi nhiều hơn, nhưng rẩy vẫn được duy trì là để nuôi vịt, nuôi trâu bò. Ở rẩy buồn, chỉ có còng là nhiều, nói lên sự thiệt thòi nghèo nàn ở miệt rẩy. Khói đốt đồng thì buồn, nhưng có người canh lửa cháy lan, và tro bụi trở thành phân bón cho mùa năm tới. Trái lại, khói đốt rẩy thì chỉ có le te bìm bịp kinh hoàng tung bay, không ai canh chừng, vì cỏ bắc tươi xanh khó bén lửa như rạ khô ở đồng, vã lại cạnh bờ sông nước chảy lờ đờ, còn gì buồn hơn.
Về rẫy ăn còng là cách nói bóng bẩy, chứ ít ai ăn con còng gió, mặc dù còng cũng có gạch có càng. Người ta chỉ ăn con rạm con nga, tương tợ như con ba khía.

Về sông ăn cá thì khỏi phải giải thích. Nhưng về đồng ăn cua thì sao? Đồng ruộng cách sông, nhưng phì nhiêu sung túc hơn ở rẩy. Đồng có nhiều cá tôm cua ốc. Con cua dính liền với đồng ruộng. Nhà nông thường bắt con cua con, ăn sống nhai cả vỏ cả ngoe và hớp vào một ngụm rượu đế, vừa trừ nạn cua cắn lúa non, vừa trị bịnh. Người bị té nội thương, dùng con cua đồng đâm nhỏ hòa với nước tiểu hài nhi mà uống, sẽ thấy công hiệu.
Rẩy với ruộng với đồng khác nhau, còn giồng thì sao?
Tại quê tôi, nếu kể thì không bao giờ kể hết tên giồng. Có lẽ phải tham khảo thêm các bài viết của
nhà văn Xuân Vũ hay “Cây Cỏ Miền Nam” của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ mới liệt kê đầy đủ. Như là Giồng Tre, Giồng Trôm, Giồng Quít, Giồng Cát, Giồng Duối, Giồng Luông, Giồng Chùa, Giồng Khuê, Giồng Trường, Giồng Keo, Giồng Thủ... Trở về nguồn gốc thảo mộc thì ở giồng chỉ nơi đất cao và đặc biệt tượng trưng cho một loại thảo mộc thích nghi. Do đó giồng khác biệt với “cái”. Cái chỉ nơi có bến nước và cũng có loại thảo mộc thích nghi như Cái Vẹt, Cái Khế, Cái Quao, Cái Bần. Nếu đồng trồng được nhiều loại cây trái khác nhau thì giồng chỉ thích hợp riêng cho loại chịu đất cao và khô, như cây vú sữa, cây cau, cây đào và đặc biệt là dưa. Nếu trồng loại lạ, thì phải tưới thật nhiều nước, như dây bầu dây bí trồng ở giồng cũng rất sai trái, nhưng phải tưới đủ nước. Dưa trồng ở giồng có dưa hấu, dưa gan, dưa leo, dưa chuột, sau này có giống dưa hoàng kim, dưa sugar baby.. Dưa cũng như mướp, cũng có bông đưa bông cái, nhưng bông đực truyền phấn rồi rụng, còn bông cái đậu và lớn dần thành trái. Dưa hấu lúc còn nhỏ gọi là dưa hường hay dưa hồng, kho lạt với cá lóc rất ngon:
Mẹ mong gả thiếp về giồng,
Ăn bông bí luộc, dưa hồng nấu canh.
 
Về dưa hường dưa hấu còn có câu đố như sau:
 
Ngoài xanh trong đỏ như vang
Khen ai khéo đặt một chàng hai tên.
 
Chuyện dưa ở giồng cũng là chuyện dài không kể hết. Từ quả dưa đỏ An Tiêm trong cổ học Việt Nam đến chuyện đá cá lăn dưa, đến trợt vỏ dưa sợ vỏ dừa, đến dưa gan đổ hột... không nhắc hết ở đây..
Thơ văn và ca dao cũng thường hay nhắc đến dưa:
 
Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ăn trộm hái bầu, ăn cướp hái dưa.
 
Hoặc như:
 
Chị kia kẹp tóc đuôi gà
Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu.
Nhà tôi ở dưới đám dâu
Bên trên đám đậu, đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông
 
Hoặc như Bồ Tùng Linh đã viết trong Liêu Trai Chí Dị:
 
Cô vọng ngôn chi cô thín chi
Giậu bằng qua giá vũ như ti
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ
Ái thín thu phần quỷ xướng thi
 
Tản Đà dịch:
 
Nói láu mà chơi nghe láu chơi
Giàn dưa lún phún giọt mưa rơi
Sự đời hẳn chán không buồn nhắc
Thỏ thẻ nghe ma đọc mấy lời
 
Ở đây tôi muốn nói đến giồng, đến cát bủn quê nhà, nơi mà hơn 50 năm qua tôi còn ghi trong ký ức. Trên bước đường lưu vong hải ngoại, nhìn cảnh sa mạc xứ người, thấy cảnh sóng cát gờn gợn, tôi chợt thấy nhớ tới cát bủn quê nhà. Cũng có gió trốt thổi cát mịt mờ, cũng có cảnh đá chạy cát bay. Cũng có những con rắn liu điu tim đèn chun vùi dưới cát. Cũng có những con dế dủi độn cát như Thổ Hành Tôn trong truyện Tàu. Cũng có những con kiến nhọt, kiến nẻ ghê hồn, những ổ kiến lửa đùn cát bọt lúc tinh sương. Cũng có những con kỳ nhông chạy lẹ giữa trưa hè. Những ai đạp phải ổ
kiến cắn sưng làm độc chỉ có cách là tìm thầy Lổ Bang để khoán theo lối “đau Nam chữa Bắc” thì mới biết.
 
Giồng sẽ trở thành đồi cát hay sa mạc nếu không có giếng. Giồng và giếng phải đi đôi với nhau. Miệt giồng rất khó đào giếng, vì phải đào thật sâu mới có nước. Lớp trên là cát, nếu gặp mưa thì cát sụp thành giếng lạn. Do đó miệng giếng phải rộng và thoải độ để tránh cát chuồi. Nước giếng ngọt và trong veo vì lớp cát lọc tinh khiết.
Giếng và gàu cũng là hình ảnh nên thơ của miệt giồng. Gàu đươn bằng lá dừa nước còn non trong cây cần bắp. Một cây cần bắp hay tàu lá dừa có thể dài đến 5 hoặc 6 thước. Chỉ một cần bắp là chầm được một cái nón lá hay đươn được một gàu múc nước. Gàu đươn hình như con ốc, nhỏ lớn có thể múc đầy 5 đến 10 lít nước. Gàu lá nhỏ thì chắc, ít bể, xài lâu hơn. Gàu được nối bằng sợi dây thật chắc thật dài để xách nước giếng. Có thể là loại dây bố đánh lại hoặc là bẹ bộp dừa xé ra. Những loại dây này xuống nước càng dẽo dai. Nhiều khi dùng dây chuối để xài tạm. Gàu bể mà xách giếng sâu, phăng dây dài là cả một nghệ thuật, nhưng đó cũng là hình ảnh đáng thương:
 
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Nào hay giếng cạn, tôi tiếc hoài sợi dây.
 
Có những giếng rộng thoai thoải, có bực đi xuống. Có giếng có bèo đặc gừ. Muốn múc nước phải khỏa bèo. Bèo vớt lên để ủ gốc cây, dây bầu dây bí thật là tốt. Khỏa bèo thường xách nước bằng thùng thiếc, bằng thùng dầu lửa cắt ra và đóng cây ngang để xách. Thùng chứa 20 lít nước. Nếu đóng cây xuôi thì người ta xách một lúc 2 thùng, 40 lít nước, hai thùng nối vào dây và một đòn gánh ngắn ngang vai, hay tay kềm hai thùng nước...
Ngoài ra còn đặc trưng của miệt giồng, người ta còn trồng cây bông vải. Sau thời kỳ tơ tằm và tang dâu, người ta trồng cây bông vải để may mặc. Dụng cụ xe kéo chỉ hay khung dệt với go, con thoi vẫn giữ như cũ. Bông vải gieo bằng hột nhỏ và đen cở giọt nước rơi. Lá bông vải hình trái tim như lá bồ đề, mặt dưới có nhiều gân và lông nhỏ để hút sương như các loại cây sa mạc. Bông búp nụ như bông bần, đài bông có 4 hoặc 5 cánh. Bông thành trái cũng gọi là trái bông, có hình trái tim. Khi nứt vỏ cũng hình trái tim, 4 múi hình trái tim trắng tinh như là múi trái măng cụt cắt ra. Nếu hái không kịp, giữa trưa nắng để gió thổi qua, bông sẽ túa bay như tuyết, hoặc cát bụi sẽ bám vào. Cho nên phải canh mà hái bông lúc sáng sớm, phơi nắng vài tiếng và tách bông ra. Gở bông khỏi vỉ, đem phơi và dùng xe cán bông mà cán cho hột rời ra. Xe cán bông có hai trục cán, tay có nắm như trái bần để quay. Bông được bọc trong tấm khăn mỏng đem phơi và mang vào phòng kín để bắn, Dùng cung và dây, như một dũng sĩ ngồi bắn. Người bắn bông thường là thiếu nữ dịu hiền. Dây cung dương thẳng nẹt vào bông nghe bình bịch. Xong lại dời đống bông sang bên dùng roi quất tron trót. Mục đích là làm cho hột rời ra hết và làm cho bông nhuyễn ra và trắng mịn. Bông phải trắng trong như suốt thì mới dùng se chỉ mà dệt thành vải được:
 
Trắng như bông lòng Em không có chuộng
Đen như cục than hầm, mà lòng Em muốn, dạ Em ưng.
 
Hột bông có thể ép làm dầu hay ủ làm giá, ăn ngon hơn giá đậu, Vỏ trái bông làm củi chụm, tro rất
mặn rất tốt. Người ta chỉ gọi là bông vì vừa là hoa vừa là quả. Cũng như lúa, vừa là bông vừa là hột, cũng như bông súng, vừa là hoa vừa là trái. Bông lúa bông vải có hột để truyền giống. Bông súng chỉ có củ nẩy mầm, còn bông sung còn gai là trái sung, không truyền giống bằng hột. Tôi sẽ kể lại nghề nuôi tằm ươm tơ và trồng dâu ở miệt giồng và đặc biệt trồng cây thuốc lá...
Những đợt mưa giông, nước tràn trên cát cùng với bọt bèo, lá cây, đổ về nơi trũng thấp. Cát mịn lại và dợn sóng như đồi cát sa mạc dưới cơn gió thổi. Có những con cua con, con ếch con bằng đầu đủa, lẫn lộn trong bọt cát. Đấp bờ cát đón nước trôi mà tìm bắt cua con, ếch con giữa sấm sét ầm ì, là thú vui của tuổi thơ. Mưa xong là mặt giồng khô ngay, vì nước rút theo cát và chảy về chỗ trũng. Đi trên cát sau cơn mưa mới tạnh, vừa êm vừa mát tưởng không thảm nhung nào trên đời mịn hơn.
Cát quê tôi là cát bủn, mịn có thể làm “Lầu Sa” thay “Nhựt Khuê” như thuở xưa. Ngày xưa quan niệm đêm năm canh ngày sáu khắc. Ban đêm đo canh bằng “lầu sa”, tức là bình chứa cát thật mịn, nếu cát nhiễu xuống hết là hết canh, ra đánh kiểng. Còn “nhựt khuê” là cắm một cây cọc, dùng bóng mặt trời ngã mà đo khắc ban ngày:
 
Lầu sa đã cạn cát vàng
Sao Em còn hãy mơ màng chi đây?
Nhựt khuê ngã đậm bóng ngày
Sao Em còn mãi thở dài hởi Em?!
 
Ở giồng nghe tiếng “quốc-oa” vào trưa hè thật không gì áo não hơn. Con quốc kêu đều đều từ trong bụi tre gai:
 
Tu-oa quốc quốc
Tu-oa quốc quốc
 
Quốc phải khổ sở lắm mới vào được trong bụi tre gai, vì nếu ở ngoài sẽ bị chồn đèn rình bắt ăn thịt. Chồn đèn rất khôn, nhỏ con gan dạ, đủ mánh lới, cũng len lỏi vào các bụi tre để săn mồi. Hể nghe quốc kêu ròng rả mà kết thúc bằng tiếng thất thanh “quốc, quốc, quốc” là biết quốc đang lâm nguy. Thuở nhỏ tôi thương con bìm bịp và con quốc-oa, nên không bao giờ gài bắt,
Trưa hè ở giồng mới thấy nắng đổ lửa trên đầu. Nắng chang chang, cát chập chờn bốc hơi. Tôi thương nhớ Anh, nhớ Chị và nhớ Mẹ già mỗi khi nhắc tới cát bủn đường giồng. Nếu không có Anh đòng đòng trên cổ, không có Chị cõng trên lưng, không có Mẹ bồng bên hông, tôi không thể nào qua vùng cát bủn để lên lộ cái mà đi chơi với bạn bè. Chạy sát bờ chuối hay hàng đào thì sẽ đạp gai. Đó là gai xương rồng và gai mắc cở, nhiều khi còn bị kiến cắn. Chạy giữa giồng thì cát sẽ phỏng chưn. Khoảng cách từ nhà lên lộ chỉ 400 mét, thế mà đối với tôi, như một biển lửa hực trời. Phải tới lộ cái, ngồi dưới tàn vú sữa mà chơi nhà chòi, gở vỏ cây tìm con bửa củi giữa trưa hè mới là thú vị. Những ngày ui ui không nắng, ngồi trên tàu mo cau cho bạn kéo đi trên bãi cát, êm như là ghe đi trên sông lặng tờ.
Khi lớn lên đôi chút, học lớp sơ cấp tại Giồng Trường, tôi cũng không dám đi trên lộ cái về Chợ Mới mà phải đi tắt bờ mẫu. Băng bờ mẫu thì phải qua đám mã dưới hàng cây sao bên Giồng Trường rất sợ ma. Qua vài vuông đất đầy tre gai mới tới bờ mẫu. Trên bờ mẫu thì tha hồ tướt cỏ may, hái trái cối xay, trái bông gạo. Trái bông gạo như hột cườm hình thoi màu trắng xỏ chung với hột cườm rắn màu đỏ tươi có điểm chấm đen, đẹp rất đẹp. Tôi hái trái bù ngót màu hồng màu trắng mọc hoang bên bờ. Hái trái cỏ xuốt gở ra như hình con cá rô mén, hái trai ké đầu ngựa mà chọi nhau. Hái trái hột nổ màu nâu đen ngậm cho ướt lén bỏ lên đầu nhau chờ nổ răng rắc tung hột mà cười. Đi bờ mẫu chỉ lúc gần tới nhà là phải qua hàng keo già mé triền ruộng. Cũng gần như cây bã đậu, nhưng gai keo nhỏ hơn, dễ bị đạp nhưng cũng dễ lể ra.
Cát bủn quê tôi chỉ có cây mắc cở là mọc được. Cây mắc cở là loại bò sát đất, là mịn màng như lá me, hể đụng đến là xếp lại như e thẹn, nên mang tên mắc cở. Bông màu hồng lúc sáng tinh sương, hình tròn như bông bình linh, trưa phai thành màu hồng lợt. Cây mắc cở có nhiều gai bén và cong ngược như lưỡi câu.
Ngoài việc trồng bông như đã kể, ở giồng còn trồng mía, đậu phọng, khoai lang, khoai mì. Đất cứ trở mại cho phì nhiêu. Phân bón thường là phân mặn, tức vỏ vụn tôm khô miệt Bạc Liêu, các con cá con vụn phơi khô miệt Bình Đại, Ba Tri. Sau mỗi mùa hoa lợi, phân vẫn còn đọng trong cát, nên trồng thêm loại nào cũng trúng cả. Nếu muốn cải bẹ xanh hay củ cải trắng, thì lên liếp và ủ thêm phân cỏ tưới nước cho im. Muốn trồng bầu bí thì đào trũng, ủ thêm thân cây chuối mục và tưới thật nhiều. Các dây khoai lang cũng thấy trồng bên các gốc cây cho bóng mát.
Ngoài giếng ở giồng còn có ao, có hào. Cạnh bờ ao bờ hào, ngoài tre còn có các cây me chua, cây mít, cây khế...
 
Đừng chê khế rụng bờ ao
Dẫu rằng núi lở còn cao hơn đồi
 
Các cây bình bát, mồng tơi, nhà lồng mọc um tùm. Trên các cành cao còn có cây ráng bay, cây chùm gởi quyến rũ loài chim sâu sặc sở. Chim sáo, chim chìa vôi, chim dòng dọc kêu ríu rít tranh ăn những trái keo phồng. Ổ chim dòng dọc tòng teng lắc lơ theo gió như những lồng đèn. Nắng chiều phản chiếu trên tàng vú sữa lá hai màu như hào quang. Những ngọn cau tầm vung ngất trời vang vội tiếng chim gỏ kiến như mỏ liên hồi. Cò trắng theo sau những con trâu chậm chạp trên đường về, là hình ảnh quen thuộc của quê tôi.
Tôi học theo Anh làm vòng tóm câu để gài bắt con kỳ nhông. Như loại sấu, nếu con kỳ đà to lớn, con cắc ké sần sùi, con cắc kè sặc sở, con rắn mối vải láng, con thằn lằn nhỏ ôm cột nhà, thì con kỳ nhông ở hang, lớn cở cổ tay, dài độ 4 tấc, chạy lẹ mắt không nhìn kịp. Mình xám như con thằn lằn và mát lạnh. Ít ai bắt được kỳ nhông vì nó rất nhát và sợ tiếng dộng. Kỳ nhông sợ nhứt là tiếng sét lúc sa mưa. Đào hang con kỳ nhông còn khó hơn đào hang con tôm tít, con tèn hen. Hang cũng có ngách, nghe động là chui nẽo khác, nếu đào tới nơi cũng ít khi chụp bắt kịp vị nó vọt quá nhanh. Bắt kỳ nhông chỉ còn cách là gài bẩy. Bẩy tóm như nhợ câu, đặt thành vòng trên miệng hang. Mắt kỳ nhông sáng và láu lia. Tôi gài bắt được và chạm phải thân nó mát lạnh như cục nước đá giữa trưa hè, nó vùng vẫy và đảo mắt láo liên, tôi thương hại mà thả nó ra ngay. Thịt kỳ nhông nghe nói ngon hơn thịt kỳ đà và thơm béo hơn thịt rắn mối, nhưng ít ai ăn được vì khó bắt.
Miệt giồng là như vậy, không gì huy hoàng, chỉ có nắng chang cát bủn. Những cây vú sữa, cây đào, cây xoài, cây mận, bụi chuối chung quanh không giúp nổi tôi vượt qua vùng cát nóng. Nhưng tôi lúc nào cũng mơ về giồng cát bủn quê nhà. Ở đấy có Đọc Giảng Đường, có Nhà Thờ, có Thất Cao Đài, có Chùa Giồng Khuê, có Miểu Điền và có những ba Ngôi Đình. Quê tôi hay nhắc đến ba Châu: Châu Bình, Châu Phú, Châu Hòa, ba Mỹ: Mỹ Nhiên, Mỹ Chánh, Mỹ Lòng và ba Tân: Tân Thanh, Tân Hào, và Tân Thanh Trung.
Cát bủn Tân Thanh đã giúp cho Nghĩa Quân đá cát tung mờ chạy thoát mỗi khi Tây rượt đuổi đến Miễu Điền. Cát bủn Tân Thanh đã không đốt cháy gót ngọc tuổi thanh xuân của tôi, nhưng ót tôi vẫn bị chai vì tôi đã phải dẫm đá xanh, đá ong lộ đứt; phải băng sông lội xình mà thêm cát bủn quê nhà. Hơn 50 năm rồi còn gì! Gót tôi đã rạn nứt phong trần. Nếu có ai dẫm trên gai mắc cở hay lội trên cát bủn bốc hơi giờ này chắc cũng không nóng bằng lửa đốt lòng tôi, không đau xót bằng gai nhói tim tôi.
Hột cát trong giày, nếu là cát quê tôi thì có gì đáng ngại, vì nó mịn và êm. Cát quê tôi nếu lọt vào mắt thì mới xốn xang mà thức tỉnh chăng?
Ôi, cát bủn quê hương, tôi chỉ cần một hột cát mà thôi, dù là một hột cát trong mắt cũng không có được! Tôi cần một hột cát trong mắt để dụi mà thấy rằng mình không mơ!!!
 
(Trích Đặc San TRÀ VINH)
Nguồn: saigontimesusa

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18