Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
   

 

 

 

Trần thị LaiHồng
Tranh minh họa của Vơ Đ́nh
 
TRUNG THU
và NGÀY NHI ĐỒNG VIỆT NAM
 
 
NHI  ĐỒNG  TRONG  CA  DAO
 
                                                                                                      
Cội nguồn tinh hoa văn hóa dân tộc nằm trong ca dao, kho tàng vô giá của văn học.  Theo định nghĩa của Ban Văn học Hội  Khai Trí Tiến Đức, qua tập Việt Nam Tự Điển do Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội  năm 1931, ca dao là những câu hát phổ thông trong dân gian: ca là những bài hát thành khúc, dao là những câu hát ngắn độ một vài ḍng.
 
Xưa Đức Khổng Tử suốt đời chu du thiên hạ mong gặp cơ hội thực hành chính giáo giúp người đời sống an b́nh hạnh phúc, nhưng đă gặp từ thất vọng này tiếp thất vọng khác, ngót bảy mươi lui về quê cũ dạy học, sọan kinh sách, san định Kinh Thi, là tập sách ghi lại những bài thơ dân gian, hầu hết tác giả khuyết danh, tức là những bài ca dao.  Vị thầy của hàng vạn thế hệ - Vạn Thế Sư Biểu - cuối đời đă quyết dùng nghệ thuật thi ca hạ tầng cơ sở để giúp người đời tu thân tạo đức, xây dựng căn bản gia đ́nh, xă hội và nhân loại.
 
Rằm tháng Tám âm lịch, Trung Thu, Ngày Nhi Đồng Việt Nam, nghĩ đến những thế hệ trẻ mới ra đời, vừa vào đời, vừa có gia đ́nh và sẽ tiếp nối ḍng dơi giống ṇi, lần giở kho tàng văn hóa dân tộc trong ca dao, sưu tầm đặc biệt những câu liên hệ đến trẻ thơ, tôi ước mong góp phần giúp giới trẻ có cơ hội tiếp nối truyền đạt và ǵn vàng giữ ngọc. Bài này gồm hai phần: Ca dao qua những điệu ru, và những tṛ chơi trẻ con qua ca dao , đồng dao.
 
 
ĐIỆU RU CA DAO
 
Tôi yêu tiếng nước tôi
Từ khi mới ra đời
Mẹ hiền ru những câu xa vời
ạ à ơi …  tiếng ru muôn đời …                             
 (Phạm Duy, T́nh Ca)
 
 
 
 
Điệu ru ca dao với âm hưởng tiếng mẹ là cánh tay yêu thương âu yếm ôm ấp, là tấm chăn ấm áp ấp ủ, là làn gió mát dịu dàng mơn man, mang ước vọng trang bị tâm thức trẻ thơ từ khi vừa mới chào đời, thấm nhuần cách ăn lối ở, hiểu biết cách xử thế, trau dồi ư chí và nghị lực, để khi trưởng thành có thể sống trong thanh thản an b́nh hạnh phúc.
 
Thế giới tràn đầy điệu ru, từ những bộ lạc bán khai khuất lấp sau những cánh rừng già hoang vu, cho đến những quốc gia xưa cổ có nền văn minh sáng chói quanh Địa Trung Hải, Đại Tây dương, Ấn Độ Dương hay Thái B́nh Dương, và ngay cả đến những quốc gia văn minh hiện đại với vũ khí hạch nhân và hỏa tiễn liên hành tinh liên lục địa.
 
T́m hiểu về những điệu ru, được biết măi đến cuối năm 1930, nước Anh mới bắt đầu ghi nhận giá trị những điệu ru con và cố công thu thập, khuyến khích thực hiện. Từ bấy đến nay, có rất nhiều băng cũng như đĩa nhạc ru con.  Bài ru gốc Đức nhạc Brahms tựa đề Brahm’s Lullaby bắt đầu bằng Guten Abend, gute Nacht … lời ru ca ngợi hương sắc hoa hồng hoa huệ và nói đến những thiên thần che chở trẻ thơ yên ngủ giấc lành. Đĩa nhạc Lullaby Magic của Joanie Bartels cũng hát những lời ca tụng thiên nhiên, ca tụng trăng sao theo nhạc cổ điển Morart, Brahms, và nhạc rock The Beatles …  Đĩa Honest Lullaby của Joan Baer có nhắc nhở xưa được mẹ ru, hoặc nói về t́nh thương yêu của mẹ. Nhưng phải xác nhận không quốc gia nào có những điệu ru ca dao phong phú như tại Việt Nam.
 
Chỉ có trẻ sơ sinh Việt Nam khi vừa mở mắt chào đời đă được chính người mẹ và những người thân trong gia đ́nh dẫn dắt vào ḍng văn học dân gian bằng những điệu ru đong đưa theo vơng nôi kẽo kẹt.  Nghệ thuật thi ca bắt nguồn từ văn hóa mẹ được truyền đạt, d́u dắt tâm hồn trẻ thơ vào nền giáo huấn căn bản của con người, thấm đậm vào tâm thức vào tim óc vào máu thịt vào hơi thở vào giọng cười hạnh phúc và cả tiếng khóc đau thương.
Qua lời mẹ ru, trẻ vỡ ḷng t́nh yêu quê hương :
 Ạ ơi ời …  à ơi
Con chim bay lưng trời c̣n có tông có tổ
Con cá lội giữa ḍng nước vẫn có lổ có hang
Người trên đời có tổ quốc giang san
Tinh thần ư chí phải nhịp nhàng với non sông
Uống nước ta phải nhớ nguồn
Thấy non sông rộng nhớ ơn cao dày
 
Và tri ân những anh hùng liệt nữ có công giữ ǵn đất nước :
Ạ ơi ời … à ơi …
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mă xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành
Đô kỳ đóng ở Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đ́nh nước ta
Ạ ơi ời … à ơi …
 
Ru con, con ngủ an lành
Cho mẹ gánh nước rửa bành con voi
Ạ à ạ ơi …
Muốn coi lên núi mà coi
Noi gương bà Triệu cỡi voi đánh cồng …
 
Qua lời ru, mẹ dạy con t́nh đồng bào :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn …
đạo nghĩa làm người con hiếu thảo :
Ru hời ru hỡi là ru…  à ơi  ...
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi ḷng con ơi !
 
 
 
 
Mẹ ngồi ru con, đong đưa vơng buồn giọt lệ rưng rưng tự nhắc ḿnh về ơn nghĩa sinh thành dưỡng dục :
Có con, mẹ nghĩ thương thay
Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau …
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ  …
 
Mẹ than thở với con thơ :
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau chín chiều
 
Qua lời mẹ ru, trẻ biết cảnh gia đ́nh có cha đi xa :
Đêm khuya trăng tà, mẹ ru con ngủ … ạ à ạ ơi …
Ngoan ngoan con nhoẻn miệng cười
Thương con, mẹ tưởng như đời nở hoa … ạ à ạ ơi …
Sương nắng miền xa, con ơi, cha con sương nắng miền xa
Mong sao con trẻ quê nhà được vui …
 
Mẹ thở than cùng con :
Ru con, con ngủ cho rồi
Mẹ ra chỗ vắng mẹ ngồi mẹ than
Miệng ru mắt nhỏ hai hàng
Nuôi con càng lớn mẹ càng lo thêm …
 
Con c̣ mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao !
Ông ơi, ông vớt tôi nao
tôi có ḷng nào ông hăy xáo măng
Có xáo th́ xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau ḷng c̣ con …
 
Cái c̣ cái vạc cái nông
Sao mày dậm lúa nhà ông hỡi c̣
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin th́ ông đi dôi
Mẹ con nhà nó c̣n ngồi đây kia …
 
Bài ru con được phổ biến rộng răi trong Nam c̣n kèm điệu đàn bầu thiết tha áo năo :
Gió mùa Thu, mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy, là năm canh chầy, thức đủ vừa năm
Nín, nín đi con !  Con nín, nín đi con !
Con hỡi, con là hời !
Con hỡi con hời !
Hỡi chàng là chàng à ơi !
Hỡi người là người à ơi !
Em nhớ tới chàng !  Em nhớ tới người !
Hăy nín, nín đi con !  Hăy ngủ, ngủ đi con !
Con hỡi con hời …  Con hỡi con hời …  hỡi con !
 
 
 
 
Ngoài mẹ hiền, trẻ thơ c̣n được bà nội bà ngọai truyền ru để biết nết ăn thói ở trong gia đ́nh :
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về
Bắt được mười tám mười chín con trê
Cắm cổ lôi về cho cái ngủ ăn
Cái ngủ mày ăn chẳng hết
Để dành đến Tết mồng ba …  à ơi à … à ạ ơi …
 
À ơi …  cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày …
 
Bà nội bà ngọai cũng ru cháu bằng những lời nhắc nhở :
Ạ à ơi … ơi à ạ ơi …
Có cha có mẹ th́ hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt giây
Đờn đứt giây c̣n xây lại nối
Cha mẹ chết rồi con phải mồ côi
Mồ côi khổ lắm con ơi
Đói cơm không ai giúp, lỡ lời chẳng ai bênh !
 
Ạ ơi ời … ạ ời ơi …
C̣n cha gót đỏ như son
Mất cha gót mẹ gót con lấm bùn
 
Ru hời ru hỡi là ru …
Mất cha con cũng u ơ
Mất mẹ con cũng bơ vơ một ḿnh
 
Cũng có những trường hợp ông nội hay ông ngọại tiếp lời ru nhắc nhở :
Non kia ai đắp nên cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu 
 
Ông ru cháu là dịp truyền đạt ư chí quật cường vững ḷng yêu thương quê cha đất tổ, không ai có quyền chia cắt đất nước cho ngọai bang hoặc chia rẽ chủng tộc :
Nước non là nước non nhà
Ai chia được nước ai dời được non
Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn
 
 
 
 
Và công lao sinh thành dưỡng dục :
Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà
Có cha mẹ mới ra ta
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng
Khôn ngoan nhờ đức cha ông
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ
Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm
 
Ông  khuyên bảo cháu trai :
Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống ṇi nhà ta
Ghé vai gánh vác sơn hà
Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu
 
Làm trai cố chí lập thân
Rồi ra gặp hội phong vân cũng vừa
Nên ra tay kiếm tay cờ
Chẳng nên th́ cũng chẳng nhờ cậy ai
 
Và cháu gái cháu trai đều dược dạy :
Đă sinh ra kiếp ở đời
Trai thời trung hiếu đôi vai cho tṛn
Gái thời trinh tĩnh ḷng son
Sớm hôm ǵn giữ chẳng c̣n chút sai
ạ à ạ ời ơi …
Trai lành gái tốt ra người
Khuyên răn trong bấy nhiêu lời cho chuyên
 
Ông dạy cháu :
Ru hời ru hỡi là ru …
Thói thường gần mực th́ đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người
Những người lêu lổng chơi bời
Cùng là lười biếng ta thời tránh xa
 
Và tinh thần trách nhiệm :
Ai ơi đă quyết th́ hành
Đă đốn th́ vác cả cành lẫn cây
 
Ai ơi đă quyết th́ hành
Đă đan th́ lận tṛn vành mới thôi
 
Và t́nh đoàn kết :
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại lên ḥn núi cao
 
Nhiều ông nội ông ngọai lại lẩy Kiều hoặc tập Kiều khi ru cháu, vừa dạy dỗ vừa tỏ bày tâm sự :
À ơi ới …  à ạ ơi …
C̣n non c̣n nước c̣n dài
Nắng mưa thui thủi quê người một thân
Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa …
À à ơi …ới à à ơi …
Xót thay chiếc lá bơ vơ
Kiếp trần biết rũ bao giờ cho xong !
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà
À à ơi …
Từ phen chiếc lá ĺa rừng
Con tằm đến thác cũng c̣n vương tơ
Ru hời ru hỡi là ru …
 
Những câu ḥ ru c̣n chịu ảnh hưởng thời cuộc.  Đặc biệt là những ông nội ông ngọai từng sống dưới chế độ cộng sản, từng vào tù cải tạo, từng bị đày kinh tế mới, từng bị hạn chế từng cái ăn cái mặc, từng bị cướp đọat nhà cửa, và nhất là bị tước đọat mọi tự do.  Vẫn những điệu Kiều lẩy :
Trăm năm trong cơi người ta
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Đào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Đen đủi như Angola
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta chẳng được đi ra đi vào !
 
Bắt phanh trần, phải phanh trần
Cho may-ô, mới được phần may-ô !
 
Ông ru cháu mà nhắc nhở sách lược học tập cải tạo dưới chế độ cộng sản :
Nước ta chẳng có nhà tù
Chỉ ṭan trường học tít mù rừng sâu
Học cho trắng xóa mái đầu
Thân làm phân bón tưới màu cỏ hoa
Học cho tan cửa nát nhà
Biến thành dă thú mới ra khỏi trường !
 
Tội chi chẳng biết tội ǵ
Sáng ra lănh củ khoai ḿ ăn chơi !
 
Lời ru của ông không quên nhắc cháu về ḥan cảnh đất nước :
Ngày đi, Đảng bảo Việt gian
Ngày về th́ Đảng chuyển sang Việt Kiều
Chưa đi :  phản động trăm chiều
Đi rồi : thành khúc ruột yêu ngàn trùng !
Trốn đi, Đảng bắt đến cùng
Trở về, mời gọi, săn lùng đô-la
Đảng xưng ân đức bao la
Làm Bác thằng đểu, làm cha thằng lừa !
 
Ngày xưa chửi Mỹ hơn ai
Ngày nay nịnh Mỹ hơn mười lần xưa !
Ngày xưa đánh Mỹ không chừa
Ngày nay con cái lại lùa qua đây
Ngày xưa Mỹ xấu đảng hay
Ngày nay đảng ngửa hai tay xin tiền !
 
Và nhại thơ Phan Khôi :
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi !
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao !
 
Bác Hồ nói chuyện sửa sai
Sai th́ cứ sửa, sửa rồi lại sai !
Đảng ta th́ rất anh tài
Đỉnh cao trí tuệ sai hoài vẫn sai !
 
Sửa sai rồi lại sửa sai
Sửa th́ cứ sửa sai th́ cứ sai !
 
 
 
 
Hết lẩy Kiều, ông  lại lẩy Cung Oán :
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
 
Và lẩy cả … ca dao :
Ngang lưng th́ thắt phương châm
Đầu đội chính sách, tay cầm chủ trương
Chân mang đôi dép lập trường
Đi ḥai chẳng biết con đường là mô !
 
Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm xe đạp mang phần cho cha
Có con mà gả chồng xa
Tháng tháng nó gửi đô-la ḱn ḱn !
 
Niềm ước ao ông gửi cháu qua lời ru :
Bao giờ Đảng mới hết hành ?
Bao giờ Đảng mới trung thành v́ dân ?
Bao giờ dân có cái ăn ?
Bao giờ Đảng chết … để dân ăn mừng ???
 
Bao giờ độc đảng thành đa
Bấy giờ nước Việt thật là tự do
Bao giờ xác Bác thành tro
Bấy  giờ dân Việt thôi lo, hết buồn !
 
Lời lẩy Kiều ư nhị thú vị nhất tôi được nghe một ông ngọai ru cháu là :
Trăm năm trong cơi người ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài
Ơi à ơi … à là ơi …
 
Thường thường bà và mẹ bận công việc, con gái có nhiệm vụ giữ em và con chị c̣n nhỏ cũng biết ru những lời dỗ dành năn nỉ :
Ạ ơ ời  …  à ơ ơi…
Nam nhi đứng ở trên đời
Thông minh tài trí là người trần gian
Ngoan ngoan, ngoan thật là ngoan
Em thơ chị ẵm, em ngoan chị bồng
Bông bỗng bống bồng bồng bông
Lớn lên em phải ra công học hành
Tinh tĩnh tính tinh là t́nh tinh
Chớ nên học thói vô t́nh hỡi ai
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan
Ngoan ngoan, ngoan thật là ngoan …
 
Em chưa ngủ v́ thiếu sữa mẹ :
Ơ ầu ơ …  em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép một ngày mang ơn
(ghi chú bú thép = bú nhờ)
 
Qua lời ru, chị mượn em để nói những ước mơ  :
Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Buồn ăn bánh đúc bánh đa
Buồn ăn khoai nướng cùng là bánh trôi
Ơ ầu ơ ớ ầu ạ ơ …
 
Ơ ầu ạ ơ …
Gió đưa gió đẩy
về rẫy ăn c̣ng
về sông ăn cá
về giồng ăn dưa …
 
Ầu ơ …  Ai ơi về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn
 
Chị trẻ con nên c̣n giọng con trẻ :
Con mèo mà trèo cây cau
À ơi ới à mèo… à ơi
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối để giỗ cha chú mèo
Ơi mèo là mèo… à ơi  …
 
 
 
 
Ví von tương thân tương trợ :
Con c̣ chết rũ trên cây
Bồ cu mở lịch xem ngày làm ma
Cà cuống uống rượu say đà
Bao nhiêu cóc nhái nhảy ra chia phần
Chào mào th́ đánh trống quân
Chim chích mặc quần vác mơ đi rao …
Con quạ tha lá lợp nhà
Con cu chẻ lạt con gà dựng phên
 
Và thắm thiết đẫm t́nh :
Chị ngă th́ em phải nâng
Đừng thấy chị ngă mà em bưng miệng cười
Khôn ngoan đối đáp người ng̣ai
Gà cùng một mẹ chớ ḥai đá nhau
À ơi à ơi ời à ơi …
Em ơi, anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em ḥa thuận hai thân vui mừng
À ơi …
Đắng cay cũng thể ruột rà
Ngọt ngào cho lắm nhưng là người dưng
 
Con chị dại, có khi chẳng biết dỗ em, đành ngỏ lời năn nỉ vỗ về thương yêu :
Ru em, em hăy nín đi
Kẻo mà mẹ đánh em th́ em đau
Em đau chị cũng buồn rầu
Bé mồm bé miệng kêu đâu bây giờ …
 
Chị mượn lời ru em để tỉ tê với mẹ :
Mẹ ơi chớ đánh con đau
Để con đi bắt ốc hái rau mẹ nhờ …
 
Đó là giọng Bắc.  C̣n trong Nam, cô chị cũng cùng tâm trạng :
Ầu ơ … ơ ầu ạ ơ …
Má ơi đừng oánh con goài
Để con đi câu cá nấu canh xài má ăn
 
Ầ ơ … Má ơi!  Con dzịch chết ch́m
Tḥ tay dzớt nó, con cá ḱm nó cắn con !
 
Cô chị miền Trung cũng ḥ ru em. Đặc biệt miền Trung từ Thanh Hóa vào Thừa Thiên là vơng nôi Việt cổ, nên nhiều câu ḥ mang nặng dấu ấn từ ngữ Việt xưa có khi khó hiểu đối với những vùng khác.
 
Cô chị lớn ru em:
Hai tay cầm bốn tao nôi
tao thẳng tao dùi,  tao nhớ tao thương
Tao th́ báo bổ hai thân
tao th́ kết nghĩa Châu Trần với ai …
(Ghi chú tao = giây treo nôi)
 
 
 
 
Bài ru em của người Mường Thanh Hóa :
Rú ru là răy là ru 
Tảy cho lâu lâu
cho chú đi bắn
bắn chim mi ăn trái đào
bắn chim tao ăn trái mận
bắn chim lấm tấm ăn ở lưng tâu
bắn chim kỳ chim cu ăn mạ
chó sủa chi nhao nhao
chó sủa con trai ng̣ai sông vô t́m mái
t́m mái th́ t́m nơi xa
Một chum cà hai ba nụ bông kế
Bận áo lễ nhà ngài chẳng cho
Chơi trai nhởi mái th́ đi cho xa
Nhởi trên nhà được ba dùi đục
Nhởi dưới cươi được chục cọc rào
Nhởi bến sào được ba cơn nứa
Nhởi dưới tỉnh được bốn cây gươm
Nhởi về đất Mường ăn thương ở lợi, út ơi !
Bọ mạ giục làm cửa làm nhà đàng phương xa có lợi …
(Ghi chú tảy = ngủ;  chim mi=lọai chim két nhiều màu; chim tao = chim sẻ màu mốc xám hoặc đen; chim lấm tấm = chim cu cườm; tâu = trâu; chim kỳ = chim cu đất; mái = gái; kế = một loại cà dại; ngài = người; nhởi = chơi; cươi = sân; cơn = cây)
 
 
Vùng Thừa Thiên với những địa danh chợ búa trong vùng :
Ru em cho théc cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi Chợ Quán Chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ mua trầu Chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim …
Kim găm ḥ áo mất rồi
Tiếc công mẹ đă đứng ngồi chọn kim
(Ghi chú théc = ngủ; muồi = say)
 
Chị cũng bắt chước người lớn ru câu t́nh ca :
Ạ ơi ời à ạ ời ơi …
Chàng về thiếp một theo mây
Con thơ ở lại chốn nầy ai nuôi ?
(Ghi chú  mây = với)
 
Nhưng bản tính trẻ con lại nghịch ngợm nổi dậy :
Ai nuôi con trống gà vàng
Nửa đêm dậy gáy cho chàng thức khuya ?
À ơi ới … chàng ơi !
Thức khuya dậy sớm cho quen
Đổ than vô bệ để tập rèn với em !
 
Chị đổi giọng :
À ơ …  Con chim nho nhỏ
Cái lưng nó đỏ
Cái mỏ nó vàng
Nó kêu người ở trong làng
Đừng tham lănh lụa phụ phàng vải bô
 
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
 
Chim quyên hút mật bông quỳ
Nam kỳ lục tỉnh thiếu ǵ gái khôn
Con gái khôn lấy nhầm chồng dại
Như bứt bông hoa lài cắm …  bại cứt trâu !
 
Chị cũng có khi lên tiếng ngỏ lời khuyên dạy :
Ạ ơi ời …  ạ à ạ ơi …
Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng, cũng ḥai ngọc đi
Con người ta có khác ǵ
Học hành dốt nát ngu si hư đời
À ơi ới … à ạ ơi …  Ru hời ru hỡi là ru …
 
Những điệu ḥ trong kho tàng ca dao tưởng không bao giờ kể hết. Một bài viết nhỏ chẳng đủ tầm vóc ghi nhận, phần bị lăng quên hoặc thất lạc trước đà văn minh vật chất, nhất là làn sóng phi dân tộc của cộng sản.  Nhưng mấy trang trích dẫn cũng đủ thấy sức mạnh vơng nôi điệu ru tiếng mẹ à ơi đă hà hơi truyền đạt căn bản giáo dục vào tâm hồn trẻ thơ ngay khi mới vào đời.  Sứ mạng của mẹ là đưa con vào vơng nôi văn hóa mẹ.
 
Quốc gia văn minh vật chất như Hoa Kỳ có phong trào khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ, ru con bằng lời mẹ, hay ít nhất cũng dùng những băng hoặc điă nhạc ru con.  Ứơc mong sao các trung tâm băng đĩa Việt Nam, các ca sĩ trong cũng như ngoài nước, nghĩ đến việc thực hiện những tác phẩm Ru Con Bằng Tiếng Mẹ, để giúp trẻ có một căn bản giáo dục vững mạnh từ nguồn văn hóa dân tộc.
 
 
 
Trần thị LaiHồng
Hoa bang, tháng 8-2007
 
 
Kỳ sau :  ĐỒNG  DAO và TR̉ CHƠI
 
Tài liệu tham khảo :
-         Doăn Quốc Sỹ, Tuyển tập Văn chương Nhi đồng, Sáng Tạo, Saigon 1969
-         Joanie Bartels, Lullaby Magic, Discovery Music, 1980
-         Lullaby, a Collection, Music for Little People, 1994
-         Lư Nhất Vũ - Lê Giang, T́m hiểu Dân ca Nam bộ, Nhà Xuất bản TPHCM, 1983
-         Minh Hiệu, Tục ngữ Dân ca Mường Thanh Hóa, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1999
-         Ôn Như Nguyễn văn Ngọc, Tục ngữ Phong dao, NXB Vĩnh Hưng Long, Hà Nội, 1928
-         Ôn Như Nguyễn văn Ngọc, Thi ca B́nh dân Việt Nam, NXB Sống Mới, Saigon, 1978
-         Nguyễn Hữu Ba, Dân ca Việt Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục, Saigon, 1961
-         Nguyễn Ngọc Phách, Việt sử Đương đại qua 200 câu Vè Bất hủ, tác giả ở Melbourne, Australia và Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2007
-         Nguyễn Tấn Long - Phan Canh, Đất Lề Quê Thói, NXB Sống Mới, Saigon, 1970
-         Nguyễn Trúc Phượng, Văn học B́nh dân, Nhà Sách Khai Trí, Saigon, 1964
-         Nguyễn văn Vĩnh, Trẻ Con Hát Trẻ Con Chơi, NXB Alexandre de Rhodes, Hà Nội, 1943
-         Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật, Kho Tàng Ca Dao Người Việt, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội, 1995
-         Trương Tửu, Kinh Thi Việt Nam, Tủ Sách Văn hóa Hàn Thuyên, Saigon, 1940, Xuân Thu tái bản,Houston, TX, Hoa Kỳ
-    Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ và Dân ca Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1956
 
Trích từ: Gio-o.com

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18