Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
ĐI T̀M VẺ ĐẸP CA DAO DÂN CA

 

HỒ TĨNH TÂM

 

Tôi xin bắt đầu bài viết này từ một câu ca dao mà tôi bắt gặp năm 1988, tại Vũng Liêm, do một cô giáo sinh đọc ngoài cửa pḥng nghỉ của tôi, nhưng cố t́nh cho tôi nghe được.
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng
Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Câu ca dao b́nh thường thôi, nhưng phải nghe đúng ngữ điệu của cô gái ấy, t́nh cảm của cô gái ấy, mới thấm hết cái hay rất thật của nó. Bởi vậy ở Nam Bộ, bên cạnh đờn ca vọng cổ và bản vắn, c̣n có một h́nh thức rất phổ biến là ca ra bộ - nghĩa là người ca phải vừa hát vừa ra bộ bằng gương mặt, ánh mắt, thân h́nh, đôi bàn tay, bàn chân… để diễn tả cho hết t́nh cảm của ḿnh gởi trong câu hát. Trong phạm vi bài này, tôi xin phép nhận xét về ca dao dân ca Nam Bộ dưới góc độ ấy. Của một vùng văn hóa rộng lớn đă sản sinh ra nó.
Trước hết xin nói qua về sự h́nh thành vùng văn hóa Nam Bộ
 
I. TỪ VÙNG VĂN HÓA CỔ TRUYỀN NAM BỘ ĐẾN VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ HÔM NAY
Theo những khám phá của các nhà khảo cổ học, con người đă có mặt ở vùng đất Nam Bộ khá lâu đời. Nếu căn cứ theo những di chỉ cư trú và di cốt của con người ở Óc Eo, Ba Thê, Núi Nổi… th́ từ cách đây 4.000 đến 5.000 năm, con người đă có mặt ở vùng đất c̣n chứa nhiều nước mặn, śnh lầy, cây dại và dă thú này; đồng thời họ cũng để lại nhiều dấu ấn văn hóa khá đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực nhất là ở vùng tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của nền văn minh ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng khởi lên khoảng vài trăm năm rồi bị ch́m lấp trong ḷng đất miền Tây, với những h́nh ảnh hư ảo c̣n lại của một vương quốc Phù Nam, hay một "nước Chí Tôn" trong sử sách, bia kư cổ.
Công cuộc mở đất phương Nam, khẳng định vùng văn hóa phương Nam, chỉ thật sự định h́nh từ những cuộc di dân lớn của người Việt ở TK XVI và đầu TK XVII. Đó là quá tŕnh di dân tự nhiên, quá tŕnh di dân cơ chế và quá tŕnh chuyển cư tại chỗ. Quá tŕnh di dân tự nhiên là quá tŕnh di dân lẻ tẻ, chưa đủ để định h́nh bản sắc văn hóa của vùng đất. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành những cuộc di dân cơ chế lớn từ vùng Ngũ Quảng vào, kết hợp với sự di dân cơ chế sau thất bại của nhà Minh trước triều Măn Thanh (do Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu cầm đầu), cùng với việc di dân cơ chế trước TK XV của những lớp cư dân cổ Khơme đến từ nhiều vùng trên đất nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông Hậu để tránh họa diệt tộc của vua chúa Xiêm La, và sự di dân cơ chế của người Chăm Hồi giáo đến vùng Châu Đốc, kết hợp với quá tŕnh chuyển cư tại chỗ của cộng đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn hóa mang bản sắc Nam Bộ mới thật sự h́nh thành. Chính nhờ quá tŕnh chuyển cư tại chỗ, mới có việc thúc đẩy sự gần gũi giữa các nhóm dân cư, giữa các cộng đồng dân tộc, mới làm xuất hiện những điều kiện khách quan, tạo nên những tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng người có những đặc trưng văn hóa khác nhau, làm nên tính chất địa văn hóa, địa kinh tế của một vùng đất châu thổ phương Nam rộng lớn. Đó chính là một vùng văn hóa trẻ, phong phú, đa dân tộc, đa tôn giáo và đa màu sắc (ở đây chúng tôi không có ư định đi sâu t́m hiểu vấn đề này).
Muốn t́m hiểu đặc trưng vùng văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con người làm trung tâm để xem xét. Bởi v́ con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành động, tác động sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc, hội họa, lễ hội và phong tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc người cùng chung sống trên nền địa địa lư tự nhiên của vùng phù sa cổ miền Đông và vùng phù sa mới miền Tây Nam Bộ, mà tâm lư tính cách bị chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lư, kinh tế - xă hội và quá tŕnh phức hợp của nó theo từng bước phát triển của vùng dân cư rộng lớn này. Tất nhiên, chúng ta không thể phân chia rạch ṛi từng vùng văn hóa trên cả nước, nhưng căn cứ vào những đặc điểm văn hóa khu biệt nhất định, chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa Nam Bộ để làm tiêu chí xem xét.
Theo đó, nhiều nhà nhân chủng học, dân tộc học… đều có chung nhận định tương đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ, tựu trung gồm những nét chính sau đây: hào hiệp trong cuộc sống, b́nh đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ.
Ca dao dân ca Nam Bộ là bộ phận hợp thành của một phần văn hóa các tộc người chung sống trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, nó có sự ảnh hưởng, giao lưu và hội nhập lẫn nhau rất lớn; chính v́ vậy, theo thời gian, nó càng ngày càng phát triển với một diện mạo đặc trưng, tương đối khu biệt so với các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau trong cả nước. Chẳng hạn: dân ca Tây Bắc thường có đường nét giai điệu mềm mại, tiết tấu khoan thai, như các điệu hát Sli, hát lượn, hát x̣e hoa...; dân ca Tây Nguyên thường có đường nét giai điệu mạnh mẽ, tiết tấu nhanh, dồn dập...; dân ca Trung Bộ thường chậm, buồn, thiết tha, man mác với các điệu ḥ hụi, ḥ khoan, lư hoài nam.... Dân ca Nam Bộ là tổng ḥa của nhiều tính cách, tạo thành những mới lạ trong giai điệu, tiết tấu cũng như trong ca từ - mà chỉ riêng hát lư đă chứng tỏ sự giàu có đến vô cùng tận, từ lư con cóc, lư con nhái, lư con cá trê, lư con chuột, lư con mèo, lư đương đệm, lư cái phảng, lư cây ổi, lư cây bần, lư chim quyên, lư b́nh vôi, lư bờ đắp, lư hố mơi, lư bốn cửa quyền, lư cá ông, lư con kiến, lư con cua, lư con khỉ, lư bánh canh, lư bánh ḅ, lư ba xa kéo chỉ, lư trái mướp, lư lựu lê, lư con sáo, lư con ngựa, lư lu là, lư tú lư tiên, lư úp lá khoai, lư cây khế, lư kêu đ̣… và… độc đáo tới mức… có luôn cả lư chun mùng (lư cánh cửa). Rồi th́ ḥ Nam Bộ. Có ḥ trên cạn, ḥ dưới nước, ḥ đối đáp, ḥ huê t́nh. Rồi lại c̣n hát ru, hát đưa linh… Cả một kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ đồ sộ đến choáng ngợp. Tất cả vẫn đang tồn tại trong dân gian và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong dân gian. Muốn đến được với kho tàng phong phú và đồ sộ ấy, chúng ta nhất thiết phải đi sâu vào thâm nhập cuộc sống của nhân dân, của cộng đồng các tộc người Nam Bộ. Và tất nhiên, chúng ta cũng cần phải có phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương, tùy theo giác độ tiếp cận và lợi ích của từng ngành khoa học. Theo đó, có thể coi khâu sưu tầm là cái bắt đầu của mọi cái bắt đầu. V́ vậy chúng ta cần phải đề ra một số phương hướng như sau:
1. Phân vùng và t́m kiếm sự h́nh thành các vùng văn hóa dân gian địa phương. V́ văn hóa dân gian địa phương là một hệ thống chặt chẽ, phát triển trong tiến tŕnh lịch sử của dân tộc, nhưng đồng thời nó cũng rất cụ thể, mang tính chất địa phương, tính chất vùng và tộc người, in rơ dấu ấn các thời đại, giai đoạn lịch sử.
2. T́m hiểu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian địa phương. V́ văn hóa dân gian không phải là một lĩnh vực đơn nhất mà tồn tại ở những loại h́nh cụ thể, với những tác phẩm cụ thể của nó. Loại h́nh và sự biểu hiện của loại h́nh qua những tác phẩm của nó là những cấp độ cơ bản, đơn vị cơ bản, qua đó, ta nghiên cứu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian địa phương.
3. T́m hiểu đặc thù của từng loại h́nh văn hóa dân gian ở địa phương. Những đặc thù của các loại h́nh văn hóa dân gian ở địa phương thường được biểu hiện ở các dấu hiệu đề tài, h́nh thức chức năng sinh hoạt. Các dấu hiệu này thường có sự liên quan chặt chẽ với nhau.
4. T́m hiểu sự giao lưu văn hóa của các địa phương. V́ trong quá tŕnh vận động trên hai trục không gian và thời gian, văn hóa dân gian của các địa phương luôn tác động qua lại lẫn nhau. Văn hóa dân gian ở địa phương này thu hút những tinh hoa của văn hóa dân gian ở địa phương kia và ngược lại. Quá tŕnh giao lưu văn hóa của các địa phương chịu sự tác động của những quy luật lịch sử - xă hội cơ bản.
Xuất phát từ nền văn minh sông nước, t́m hiểu văn hóa Nam Bộ, tất nhiên phải t́m hiểu nền văn minh nông nghiệp theo kiểu "làm nương rẫy". Dấu ấn của nền văn minh này để lại dấu ấn rất đậm nét trong ca dao dân ca.
Gió đưa gió đẩy
Về rẫy ăn c̣ng
Về sông ăn cá
Về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê mẹ đỡ mua tốn tiền
 
Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
 
Trên đất giồng ḿnh trồng khoai lang
Trên đất giồng ḿnh trồng dưa gang
Hỡi cô gánh nước đường xa
C̣n bao gánh nữa để qua qua gánh giùm
 
Hoa trong vườn nhà ai
Đưa làn hương ngược gió
Lẫn trong mùi cây cỏ
Anh biết t́m em đâu
                 (Phaka Kroong- dân ca Khơme)
 
Bên kia sông có một vườn dâu
Em biết đâu chính tay anh trồng
Đưa em đi con nước xuôi ḍng
Em biết không, ḷng anh xôn xao?
Anh cùng em qua sông hái dâu
Em nuôi tằm cái áo viền bâu
Áo em mặc kín đáo bít ḅng
Mọi việc phải do ḿnh yêu nhau
                      (Oum tuk- dân ca Khơme)
 
…..
 
Từ nền văn minh miệt vườn này, ta thấy xuất hiện chiếc đ̣n gánh của đồng bào Khơme có hai mấu ở hai đầu. Nó không chỉ để gánh, nó c̣n là thứ vũ khí để chống đỡ khi cần; và khi mệt mỏi v́ công việc, nó c̣n là chiếc ghế để ngồi rất đắc dụng. Chính cộng đồng các tộc người cùng chung lưng mở đất, biến vùng đất phù sa mới trầm thủy thành nền văn minh miệt vườn miệt ruộng, đă nổ lực mở rộng quan hệ ra phía biển, đă biến cả một vùng đất hoang sơ thành nền văn minh bản địa phát triển rất cao- trên cơ sở nền văn minh Ấn Độ giáo, có sự hội nhập với nhiều nền văn minh khác.
Thâm nhập thực tế, phải bắt đầu từ việc tiếp xúc với cộng đồng dân cư. Bởi dân cư là lực lượng sản xuất chủ yếu của xă hội, là lực lượng áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tiến hành những đổi mới trong tất cả các quá tŕnh sản xuất, là lực lượng đấu tranh xă hội và cải tạo thiên nhiên, là lực lượng xây dựng và h́nh thành những tư tưởng và lối sống mới của thời đại ngày nay. Khi tiếp xúc với các cộng đồng dân cư của khu vực, chúng ta cần phải ư thức rằng, chính dân cư là bộ phận chứa đựng nhiều đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán, những thói quen và đặc điểm về sản xuất, phụ thuộc vào những nhân tố xă hội, tộc người và điều kiện thiên nhiên của các vùng sinh thái cụ thể.
Về góc độ dân cư, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là một vùng dân cư hỗn hợp, với nhiều nguồn gốc địa phương khác nhau, đa dạng về mặt tín ngưỡng và tôn giáo, chênh lệch cách xa nhau về lối sống và phong tục tập quán, tŕnh độ phát triển xă hội và văn hóa, cũng như thói quen canh tác và phong cách làm ăn. Bốn yếu tố tộc người Việt, Khơme, Chăm, Hoa là rất quan trọng đối với việc thâm nhập thực tế để t́m vẻ đẹp của ca dao dân ca Nam Bộ, cũng như các loại h́nh nghệ thuật khác. Yếu tố tộc người và văn hóa Chăm và Mă Lai - đa đảo, yếu tố Khơme là những yếu tố văn hóa và tộc người cổ xưa nhất, đă h́nh thành ở đồng bằng sông Cửu Long từ trước TK XVII. Từ TK XVII về sau, yếu tố tộc người Việt và văn hóa Việt đă trở thành nhân tố phát triển cơ bản của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn, bên cạnh sự ḥa hợp những yếu tố của tộc người vùng ven biển nam Trung Hoa. Ngày nay, đứng về mặt toàn vùng châu thổ mà xét, th́ tính chất bao trùm và phổ cập, chính là sự ḥa hợp và phát triển của những yếu tố văn hóa của các tộc người, mà yếu tố văn hóa của tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng văn hóa của các tộc người anh em khác, vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của nhiều vùng- đặc biệt là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. V́ vậy, châu thổ sông Cửu Long, là một vùng đồng bằng duy nhất ở nước ta, về mặt dân cư và dân tộc, có những đặc trưng nổi bật, mà chúng ta cần phải lưu ư trong quá tŕnh cải cách nói chung, và quá tŕnh cải cách văn hóa nói riêng.
Tính chất hỗn hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá tŕnh xích lại gần nhau, ḥa hợp giữa các dân tộc trong khu vực, là một hiện tượng lịch sử có tính quy luật, bắt nguồn từ lịch sử di dân và sự h́nh thành những vùng sinh thái nhân văn của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn. Nó góp phần h́nh thành các loại h́nh dân cư, mà dân cư nông nghiệp là lại h́nh dân cư có số dân đông nhất; bao gồm những nhóm dân cư chuyên canh ruộng nuớc, chuyên canh lúa nổi và chuyên canh về rẫy. Bên cạnh đó, c̣n có loại h́nh dân cư thứ hai là dân cư phi nông nghiệp, bao gồm dân cư thành phố, thị tứ và nhóm dân cư buôn bán nông sản ở nông thôn (ở đây chúng ta cũng cần kể tới nhóm dân cư làng nổi sống bằng nghề cá bè, buôn bán thương hồ để xác định loại h́nh dân cư của họ). Loại h́nh dân cư thứ ba là cộng đồng dân cư, dân tộc và tôn giáo, là một đặc điểm lớn khó có vùng nào ở nước ta tồn tại trong thực tế và lịch sử. Ở Nam Bộ, dân số Khơme chiếm tuyệt đại đa số ở huyện Trà Cú - Trà Vinh và một số huyện Khác ở Sóc Trăng, Hậu Giang; người Hoa có số dân đa số tuyệt đối trong một số xă ấp ở ở Kiên Giang, Hậu Giang và Cà Mau; người Chăm có dân số tuyệt đối ở một số xă thuộc vùng Châu Đốc - An Giang.
Về góc độ tôn giáo, đạo Phật tiểu thừa hầu như là tôn giáo toàn dân của người Khơme; Hồi Giáo là tôn giáo của toàn thể người Chăm ở Châu Đốc; đạo Ḥa Hảo chiếm khoảng 78% tổng số dân tỉnh An Giang; đạo Cao Đài th́ phát triển mạnh ở Bến Tre, Long An và Tiền Giang.
Phân loại dân cư và dân tộc là hai đối tượng tổng ḥa của nhiều hiện tượng xă hội, là đối tượng của nhiều ngành khoa học xă hội, mà khi thâm nhập thực tế, chúng ta cần phải hướng tới, để có thái độ và cách thức tiếp cận tốt nhất. Điều cần xác định là việc nh́n nhận vị trí đặc biệt của cả vùng châu thổ phù sa mới rộng lớn, nơi gặp gỡ của những nền văn hóa cổ rực rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc người trong lịch sử. Đó là nơi mà các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa đă cùng cư trú bên nhau, khai thác đất đai, xây dựng cộng đồng và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc ḿnh. Đây cũng chính là những nét văn hóa chung của các cư dân Nam Á tập trung rơ nét ở châu thổ sông Cửu Long, chứng minh một cội nguồn chung và một xuất nguyên giống nhau, phản ánh trên tư duy thần thoại và truyện cổ dân gian, ca dao dân ca dân gian của các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa trên nền quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ, hay thuyết vật chất nhị nguyên tương phản; trong đó đất, nước, núi và đồng bằng, lục địa và biển, loài có cánh và và loài thủy sinh tương phản nhau. Bên cạnh đó là các tục thờ đá trong các miếu thổ thần của người Việt, miếu Ông Bổn của người Hoa và miếu Néak- Tà của người Khơme; những ngày hội nước với những tục đua ghe và những lễ nghi trong nông nghiệp vào mùa khô của người Khơme, người Chăm… Đó là dấu vết nhà sàn trong các Sala chùa Khơme, nhà người Việt vùng Đồng Tháp, An Giang. Đó là phương thức thủy lợi cổ đào ao chứa nước, như ao Bà Om của người Khơme ở Trà Vinh, ao chứa nước trong rẫy của người Hoa ở Vĩnh Châu - Bạc Liêu, cách xẻ mương, lên liếp ở các miệt vườn.
Ngoài ra, châu thổ sông Cửu Long c̣n là một vùng bán đảo chịu ảnh hưởng nặng của thủy triều và các sông rạch, con nước lớn ṛng, do đó yếu tố văn hóa biển và văn hóa Mă Lai, Inđônôdiên khá rơ nét. Cho nên người Việt vùng Cà Mau, Rạch Gá rất giỏi nghề đóng ghe xuồng và làm đồ thủ công, người Chăm giỏi nghề đánh cá trên sông… Các miếu Ông Bổn Đầu Sông và miếu Bà Thiên Hậu rải rác khắp cả vùng châu thổ đă minh chứng cho nền văn hóa biển của cả vùng đất. Bên cạnh nền văn hóa chung, mỗi dân tộc trong cộng đồng vẫn có những đặc thù văn hóa truyền thống của dân tộc ḿnh, phản ánh bản sắc văn hóa riêng. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể mà tổ tiên là những người nông dân từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ Quảng di cư vào khai thác đất đai, xây dựng làng xóm, đ́nh chùa, để lại dấu ấn của nền văn minh cây lúa nước, bằng việc đào đắp kinh mương, làm sống dậy sự trú phú của cả vùng châu thổ phù sa mới. Người Việt với những nổ lực của ḿnh trước thiên nhiên đầy những tiềm ẩn, thử thách, đă sáng tạo nên những cá tính và đặc điểm văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật chất phong phú. Như bưởi Năm Roi B́nh Minh, xoài cát Ḥa Lộc, cam Cái Bè, vú sữa Ḷ Rèn, thuốc rê Cao Lănh, mắm Châu Đốc, dừa Bến Tre, sầu riêng Chợ Lách, gạo nàng Loan Long An, mắm tôm chua, mắm tôm chà G̣ Công, nem Lai Vung… Đó c̣n là kỹ thuật dùng phảng phát cỏ, đốt rồi cấy lúa rất hợp với thiên nhiên ngập tràn cỏ năng của vùng đất. Cũng chính người Việt đă du nhập ca nhạc cung đ́nh Huế, chế ra loại h́nh văn nghệ dân gian quư báu là cải lương; rồi lại c̣n các loại h́nh nói thơ Lục Vân Tiên, thơ Thầy Thông Chánh, nói tuồng, nói vè, hô lô tô, ca ra bộ, ḥ đối đáp, hát huê t́nh… Người Việt ở đây c̣n có chiếc áo bà ba, chiếc khăn rằn và các loại mắm rất đặc trưng. Đây là những nét văn hóa Việt đă được đổi mới một phần cho thích nghi với cách ứng xử trước thiên nhiên kỳ bí của vùng đất mơi.
Bên cạnh người Việt, cư trú xem kẽ trong các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tri Tôn là đồng bào Khơme anh em. Người Khơme quần tụ trong các phum sóc được thiết lập lâu đời, trên các giồng đất cao, bao quanh các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa, giữa những hàng cây sao, cây dầu cao vút. Theo truyền thuyết, khởi nguyên người Khơme là con cháu của chim thần Garuda, có sức điều động lửa, sấm sét, có khả năng thống lănh nước, mưa, sông rạch của gịng dơi cá thần và rắn thần Nagar. Họ có một lịch sử văn hóa, nhân chủng, tổ chức xă hội và chữ viết Pali, mang ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ấn Độ, cũng như sức sáng tạo phong phú của bản thân dân tộc ḿnh.
Từ thế giới quan Phật giáo tiểu thừa, và từ tư duy lưỡng nguyên, người Khơme đă tạo nên một nền văn hóa cá biệt với những kiến trúc chùa nguy nga, với mô típ Ŕa hu, tượng tṛn, tượng bốn mặt, chim thần, rắn thần, với các dạng thức phù điêu mang cá tính và phong cách riêng.
Vốn là một dân tộc có truyền thống văn nghệ, người Khơme đă sáng tạo ra nhiều loại h́nh ca vũ độc đáo, từ điệu múa trống Xà zăm, múa vui Krap, múa gáo dừa Tro jok, múa Chằng khum- rông, đến các điệu hát A-yay trữ t́nh, hát đối đáp Prop-kay, Chằm riêng-chàpay, ca đàn kể truyện cổ, và vươn tới những h́nh thức sân khấu hoàn chỉnh như kịch múa Robăm và kịch hát Yu-kê.
Người Hoa Nam Bộ trong quá tŕnh di trú đă giản dị hóa phong tục và tín ngưỡng của ḿnh, chỉ giữ lại tục thờ thần và lệ chiêm bái. Người Hoa c̣n mang đến những nghề nghiệp thủ công truyền thống, nghề làm vườn trên giồng cát, và làm thông thương xích gần các cộng đồng địa phương lại với nhau, bằng việc cung cấp các dịch vụ bán lẻ hàng hóa nông sản. Ngoài ra họ c̣n mang đến đồng bằng châu thổ tục thờ Quan Công, Quan Âm, các tuồng Tàu, các điệu hát Tiều, hát Quảng… cùng chuẩn mực đạo đức, cách sống là những âm hưởng tàn dư những giáo điều Khổng Mạnh.
Người Chăm xuất phát từ một bộ phận người Chăm ở miền Trung di cư đến, theo chương tŕnh "tận dân vi binh" lập đồn điền của triều đ́nh nhà Nguyễn. Do những quan hệ nhiều đời với người Khơme bên cạnh người Java mà người Chăm Nam Bộ có những nét văn hóa riêng, tuy vẫn giữ lại truyền thống xây gạch, tổ chức xă hội theo Hồi giáo với ông HaKim (như xă trưởng), thánh đường, tháng ăn chay Ramadan và đọc kinh Coran.
Người Chăm sống ở Châu Đốc theo đạo Islam. Đạo Islam chi phối toàn bộ sinh hoạt, phong tục, cho đến cách phân bố pḥng ở, cách trang phục. Trang phục của người Chăm Châu Đốc rất kín đáo, hầu như che phủ, giấu kín cơ thể càng nhiều càng tốt. Với truyền thống văn hóa lâu đời của ḿnh, người Chăm đă sáng tạo nên một kho tàng văn nghệ rất phong phú về nội dung, về cấu trúc, h́nh tượng. Đó là ca dao (Pa nược - Pa dít), hát giao duyên (Ađtọh Atăm, Tàrà), hát trữ t́nh ân ái (Ađtọh Mưzút), hát ống (Ađtọh Đing), hát đố (Ađtọh Padao), vè (Ariya),gia huấn ca (Ariya Patoa Pakay), ngâm (Harí Ariya), xướng trường ca, anh hùng ca (Ămpăm), các điệu ḥ xay lúa, giă gạo (Ađtọh Raxunxa), ḥ đám ma (Ađtọh Tămmưtờri- Ađtọh Kamưrơ), hát ru em (Ađtọh Ru Anứk), đồng dao (Ađtọh Raneh)… Tuy nhiên, theo giáo lư kinh Coran, người Chăm vẫn cho rằng âm nhạc và lời ca tiếng hát làm mê hoặc tâm linh con người, làm con người sa ngă theo dục vọng, không c̣n đủ trí sáng suốt để suy gẫm lời kinh. Bởi vậy họ ngăn cấm hát xướng, nhất là các loại hát ḥ huê t́nh của nam nữ. V́ giới luật của Hồi giáo ngăn cấm, nên sinh hoạt văn nghệ dân gian của người Chăm Châu Đốc không phát triển hơn được nữa. Để bù đắp vào chỗ sinh hoạt văn nghệ bị g̣ bó, người Chăm ở Châu Đốc đă cố công xây dựng một hệ thống văn học dân gian với đủ loại truyện kể. Đây là công đóng góp của người Chăm Châu Đốc vào kho tàng văn học dân gian của châu thổ phù sa mới Nam Bộ.
 
 
Hồ Tĩnh Tâm
(Theo Vietnam.net)

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18