|
Quan Niệm về "Nghĩa Vua Tôi" Qua
Chuyện Kể và Ca Dao Tục Ngữ VÕ THU TỊNH
Dân ta ngày xưa tin rằng phải có Trời, vì nếu: “Không có Trời, ai ở được
với ai?”
Hẳn vì thế mà cũng cho rằng trong một nước cần phải có vua, vì nếu không
có người cầm đầu để quản lý xã hội cho có trật tự thì làm sao dân chúng
có thể sinh sống yên lành được?
Do đó phát sinh ra mối tương quan giữa vua và tôi, mà dân gian gọi là
“nghĩa vua tôi”:
Ong kiến còn có vua tôi,
Huống chi loài người chẳng có nghĩa ư?
...Hột muối mặn ba năm vẫn mặn,
Củ gừng cay chín tháng vẫn cay.
Đạo nghĩa cương thường (a) chớ đổi đừng thay,
Dẫu có làm nên danh vọng, hay rủi có ăn mày vẫn có nhau.
“Nghĩa” là lòng chung thủy, là điều hợp lẽ phải, làm khuôn pháp cho cách
ứng xử với nhau. Lê Thánh Tông xưa cũng dùng chữ “nghĩa” (trong bài cái
nón) để chỉ sự quan hệ giữa vui tôi:
Che dân bao quản lòng tư túi,
Giúp chúa nào quên nghĩa sớm trưa!
Trong Luận Ngữ, chương Vi Tử, Tử Lộ đã gọi sự liên hệ giữa vua tôi là
“Quân thần chi nghĩa”.
Nhưng xưa, nhà cầm quyền phong kiến lại dựa vào “tam cương, ngũ thường”
của Nho giáo để ép buộc người dân phải tuyệt đối “trung” với vua, đến
mức “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, vua ra lệnh tôi phải chết,
tôi không chết không trung!
Thật ra, chữ “trung” vốn chỉ có nghĩa là ngay thẳng, hết lòng hết sức
với vua. Vua là người cầm đầu trong nước, coi trách vụ làm cho dân no ấm
yên lành, cho nước được tự chủ độc lập. Dân là kẻ được hưởng các điều ấy,
ắt là phải có phần vụ phò vua một cách ngay thẳng, hết lòng hết sức.
Làm tôi thì ở cho trung,
Chớ ở hai lòng mà hóa dở dang.
Bàn về vấn đề “trung” với vua, Trần Trọng Kim, trong tác phẩm Nho Giáo,
đã phân biệt chữ “quân” là người cầm đầu, với chữ “vương” là vua.
“Khổng giáo cho “quân quyền” (Quyền của người cầm đầu) là cái thần khí,
làm chủ sự trị loạn của nhân dân, cho nên mới nói “trung quân” (trung
với người cầm đầu) chứ không phải “trung vương”, “trung đế” (trung với
vua, với hoàng đế). Về sau, ta theo lối chuyên chế mà hiểu cái nghĩa
“trung quân” hẹp đi, cho nên mới nói “trung quân” là “trung với nhà vua”.
Song khổng giáo có dạy rằng: “người trung thần tòng đạo bất tòng quân”,
(tôi trung phục tùng đạo lý chớ không phải phục theo người cầm đầu, theo
nhà vua), chính là để chữa lại cái hẹp hòi của vua vậy”.(1)
Tiên Nho ta ngày xưa không dùng chữ “Trung quân” mà chỉ dùng thành ngữ
“ưu ái” hay “ái ưu” mà thôi. Nguyễn Trãi (1380-1442), trong Quốc Âm thi
tập đã viết:
Bui(chỉ vì) một tấc lòng ưu ái
Đêm ngày cuộn cuộn nước triều đông.(Qâ, 50)
...Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái
Tật được tiêu nhờ thuốc đắng cay. (Qâ, 112)
...Gia sơn đương cách muôn dặm,
Ưu ái lòng phiền nửa đêm. (Qâ, 115)
Trong Bạch Vân Am quốc ngữ thi tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) cũng
viết:
Ái ưu vặc vặc trăng in nước
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa. (BV,1)
...Ưu ái chẳng quên niềm trước,
Thị phi biếng nói sự nay. (BV, 76)
Như Trần Trọng Kim vừa dẫn ra trên đây, “người trung thần tòng đạo bất
tòng quân”, cho nên “tôi trung” còn phải có nhiệm vụ can vua, có khi
phải trái lời vua, cho vua khỏi làm quấy, sai với đạo lý. Như thế mới
đúng đã lo lắng, thương yêu vua (ưu quân) (2). Trong lịch sử nước ta
không thiếu gì giai đoạn về “tôi trung” can ngăn, hoặc cãi lời vua,
chẳng hạn như các chuyện sau đây:
Truyện Phạm Công cãi lời vua

Phạm Công, làm quan “Phán Thái Y lệnh”, đời vua Trần Anh Tông
(1293-1314). Một hôm có người, vợ bị băng huyết, máu ra xối xả, đến mời
ông. Ông vội vàng ra đi, vừa đến cửa thì gặp Sứ giả nhà vua đến bảo rằng
trong cung có quí nhân cảm sốt, khi nóng khi lạnh, mời ông đến điều trị.
Ông nói: Bệnh ấy không gấp. Nay ở nhà dân có người bệnh nặng, tính mệnh
chỉ chờ trong khoảnh khắc. Ta đi cứu người ấy đã, rồi về cung sẽ chữa
trị cho.
Sứ giả tức giận nói: “Cái lễ mà kẻ bầy tôi phải giữ đạo cho trọn, sao có
thể như vậy? Ông muốn giữ tính mạng cho người khác mà không giữ tính
mạng cho mình chăng?”
Phạm Công trả lời: “Đã đành là như vậy thì ta mắc tội rồi, nhưng không
hề gì. Người bệnh kia mà không cứu mạng ngay thì chỉ trong chốc lát sẽ
chết, không còn trông mong gì được nữa. Đến như cái mệnh của bầy tôi bé
nhỏ này thì còn mong được vua miễn tội chết. Còn các tội khác thì ta xin
gánh chịu hết.”
Nói xong, bèn đi chữa bệnh. Người đàn bà kia quả nhiên được ông cứu sống.
Lát sau, ông đến gặp. Nhà vua quở trách. Ông bỏ mũ, bày tỏ hết cả tấm
lòng ngay thực của mình. Vua Anh Tông mừng mà nói rằng:
“Nhà ngươi quả là một bậc lương y, đã có nghề giỏi, lại có lòng chăm sóc
con dân của Trẫm, thật đã đáp ứng được lòng ta mong cậy”.(3)
Truyện Chu Văn An can vua
“Chu Văn An, tính ngay thẳng, cứng rắn, nghiệm ngặt, học nghiệp tinh
thuần, được vua Trần Minh Tông mời đến dạy thế tử học.
“Minh Tông mất, con là Dụ Tông (1341-1369) chỉ mãi chơi bời, trễ nải
chính sự, để quyền thần nhiều kẻ làm điều phi pháp. Nhiều lần can ngăn
mà vua không nghe, ông liền dâng sớ xin chém nịnh thần bảy tên, người
đời lúc bấy giờ gọi là “thất trảm sớ”. Sớ dâng lên, nhưng vua bỏ đi
không xét đến. Ông liền từ quan về quê dạy học.(4)
“Nghĩa vua tôi”, thể hiện cho trọn vẹn, bao giờ cũng phải theo hai
chiều: tôi đối với vua, vua đối với tôi. Dân có nghĩa vụ đối với vua,
thì vua cũng có nghĩa vụ đối với dân. Nếu vua không làm tròn trách vụ
chăm lo cho dân yên vui, no ấm, thì dân không khỏi sinh ra khinh thường,
phạm thượng:
“Làm trên mà chẳng chính ngôi,
Khiến cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào”
Chính Khổng Tử cũng nói: “Vua cho đúng phận vua, tôi cho đúng phận tôi.
Vua lấy lễ sai khiến tôi, tôi hết lòng trung thờ vua” (5). Lấy lễ sai
khiến, không phải chỉ nơi nghi thức bên ngoài, mà cốt yếu ở nơi tinh
thần quí trọng, không được khinh miệt dân. Mạnh Tử cũng tuyên bố: “Dân
quí nhất, thứ đến là đất nước(xã tắc), còn vua là nhẹ hơn cả (6) và đã
từng nói thẳng với Tề Tuyên Vương rằng: “Vua mà coi tôi như tay chân, ắt
tôi sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi tôi như chó ngựa, ắt tôi sẽ coi
vua như kẻ cướp, thù(7).”
Rồi nếu vua không làm cho dân được yên lành, no ấm, mà còn tàn ác bạo
ngược, thì lòng người sinh ra oán hận, thù ghét, giặc giã sẽ nổi lên:
Bao giờ dân nổi can qua(b)
Con vua thất thế lại ra ở chùa.
Xưa vua Kiệt, vua Trụ vì hoang dâm vô đạo, không làm tròn sứ mạng trị
quốc an dân Trời giao phó cho, thì Trời thu hồi sứ mệnh ấy lại. Thành
Thang đứng lên giết vua Kiệt, Võ Vương đứng lên giết vua Trụ. Tư Mã
Thiên, sử gia Trung Hoa, gọi đó là “cách mệnh” (Cách: lột bỏ, mệnh: sứ
mệnh).
Về vấn đề tôi giết vua, Tề Tuyên Vương chất vấn Mạnh Tử: Thành Thang
đuổi vua Kiệt, Võ Vương đánh vua Trụ có thật như vậy chăng?” Mạnh Tử
đáp: “trong sử sách có chép như vậy”. Tuyên Vương hỏi tiếp: “Bề tôi mà
giết vua có nên chăng?” Mạnh Tử đáp rằng: “Kẻ làm hại đức nhân, gọi là
tặc, kẻ làm hại đức nghĩa gọi là tàn. Kẻ Tàn, kẻ tặc chẳng qua chỉ là
người thường thôi. Tôi từng nghe vua Võ Vương giết một người thường là
Trụ, chớ chưa hề nghe giết vua” (8).
Tục ngữ ta ngày xưa cũng đã cho rằng:
Được làm vua, thua làm giặc.
Câu này có thể hiểu: Thói thường, mạnh được, yếu thua. Kẻ thắng tự xưng
chính thống, và gọi kẻ bại là giặc.
Và đây cũng là một lời dân gian nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ cầm đầu
quốc gia: “Nếu chính sự hà khắc, tàn ác, dân gian sẽ nổi lên lật đổ. Một
khi bị đánh bại sẽ gọi là giặc, và sẽ chịu số phận dân gian dành cho
những tên giặc cướp”.
(b) Can: Cái mộc. Qua: Cái mác, là những binh khí đánh giặc. Can qua
tượng trưng cho "chiến tranh, bình loạn"
Dân gian ta cũng thấy rằng: Kẻ tàn ác nhờ bạo lực, gian trá mà thắng,
cũng được gọi là "vua", nhưng triều vua nào cũng nhất thời.
Còn dân, căn bản của quốc gia, bao giờ cũng tồn tại mãi mãi:
(Vua) quan nhất thời, dân vạn đại.
Ngày xưa ở nước ta, từ cấp huyện tở lên, tổ chức theo quân chủ, vua chỉ
định, bổ dụng tất cả quan lại trong toàn quốc. Song ở cấp làng xã, thôn
xóm, vua ta lại công nhận cho toàn dân bầu lên một lý trưởng quản lý
làng xã và đại diện cho làng xã liên lạc với huyện phủ sở tại; và bầu
các hương chức giúp việc với lý trưởng, cũng như bầu người uy tín sung
vào hội đồng kỳ mục, cố vấn giám sát lý trưởng. Đồng thời ở mỗi làng xã,
dân gian có thể họp lại bầu(làm) ra một hương ước (những điều lệ giao
ước giữa dân làng với nhau) để quản lý riêng địa phương mình.(9)
Theo Đại Việt Toàn Thư, năm 1969, Lê Huyền Tôn (1663-1671) có ban 18
định lệnh làm chính trị tốt, bỏ tập tục xấu, mà điều thứ 9 là "chọn các
con em trong nhà lương thiện làm xã trưởng để dạy dân biết kễ nghĩa"(10)
Trong Lê Triều chiếu lệnh chính có ghi rõ thêm về điều thứ 9 ấy như sau:
"Chức xã trưởng là một viên giữ phong hóa; phải chuyển tư cho huyện quan
ở các huyện trong xứ, chuyển sức cho xã dân, kén chọn trong con em các
nhà lương gia, các nho sinh, các con cháu quan viên, các nhiêu nam các
sinh đồ, cùng là người nào có học thức, tính hạnh thanh liêm công bằng
và cần cán, bầu lấy một người làm xã quan, để cho viên ấy làm tiêu biểu
cho hương xã, khám xét các từ tụng, cùng là hàng hăm hai kỳ xuân thu,
theo những giáo điều của nhà nước mà dạy bảo xã dân, khiến cho dân biết
điều lễ nghĩa, khuynh hướng và nhân nhượng.(...) Cứ ba năm, cho phép
huyện quan khảo khóa các xã quan một lần, xét trong các xã quan, xã tư
(phó quan xã) ai có đức hạnh liêm chính, biết dạy dân làm tốt phong tục,
dẹp được việc kiện tụng, thì trình lên(..) thăng xã quan làm huyện quan,
xã sử, xã tư cũng chuyển thăng làm xã quan, để tỏ lòng khuyến khích. Nếu
trên nha môn có việc quan sai khiến sự gì, chỉ được bắt xã sử, xã tư
cùng với thôn trưởng đi chỉ dẫn, chứ không được trách cử đến xã quan, để
cho viên này có tư cách mà làm việc. Ai trái lịnh này, cho xã quan được
tố cáo, sẽ bị khép vào tội trái lịnh.
" Vì bằng xã trưởng (tức xã quan) viên nào tham nhũng, gian xảo, và làm
bậy cho phép xã dân ấy tố cáo với huyện quan; một khi xét có sự thực,
việc nhẹ thì bắt phạt, việc nặng thì bắt tội phải sung quân. Khi ấy sẽ
bầu lại xã trưởng khác, để tiện tiếp tục công việc làm tiện lợi cho dân
xã. Nếu huyện quan khảo khóa mất sự thực, cũng bị biếm hay bãi chức.(11)
Cách tổ chức làng xã theo lối "bầu cử" đã tồn tại cho đến cuối đời nhà
Nguyễn và cho đến thời Cộng Hòa Quốc Gia gần đây.
Như thế, "bầu cử" đã là một tập tục trong sinh hoạt chính trị nông thôn
Việt Nam từ bao nhiêu thế kỷ. Để nhắc nhở "cử tri đi bầu phải chọn người
thế nào cho đúng", và "người được chọn ra phải làm thế nào để bảo vệ
quyền lợi cho làng xã", dân gian ngày xưa có kể lại các ngụ ngôn như
sau:
Truyện con Công và làng Chim
"Một hôm, làng chim hội họp đủ mặt, không thiếu một ai. Nhiều anh cất
tiếng xin làng cử anh cò làm lý trưởng. Anh Cò nghe nói, vội vàng từ
chối?: "Các anh coi tôi: khăn trắng, áo trắng, thật không xứng đáng chút
nào. Đây có anh Diệc, cổ dài, vai rộng, tôi xin nhường".
Diệc nghe Cò nói đến cũng mau miệng chối từ: " các anh đã biết mình tôi
lằng khằng, tính tôi ương ương. Tôi nói chẳng ai nghe, sợ sau sinh lắm
chuyện. Đây có anh Công trong nhà giàu có, quần xanh áo tía, thật đáng
làm anh, làng ta nên thuận tình bầu anh ấy ra làm việc."
Công nghe nói đến mình, lấy làm hả dạ, chạy ra giữa đám, giương cánh xòe
đuôi, múa may ưỡn ẹo, rồi thưa với làng: "Làng đã bảo đến, biết tránh
làm sao. Vậy những ông nào thuận tình tôi xin ký tên vào giấy.
Không ngờ bao nhiêu loài chim đồng thanh nói to lên: "Cái đuôi anh xòe,
chúng tôi chịu là thật đẹp. Nhưng cái đầu anh bé nhỏ, trông nó loắt
choắt làm sao, anh làm đàn anh chúng tôi không được. Làng bảo thì bảo,
chúng tôi không thuận.
Công thấy thế, chửa thẹn nói rằng: "Việc làng đã thuận, kẻ nói thì có
người nghe. Không ngờ người nghe thì ít, kẻ chê thì nhiều. Tôi lấy làm
xấu hổ cho tôi và cả làng chim của tôi nữa."
Làng chim nhao nhao, không ai thèm nghe Công, giải tán tức thì. Công cụp
đuôi, thu cánh, vừa lui vừa kêu: "Xấu hổ, xấu hổ!" Rồi từ ngày ấy đến
nay, vẫn còn giữ hai tiếng "xấu hổ" mãi.(12)
Truyện lý trưởng Khướu
"Xưa có một người lý trưởng làm việc đã hơn mười năm. Thường trong làng
xóm, ai có điều gì khốn khổ là ông liền lên quan kêu hộ, coi việc của
người hơn việc của mình. Phải một năm trời làm đại hạn, cây cỏ khô héo,
hoa quả chết sạch, đến mùa sưu thuế, dân gian khốn khó, không biết làm
thế nào lo cho đủ tiền nạp. Lý trưởng Khướu thấy tình cảnh dân như vậy,
lấy làm thương xót, mới làm một lá đơn lên kêu quan hộ dân. Đơn rằng:
"Trời làm đại hạn rã rời,
Việc dân thì nặng, Quan thời thương cho!
Ngoài đồng cỗi lúa mất mùa,
Về nhà bông đỗ đã khô đi rồi,
Dân thì kẻ ngược, người xuôi,
Kẻ tán, người lạc ai người làm chi.
Trời làm tai nạn còn gì,
Xin Quan nghĩ lại bớt đi ít nhiều".
Quan xem đơn vỗ bàn mắng rằng: "Ta chưa hề thấy thằng lý trưởng nào xấc
láo như thằng này. Việc thì khe khắt, đã không chịu làm, lại được cái
già hàm, dám lên đây kêu ca rắc rối! Lính đâu, nọc nó ra nẹt cho nó ba
chục roi".
Người lý trưởng nói: Quan đánh tôi xin chịu. Tôi chẳng sợ chi. Bổn phận
tôi là lý trưởng, tôi phải hết lòng kêu giúp cho dân. Quan không soi
xét, nghĩ đến tình cảnh của dân thì tôi cũng liều cái mạng của tôi cho
rồi.."
Nói đoạn người lý trưởng cắn lưỡi tự tử. Ông quan phải bồi mạng cho
người lý trưởng và phải cấp tiền tống táng. Về sau, trên mộ của người lý
trưởng có một cây gì mọc lên rất cao, và có một Khướu thường ngày cứ
chót vót trên cây mà hót. Thiên hạ cho con Khướu ấy là hiện thân của
người lý trưởng, và khi nghe nó hót thì người ta bảo nhau ca một câu
rằng:
"Cây cao gió đánh lá lay
Thương thân con Khướu kêu ngày, kêu đêm."(13)
Như vừa kể trên, ngoài luật nhà vua, ngày xưa mỗi làng có thể bầu ra
những điều lệ riêng cho mình, gọi là "hương ước", trình lên huyện, phủ
sở tại để chấp thuận(12). Những hương ước (hay lệ làng) ấy lại thường
được dân gian tuân theo chặt chẽ hơn là luật pháp nhà vua. Tục ngữ có
câu: Phép vua thua lệ làng.
Chẳng hạn như trong hương ước của xã Mộ Trạch, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải
Dương (Bắc Phần), ở điều thứ 6 có ghi: Dân làng có việc tranh chấp phải
qua lý trưởng xét xử trước đã, không được kiện thẳng lên huyện, phủ, nếu
không tuân, bị phạt một trâu và sáu vò rượu"
Cuối cùng, tưởng không thể không nhắc đến cuộc "vua trưng cầu dân ý"
lịch sử nhất của dân tộc Việt. "Vào năm 1285 khi quân Nguyên tràn sang
xâm chiếm nước ta, Trần Nhân Tông triệu tất cả bô lão trong nước đến
điện Diên Hồng để hỏi ý kiến của toàn dân nên đầu hàng hay chống lại.
Tất cả bô lão đồng thanh hô to: Xin Đánh!"
Tóm lại, qua các truyện kể, các câu ca dao tục ngữ, ta nhận thấy Việt
Nam từ xưa đã có một thể chế rất đặc thù, không giống một nước nào đương
thời, kể cả Trung Hoa. Đặc thù vừa quân chủ vừa thượng tầng, vừa dân chủ
ở làng xã.Mặc dầu nước ta chịu ảnh hưởng Nho giáo rất sớm, mặc dù trong quan niệm
và quan hệ vua tôi của dân gian có điểm tương tự học thuyết "dân quyền"
của Mạnh Tử, song về cơ cấu xã hội ngày xưa, nước ta và Trung Hoa có
điểm khác nhau:
Ở thời Mạnh Tử, các chư hầu đua nhau chiêu mộ nhân tài để giúp cho nước
mình giàu mạnh hơn thiên hạ. Do đó "chư tử bách gia" được tự do tranh
luận nhau, và có khi tranh luận với cả các vua chư hầu nữa. Nhưng rốt
cuộc, học thuyết "dân quyền" ở thời hoàng kim này vẫn không được vua nào
nghe theo. Về sau, cái hại đốt sách của nhà Tần, và cái hại thống nhất
của nhà Hán đã bó buộc tư tưởng người học vào cái khuôn chật hẹp của
Khổng Giáo. Đến thời Tống Nho nổi lên, bác hết các học phái khác, không
những đã dùng lò khoa cử mà bó buộc học giới như các đời trước, lại còn
hạn chế học Kinh truyện Nho giáo để đi thi phải theo lời chú giải của
các sách do triều Tống soạn ra, là loại sách thu hẹp Nho giáo thành một
thứ Nho giáo "tôn quân" để tiện bề cai trị. Vì thế, từ thời "hoàng kim:
cho đến ngày cách mạng Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên (1912) ở các
làng Trung Hoa không hề có việc dân chúng đi bầu cử xã trưởng.
Còn nước ta, từ đời Hán, Đường, nội thuộc nước Tàu, nhờ gặp những kẻ
thật lòng khai hóa như Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, nên học giới nước ta sau
ngày tự lập, nảy sinh tốt đẹp, như học phong ở đời Trần chẳng hạn. Hẳn
nhờ cái khoảng tư tưởng có chiều tự do ấy của Đời Trần, lấn át được ảnh
hưởng còn phôi thai của Tống Nho, phối hợp với quan niệm tự do bình đẳng
của Phật Giáo đời Lý, mà Lê Thánh Tông trong bộ luật Hồng Đức, đã điều
hòa được quan hệ giữa vua và dân, giữa thể chế quân chủ của triều đình
với cơ cấu dân chủ của nông thôn.
Cuộc hòa hợp, chung sống đặc thù giữa chuyên chế và tự do này có thể
thực hiện tốt đẹp là nhờ bản tính "biết nhân nhượng", "chừng mực", "yêu
nước" hằng hữu của dân tộc ta.
Trong tinh thần quan hệ giữa vua chúa và tôi này, ngày xưa, mỗi làng xã
trở thành một đơn vị tự trị, một viên đá cứng rắn để xây dựng quốc gia,
một pháo đài vững chắc để ngăn chặn xâm lăng.
Nhưng dù sao, quân chủ thuộc nhân trị, vận mệnh đất nước tùy thuộc vào ý
muốn của các vua: Gặp các vua hiền đức, dân được an vui ấm no, gặp vua
bạo ngược, dân bị lâm vào cảnh lầm than đói rách.
Đúng ra, đời sống của dân, vận mệnh của nước không phải do ý riêng của
một cá nhân, hay một đảng phái nào, mà phải do toàn dân quyết định. Như
vậy, nhất định phải có một thể chế xây dựng trên một hiến pháp dân chủ
pháp trị, bắt buộc các nhà cầm quyền do dân bầu lên, phải theo đúng để
quản lý điều hành quốc sự nhằm thực hiện cho được Dân Sinh, Dân Quyền và
Dân Chủ.
Chú thích:
(1) Trần Trọng Kim, Nho giáo quyển hạ, tân Việt, Sài Gòn năm ? tr.
412-413
(2) Mạnh Tử, Lương Huệ Vương Hạ, tiết 4.
(3) Hoàng Hữu Yên, tuyển tập truyện Việt Nam Thế Kỷ X-XIX, Hà Nội, 1987,
Thầy Thuốc cãi lời vua, trang 37-38
(4) Hoàng Hữu Yên, tuyển tập truyện Việt Nam thế kỷ X-XIX, sđd, Chu Văn
An can vau tr.36
(5) Luận Ngữ, Nhan Uyên, tiết 11.
(6) Mạnh Tử, Tận Tâm hạ, tiết 14.
(7) Mạnh Tử, Ly Lâu hạ, tiết 3.
(8) Mạnh Tử, Lương Huệ Vương hạ, tiết 8.
(9) Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Khai Trí, Hà Nội, năm 1973, tr.
156-161.
(10)Đại Việt Toàn Thư, tập III, quyển XIX, kỷ nhà Lê, tr.24b
(11) Lê Triều chiếu lệnh Thiện Chính, quyển thứ nhất (1619-1705), Nguyễn
Sĩ Giác phiên âm và dịch nghĩa, Vũ Văn Mâu đề tựa, nxb Bình Minh, Sài
Gòn, 1961, tr. 141
(12) Nguyễn Văn Ngọc, truyện cổ nước Nam, tập 2, Đại Nam, Glendale, Hoa
Kỳ, năm ? Công và làng Chim, tr. 71-73
(13) Nguyễn Văn Ngọc, Truyện cổ nước nam, tập 2, sđd, Lý Trưởng Khướu,
tr. 114-116
(14) Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, sđd, tr. 176-177. |