Nhu cầu truyền đạt, diễn tả tâm t́nh của các sinh vật, kể cả
con người, là nhu cầu không thể thiếu . Các sinh vật dù nhỏ
như con kiến cũng biết ra dấu chỉ cho nhau chỗ kiến thức ăn
. Giống chim –theo các nhà nghiên cứu về chim – có những
loài hót được năm bảy bài. Không phải tự nhiên chúng hót
được mà phải đi học và t́m thầy để học .
Về nhân chủng học, thời t́ền sử trải qua mấy triệu năm, con
người cũng giống các sinh vật khác, chưa biết nói, “Nhưng
rồi vào khoảng 80 – 100 ngàn năm trước đây, tiếng nói xuất
hiện trong loài người và dần dần vưọt lên trên những tiếng
hét v́ hốt hoảng và những tiếng gào thét thất thanh báo nguy
hay kêu gọi, để có thể thành được những lời truyền dạy cho
người lớn, bảo ban trẻ con mà giữ lấy những kinh nghiệm và
kỹ thuật sống c̣n trong thiên nhiên ác nghiệt .’’ (Trần ngọc
Ninh, Ước Vọng Duy Tân, trg 58). Giáo sư cổ sinh vật học và
sự tiến hoá của con người Paul Mellards tại Đại Học
Cambridge căn cứ vào những đồ vật đào được ở Do Thái và giáo
sư ngôn ngữ học Philip Lieberman của ĐH Brown nghiên cứu về
sự tiến hoá của miệng, lưỡi, thanh quản con người đều cho
rằng con người biết nói khoảng trên 100 ngàn năm nay .
Nhờ biết nói, con người truyền lại cho nhau những kinh
nghiệm sống từ đời này đến đời khác :
Hầu hết tục ngữ ca dao do người b́nh dân ít học sống nơi
thôn quê sáng tác nên gọi là văn chương b́nh dân . Nhưng
không phải tất cả do người b́nh dân sáng tác mà trong đó có
thể do những người học chữ Nho nhưng không đậu đạt để được
làm quan . Họ trở thành thầy đồ, thầy thuốc, thầy bói …
sống hoà vào cuộc sống của giới b́nh dân làm ra nên thỉnh
thoảng – khoảng một, vài phần ngàn – có những bài ca
dao mang tư tưởng đạo Nho hay dùng chữ Nho :
-Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi,
Nằm trâu thổi sáo vui đời Thuấn, Nghiêu .
-Công anh đắp nấm, trồng chanh,
Chẳng được ăn quả, vin cành cho cam .
Xin đừng ra dạ bắc, nam,
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề .
Huống tam thu như bất kiến hề,
Đường kia, nỗi nọ như chia mối sầu .
-Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Làm tôi, v́ chúa sửa sang cơi bờ . (Câu đố : cái liềm có
h́nh cong)
Ngoài ra, cũng có nhiều câu thành ngữ, ca dao lấy ra từ
những câu thơ hay hoặc từ những nhân vật tiểu thuyết nổi
tiếng trong các tác phẩm văn chương bác học của nhà văn, nhà
thơ :
-Thương người như thể thương thân ( Gia Huấn Ca của cụ
Nguyễn
Trăi) .
-Đồ sở khanh (nhân vật trong truyện Kiều của cụ Nguyễn
Du) .
-Máu Hoạn Thư (truyện Kiều) .
-Cô kia tát nước bên đàng,
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ? (Từ bài thơ Tiếng Hát
Trong Trăng
trong tập thơ “Tiếng thông reo” của thi sĩ Bàng bá Lân xuất
bản năm
1935)
Hoặc do hứng từ nhân vật trong các truyện nổi tiếng, người
ta tạo ra những câu ca dao :
-Đêm khuya trời lạnh, sương im,
Tai nghe tiếng nhạc chàng Kim tới gần .
-Đi ngang trước cửa nàng Kiều,
Dừng chân đứng lại dặt d́u đôi câu . (Ca dao Nghệ An, Hà
Tĩnh)
-Sen xa hồ, sen khô sen cạn,
Liễu xa đào, liễu ngả liễu nghiêng .
Anh xa em như bến xa thuyền,
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi .
-Vân Tiên cơng mẹ trở ra,
Đụng phải cột nhà, cơng mẹ trở vô .
Vân Tiên cơng mẹ trở vô,
Đụng phải cái bồ, cơng mẹ trở ra .
Nhưng có lẽ văn chương b́nh dân ít mượn hay lấy ư từ văn
chương bác học, ngược lại có những nhà thơ mượn ư hay lấy cả
câu trong tục ngữ ca dao đem vào tác phẩm của ḿnh . Ngay
từ những cuốn truyện thơ đầu tiên như Trê Cóc, Trinh Thử vào
thời nhà Trần, khoảng thế kỷ thứ 13, 14, đă dùng nhiều tục
ngữ ca dao :
Trong Trê Cóc :
–Một tội mất, mười tội ngờ,
Biết đâu mà khéo tri hô hỏi dồn . (Câu 41, 42)
–Nghiến răng chuyển chín phương trời,
Ai ai mà chẳng rụng rời sợ kinh . (Câu 51, 52)
(Dương quảng Hàm,VN Thi Văn Hợp Tuyển, Bộ QGGD tb 1957,
trang 13)
Về vấn đề này chúng ta nên có những dè dặt . Với
văn chương bác học, hầu hết các tác phẩm được ghi trên sách
vở, có tác giả, có thời gian c̣n văn chương b́nh dân truyền
miệng từ đời này qua đời khác, không biết rơ được ra đời vào
lúc nào nên có nhiều câu chúng ta không biết văn chương bác
học mượn của văn chương b́nh dân hay văn chương b́nh dân
mượn của văn chương bác học.
Hai câu thơ của thi sĩ Bàng bá Lân đă ghi trên , ngoài miền
Bắc sau năm 1954 được đem giảng dạy trong trường học là ca
dao và một hai nhà nghiên cứu lịch sử văn học ở miền Bắc ghi
là ca dao . Trong Văn Hoá Nguyệt San của Bộ Quốc Gia Giáo
Dục (phía Quốc Gia) cũng ghi là câu ca dao như sau :
-Cô kia tát nước bên đàng,
Sao cô mang ánh trăng vàng đổ đi ?
Hay lưu truyền trong dân chúng :
-Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
Nếu thi sĩ Bàng bá Lân không lên tiếng xác nhận trong Giai
Phẩm Hoàng Hoa (nhà xuất bản Nhân Loại ấn hành tháng 9/1952)
th́ không ai biết đó là thơ đã biến thành ca dao :
“Gần đây tôi vừa được đọc Văn Hoá Nguyệt San do Bộ Quốc Gia
Giáo Dục Xuất Bản. Trong số I, bài Lời Nói Đầu có nói đến
một câu ca dao :
-Cô kia tát nước bên đàng,
Sao cô mang ánh trăng vàng đổ đi ?(*)
Đọc câu đó tôi vừa sung sướng vừa ngại ngùng . Sung sướng
v́ thấy những câu thơ của ḿnh làm từ hồi ḿnh c̣n trong
trắng đă dần dần rời bỏ tập thơ để nhập vào hàng ngũ những
vần thơ của dân tộc, của đất nước … . Ngại ngùng v́ những
vần thơ được truyền tụng kia cứ sai dần măi “ .
Tập thơ Tiếng Thông Reo xuất bản năm 1935, chưa đầy 20 năm
sau, những câu thơ trong đó đă thành ca dao và biến dạng đến
nỗi các cơ quan văn hóa của cả chính quyền cộng sản lẫn quốc
gia đều ghi là ca dao và ghi khác nhau, nói ǵ đến những tác
phẩm ra đời từ năm, bảy trăm năm trước làm sao phân biệt
được (đâu là tục ngữ ca dao, đâu là thơ) .
Phạm Hy Sơn
——————–
Ghi chú
(*) Nguyên văn bài thơ Trăng Quê trong tập thơ Tiếng
Thông Reo xuất bản tháng 12 năm 1934 như sau :