- Nghề buôn xưa qua tục ngữ,
ca dao
Nghề buôn từ xưa không được các triều đại phong kiến xem trọng.
Chẳng những vậy, xă hội Việt Nam thời phong kiến c̣n xem thường
những người làm nghề buôn bán. Họ gọi những người này là phường
con buôn, bọn con buôn... V́ lẽ đó, nghề buôn đă không phát
triển trong thời phong kiến ở Việt Nam.
Ngày xưa, người ta quan niệm rằng muốn tiến thân không có con
đường nào khác ngoài con đường khoa cử. Chỉ có ở khoa cử mới làm
nên danh giá con người, nâng bậc vị trí con người trong xă hội,
mặc dù ai cũng biết rằng “phi thương bất phú”. Nhưng việc
làm giàu do buôn bán lại không được xem trọng. Những người Nho
học coi khinh việc làm giàu bằng con đường buôn bán, bởi v́ họ
quan niệm, làm giàu bằng nghề buôn là lừa gạt, là bất nhân, “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú”.
Sau này nghề buôn được đánh giá cao hơn, được xă hội xem trọng
hơn. Chuyện buôn bán và kinh nghiệm đă được người xưa đúc kết
trong rất nhiều tục ngữ, ca dao. Trước tiên, muốn buôn bán trước
hết phải có vốn “có bột mới gột nên hồ”. Lúc đầu vốn ít
th́ buôn bán nhỏ, sau này tích lũy được vốn nhiều th́ buôn bán
to. Nhưng có vốn lớn không phải là tất cả, mà người bán c̣n phải
biết cách buôn bán, buôn bán sao cho lời nhiều, muốn vậy th́
phải biết “buôn tận gốc, bán tận ngọn”. Muốn vậy phải
chịu khó đi xa, đến tận nơi để bán th́ mới bán được giá, chứ bán
sang tay cũng chẳng lời nhiều. Ban đầu, nếu chưa có vốn th́ đành
chấp nhận cảnh “buôn gánh bán bưng”, “buôn thúng bán
mẹt”, “buôn ngược bán xuôi”, thậm chí “buôn đầu
chợ, bán cuối chợ”, phải chịu vất vả “buôn Sở bán Tần”,
hoặc:
Nửa đêm ân ái cùng chồng
Nửa đêm về sáng gánh gồng ra đi.
Vốn ít th́ đành phải vất vả, chủ yếu là lấy công làm lời rồi sau
đó mới tích lũy dần thành vốn to. Đó c̣n chưa kể lúc gặp phải
cảnh “chợ chưa họp kẻ cắp đă đến”. Việc buôn bán đâu phải lúc
nào cũng “xuôi chèo mát mái”, “mua may bán đắt” mà thất thường
từng lúc như “buôn trầu gặp nắng, buôn đàng gặp mưa”, hoặc:
Đắt hàng những ả cùng anh
Ế hàng gặp những thong manh quáng gà.
- Chợ lợn ở miền Bắc. Ảnh: TƯ LIỆU(BacKy54)
Kiếm được đồng tiền đâu phải là chuyện dễ, nhiều khi phải đổ mồ
hôi, sôi nước mắt chứ chẳng phải chuyện chơi. Nhưng như thế vẫn
c̣n đỡ hơn những kẻ “bán mồm nuôi miệng”, “ăn như rồng
uống, uống như rồng leo, làm như mèo mửa” hoặc giả những kẻ
không làm được việc ǵ mà chỉ toàn khoác lác kiểu “bán trời
không mời Thiên lôi”, “bán nắng cho trời, bán sấm cho
Thiên Lôi”, nhưng thực ra chẳng làm được tṛ trống ǵ.
Khi đă chịu khó “buôn gánh bán bưng” một thời gian, tích
lũy được số vốn lớn, người ta sẽ chuyển sang buôn bán lớn, bởi
v́ chỉ có buôn bán lớn mới có được lời to. Nhưng người buôn bán
cũng phải dè chừng, bởi v́ “thuyền lớn th́ sóng lớn”, do
đó người buôn bán phải tính toán kỹ, phải lao tâm khổ tứ nhiều
việc so với lúc đầu buôn bán nhỏ:
Ông cả nằm trên sập vàng, cả ăn cả mặc, lại càng cả lo
Ông bếp nằm trong xó tro, ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm.
Nghệ thuật trong buôn bán ngoài việc biết chọn loại hàng c̣n
phải biết chọn địa diểm để buôn bán. Đó là những nơi phải thuận
lợi cho người tiêu dùng đến mua, “nhất cận thị, nhị cận giang”.
Buôn bán ở chợ có đông đúc người qua lại, gần sông, nơi tấp nập
người lên kẻ xuống th́ mới có thể “buôn gặp chầu, câu gặp chỗ”,
“buôn một bán mười”... Bên cạnh đó, người đi buôn cũng
không nên đi buôn bán một ḿnh v́ dễ bị chèn ép về giá cả, mà
phải “buôn có hội, bán có thuyền”.
Những người buôn bán khôn ngoan th́ chẳng bao giờ “mua trâu,
bán chả”, “mua vải bán áo” - nghĩa là đầu tư lớn
nhưng thu lời về nhỏ giọt, không tương xứng với số vốn đă bỏ ra.
Hoặc giả, buôn bán mà không biết nghiên cứu thị trường, không
biết t́m hiểu sở thích của người tiêu dùng th́ chẳng khác nào “bán
quạt mùa đông, buôn hồng mùa hè”. Do đó, buôn bán ngoài việc
có đồng vốn, có nghệ thuật buôn bán c̣n phải có kinh nghiệm nữa.
Chẳng hạn như, “bán gà kiêng ngày gió, bán chó kiêng ngày mưa”
v́ thời tiết ấy bán không được giá... Buôn bán th́ phải nghĩ đến
đồng lăi, nhưng “ăn lăi tùy chốn, bán vốn tùy nơi” để c̣n
giữ mối làm ăn lâu dài. Hoặc giả, “trong vốn th́ nài, ngoài
vốn th́ buôn” để làm sao vừa thu được lời vừa không làm mất
khách.
Muốn ǵ th́ muốn, trong việc buôn bán phải biết tính toán, không
những thế mà c̣n phải tính kỹ nữa, bởi v́ “lộn con tán bán
con trâu”, “bút sa gà chết”; không nên “bán ḅ tậu
ễnh ương, bán ḅ mua dê về cày”, “mua quan tám, bán quan
tư”. Và điều quan trọng nữa là phải biết tiết kiệm, chứ
không phải “có đồng nào xào đồng ấy”, “bóc ngắn cắn
dài” th́ có ngày cũng sập tiệm, có khi phải “bán vợ đợ
con” để trả nợ. Cho nên, từ ngày xưa ông bà ta đă dạy “buôn
tàu, bán bè không bằng ăn dè hà tiện”. “Hà tiện mới giàu,
cơ cầu mới có”, “năng nhặt chặt bị” đă tích lũy được
nhiều tiền rồi th́ phải biết dùng số vốn đó để đầu tư thêm cho
công ăn việc làm để sinh thêm đồng lời nữa. Bởi v́ “tiền
trong nhà tiền chửa, tiền ra cửa tiền đẻ” c̣n nếu không th́
cũng chẳng qua là “tiền dư thóc mục”.
Ngay từ xa xưa, ông cha ta đă biết coi “khách hàng là thượng
đế” rồi. V́ vậy, người ta thường rỉ tai nhau “bán hàng
chiều khách”, “bán rao chào khách”. Người buôn bán
nét mặt phải tươi cười, nói năng phải nhỏ nhẹ, ḥa nhă, khéo léo
chiều khách để vừa ḷng khách, để “vui ḷng khách đến, vừa
ḷng khách đi”, bởi v́ “lời nói quan tiền, thúng thóc”,
chứ không ai bán hàng mà lại nói với khách theo kiểu “bầu dục
chấm mắm cáy” th́ buôn bán làm sao thành công được. Bên cạnh
đó, người buôn bán rút ra kinh nghiệm “bán chịu mất mối hàng”,
cách tốt nhất trong buôn bán là “tiền trả mạ nhổ”, “tiền
trao cháo múc”... trừ những mối làm ăn lâu năm, có uy tín
th́ họa may c̣n cho thiếu chịu được, chứ ngoài ra th́ không nên.
Trong buôn bán người xưa cũng khuyên không nên “bán hàng nói
thách, làm khách trả rẻ” mà chỉ nên “thuận mua vừa bán”
để giữ được khách để mà làm ăn lâu dài, bởi v́ “quen mặt đắt
hàng”.
Trong những t́nh huống làm ăn không thuận lợi, th́ kinh doanh
trong nhiều trường hợp phải biết chấp nhận thất bại, chấp nhận
lỗ để tuôn hàng ra mà sớm thu hồi đồng vốn về, v́ vậy, có những
trường hợp ngoài ư muốn th́ người kinh doanh phải biết “bán
rẻ c̣n hơn đẻ lăi”, “chẳng được ăn cũng lăn được vốn”
chứ không phải chỉ biết ngâm hàng đợi đến lúc giá lên.
Một điều quan trọng trong buôn bán làm ăn là phải biết giữ chữ
tín chứ không thể “ăn xổi ở th́” được. Thiếu nợ th́ phải
trả nợ, nói một là một, hai là hai, mua chịu phải nhớ, chứ không
nên ăn quịt:
Mất trâu th́ lại tậu trâu
Những quân cướp nợ có giàu hơn ai.
Muốn làm ăn lâu dài với nhau th́ đừng quên “có qua có lại mới
toại ḷng nhau”, chứ không phải chỉ bo bo thủ lợi một ḿnh.
Bên cạnh đó, người buôn bán cũng phải biết giữ đạo đức trong
kinh doanh. Không thể chấp nhận một ai đó làm ăn theo kiểu “treo
đầu dê bán thịt chó”, “bán mướp đắng giả làm bầu”, “bán
mạt cưa giả làm cám”...
Đâu phải chỉ có việc người bán mới cần có kinh nghiệm, mà người
mua cũng cần phải có kinh nghiệm, có nghệ thuật mua nữa, nếu
không sẽ mua lầm, sẽ chịu cảnh “tiền mất tật mang”. Hoặc
không khéo th́ “tiền chinh mua cá thối”, chỉ có những kẻ
dại dột mới:
Vàng mười chê đắt không mua
Mua lấy vàng bảy thiệt thua trăm đường.
Các mặt hàng phổ biến ngày xưa đều được người tiêu dùng truyền
đạt kinh nghiệm để mà lựa chọn cho được miếng ngon, hàng tốt:
Mua thịt th́ chọn miếng mông
Lấy chồng th́ chọn con tông nhà ṇi.
Hoặc:
Mua cá th́ phải xem mang
Mua bầu xem cuống mới toan không lầm.
Hay: “mua trâu xem sừng, mua chó xem chân”. Thường thường
th́ “mua nhầm, bán không nhầm” cho nên người mua phải cẩn
thận, lựa chọn kỹ, phải biết mặc cả, biết thêm bớt để “mua
th́ thêm, nêm th́ nhặt”...
Ca dao, tục ngữ nói lên những kinh nghiệm, những nghệ thuật,
những phương thức... kinh doanh của cha ông. Lẽ dĩ nhiên, mỗi
thời mỗi khác, việc kinh doanh ngày nay không giống như ngày xưa,
nhưng những ǵ được lưu truyền qua ca dao, tục ngữ sẽ măi măi là
bài học hữu ích đối với những ai quan tâm đến chuyện kinh doanh.
Trần Quang Diệu
* Những câu tục ngữ - ca dao dẫn trong bài được trích từ “Doanh
nghiệp Việt Nam xưa và nay” của tác giả Lê Minh Quốc. NXB Trẻ -
2004.