|
T́nh yêu trong dân ca Việt Nam
Trần Quang Hải
Paris, Pháp Dân tộc Việt Nam có một nền dân ca lâu đời và rất phong phú. Người Kinh chỉ có hát chứ không có múa như các sắc tộc khác cùng sống trên lănh thổ Việt Nam. Dân ca trữ t́nh hay hát giao duyên hay hát đối đáp giữa trai gái được nghe khắp nơị Từ Bắc tới Nam, từ loại hát làm việc ngoài đồng (ḥ cấy) đến các việc làm khác như chèo thuyền (ḥ mái đẩy, ḥ mái nh́, ḥ sông Mă), như đập đá (ḥ nện) hay các công việc có tính cách tập thể (hát phường vải). Rồi các loại hát hội (Quan Họ, Trống Quân) được thịnh hành nhiều nhứt ở miền Bắc. T́nh yêu không phải chỉ có trong thể loại dân ca trữ t́nh. Chúng ta có thể gặp chủ đề "t́nh yêu" trong những bài vịnh ca, anh hùng ca, loại hát chọc ghẹọ T́nh yêu nam nữ chiếm một số lượng rất quan trọng trong loại hát giao duyên. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng dân ca đối đáp đă xuất hiện từ nhiều thế kỷ như Hát Quan Họ ở Bắc Ninh đă được nói tới từ thời nhà Lư (thế kỷ XI) do các quan tướng tổ chức chào mừng vua khi vua trở về thăm nơi chôn nhau cắt rún. Thời nhà Trần, cũng có sách vở nói tới loại hát đối nam nữ và một số người hát nổi tiếng về nghệ thuật tức hứng nhạc và lờị Những bài hát trữ t́nh cũng được thấy trong các thể loại khác: ḥ giă gạo miền Trung, ḥ miền Nam, các loại hát nghi lễ và luôn cả được sân khấu hóa để làm thành những nhạc cảnh hay hoạt cảnh múa hát (điệu Xin Hoa, Đố Chữ trong Hát Xoan, điệu Tiên Cuội tỏ t́nh trong Tiên Cuội, v.v.) Từ thời hậu bán thế kỷ XX, có một số nhà nghiên cứu đă công bố những kết quả đáng được chú ư về những lối hát giao duyên ("Quan Họ Bắc Ninh" do Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Tú Viêm, Nguyễn Chung Anh biên soạn; "Hát Ví Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Chung Anh; "Hát Giặm Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giáo; "Dân ca Người Việt" của Tú Ngọc, v.v.)
Hát Ghẹo Loại hát giao duyên với tục lệ kết bạn như trong Hát Ghẹo (Phú Thọ) và Quan Họ (Bắc Ninh) chỉ có thể thấy ở miền Bắc mà thôị Hát Ghẹo và Quan Họ thường được ca hát trong dịp hội hè, lễ Tết. Điều đáng chú ư là chuyện ca hát chỉ xảy ra trong khung cảnh của những nhóm ở những làng có kết bạn với nhaụ Tục lệ này ở Hát Ghẹo c̣n gọi là "hát nước nghĩa". Sự kết nghĩa giữa hai làng là một tục lệ có từ lâu đời ở Việt Nam. Trong Hát Ghẹo, những người đi hát không tổ chức thành phường, thành họ hay thành bọn. Hàng năm, khi làng ḿnh hoặc làng kết nghĩa mở hội th́ dân làng lựa những cậu trai cô gái có giọng hát đẹp và biết rơ các bài bản để hát đối đáp. Nếu đón các người hát "kết nghĩa" th́ làng cử một đoàn phụ nữ và một "bà trùm" (một người đàn bà có tuổi) ra đón tiếp và ca hát. Khi đi hát ở một làng khác th́ có "ông trùm" và một nhóm đàn ông hát giỏi được gởi đị Trong năm, những người được lựa chọn đi hát thường gặp nhau để hát chung và ôn lại những bài hát chánh của Hát ghẹọ Khi đi hát hội, những người hát ngồi trên chiếu hoa hát đối suốt đêm với nhóm bạn "kết nghĩa". Một đội nam đối đáp với một đội nữ, và thường phải hát có cặp, có đôi, hát đồng âm, với một giọng "dẫn" (giọng chánh), và một giọng "luồng" (giọng phụ).
1. Hát mời ăn trầu bằng những câu hát Ví gọi là Ví Trầu Các bạn hát nói năng rất lịch sự, gọi nhau bằng "quan anh" "quan chị" và xưng bằng em. Em thưa với anh Hay là: Em thưa với chị: 2. Chặng thứ hai gồm những bài hát thuộc giọng "sổng". Những câu hát trong chặng này bày tỏ tâm sự, ước vọng về hạnh phúc lứa đôị Qua hai chặng trên (giọng ví và giọng sổng), cách hát của Hát Ghẹo chỉ dừng lại ở đối lời chứ chưa có đối giọng. Cả hai bên nam nữ chỉ dựa trên một làn điệu duy nhứt mà thay đổi lời ca khác nhaụ 3. Chặng thứ ba là phong phú nhứt với nhiều làn điệu chung quanh chủ đề t́nh yêu. Chặng này được gọi là "sang giọng". Thường th́ bắt đầu bằng câu: T́nh tang t́nh, tích tang tích Vậy là mở màn cho chặng ba với các loại "giọng vặt" 4. Chặng thứ tư là chặng chót gồm các bài Ví tiễn để hẹn gặp nhau lần tới hát với nhaụ Có khi luyến tiếc nhau hát cả mấy tiếng đồng hồ, bịn rịn không chịu chia tay và do đó, Hát tiễn kéo dài cho tới hừng đông.
Hát Quan Họ là một sản phẩm âm nhạc dân gian đặc sắc nhứt của Việt Nam, có thể so sánh ngang với tranh dân gian làng Hồ (Hà Bắc), nghệ thuật x̣e Thái (Tây Bắc), nghệ thuật khảm trai làng Ngô Xá (Hà Tây), và Cũng như Hát Ghẹo, Quan Họ là loại hát giao duyên có nhiều giọng điệụ Do đó đ̣i hỏi người hát phải có sự tập luyện công phu về sự sáng tạo giai điệu mới. Những người đi hát thường tập hợp với nhau trong một tổ chức nhứt định, gọi là Quan Ho Quan Họ là một tập thể người gồm nam và nự Những tập thể như vậy bao giờ cũng ở cùng một làng. Số người chung một nhóm có từ 4 tới 7 ngườị Đứng đầu nhóm là một người đứng tuổi gọi là "Anh cả, Chị cả" hay c̣n gọi là "Ông già Quan Họ", "Bà già Quan Họ". Do đó trong các điệu hát Quan Họ người ta thường nghe những danh từ "anh hai, anh ba", "chị hai, chị ba" do vai vế trong gia đ́nh Quan ho Một làng ngày xưa ở vùng Bắc Ninh có thể có tới 10 bọn Quan Họ. Nhưng họ không có quyền kết bạn với nhau mà phải lựa một bọn ở một làng khác để kết nghĩạ Thường là một bọn nam của thôn làng này kết nghĩa với một bọn nữ của thôn làng khác. Cuộc kết nghĩa bắt đầu là cuộc gặp gỡ tại một cuộc hát hộị Bên trai vô quán mua trầu cau mời bên nự Nếu bên nữ nhận trầu tức là muốn nói là họ chưa có kết bạn với aị Nếu hai bên hát tâm đầu ư hiệp ở một cuộc hát th́ bọn trai mới đi tới nhà gia đ́nh chị cả hay chị hai của bọn gái để xin phép cha mẹ của chị cả chị hai để xin kết bạn. Sau đó họ hát với nhau suốt cả đêm theo lề lối tŕnh tự của một cuộc hát Quan họ. Các tổ chức Quan Họ thường hát nhân dịp hội đ́nh, chùa, đám cưới, lễ hội hàng năm. Khi đi hát, trai th́ áo lụa, áo the, quần ống sớ, khăn xếp, ô lục soạn; gái th́ nón thúng quai thao, mặc mớ bảy mớ ba, áo tứ thân nhiễu điều, nhiễu tía, yếm đào xẻ con nhạn, thắt lưng hoa đào, hoa lư, khuyên vàng và xà tích bạc. Khi gặp nhau, họ ăn nói rất lịch sự khách sáọ Thí dụ khi mời ăn cơm th́ nói: "Hôm nay liền chị đă có ḷng sang chơi bên đất nước nhà em, anh em nhà em chạy được mâm cơm th́ đầu mâm đĩa muối, cuối mâm đĩa vừng, mâm đan bát đàn để xin mời đường quan họ dựng đũa lên chén, để anh em nhà em được thừa tiếp, ạ" Trong bữa ăn, nếu bên nữ ăn nhỏ nhẹ th́ bên nam mời khéo: "Cơm hẩm ăn với rau dưa Các chị liền đáp lại như sau: "Liền anh nói vậy chứ Khi muốn mời bên nữ hát, bên nam lên tiếng : "Cung môn treo cửa mành mành Khi được bên trai mời hát, bên gái lại nhún ḿnh: "Các liền anh như ông trăng sáng khắp cả bàn dân thiên hạ, chúng em như bóng đèn dầu thấp thoáng trong nhà". Trong những ngày hội các Quan họ gặp nhau hát ở cửa đ́nh ("Cây trúc xinh") sườn đồi, bờ ao, dọc đường cái quan. Nhưng cũng có khi hát trên thuyền thúng ở ao, hồ vừa chèo thuyền vừa hát. Do đó có các bài "Ngồi tựa mạn thuyền", "Chén son để cạnh mạn thuyền", "Thuyền thúng". Khi hát ở ngoài trời tất cả đều phải che dù cho phía nam và đội nón quai thao cho phía nự Cuộc hát Quan Họ phải theo một tŕnh tự cố định : 1. Mở đầu là hát giọng lề lốị Giọng xưa nhứt là Phong thu, Gửi thư, Thơ Đúm, Đàn Đúm. Ngày nay các Quan họ trẻ chỉ hát được các giọng Hừ Là, Là Rằng, Tôi Rằng, Bạn lan, Cây Gạọ 2. Sau đó tới giọng sổng và giọng vặt. Trong giọng vặt có đủ loại hát bắt nguồn từ các điệu dân ca, hát tuồng, chèo, chầu văn, v.v. Nhiều bài hát có quan hệ với bài lư (dân ca miền Trung và miền Nam) như "Lư con sáo", "Lư Mười Thương", "Lư cây đa". Từ bài Lư cây đa nẩy sinh ra nhiều biến dạng "Lư Cây Đa", "Chẻ tre đan nón", "Trèo lên quán dốc". Trong dân ca Quan Họ t́nh yêu được bộc lộ một cách bỏng bẩy, khéo léo: "Vợ anh như ngọc như ngà "Ở nhà có mẹ cùng cha 3. Có những bài quan họ mới được sáng tác gần đâỵ Bài "Ông Tơ" bắt nguồn từ bài "Nỗi dương sông" trong một vở tuồng sân khấu dân gian. Năm 1944, bài quan họ "Ca Đàn" được sáng tác dựa trên bài "Thu trên đảo Kinh châu" của Lê Thương, bài "Hát giă" dựa trên bản dân ca "C̣ lả". Bài "Trống Cơm" được sáng tác vào năm 1954 dựa trên một giai điệu xưa 4. Sau cùng là các giọng Giă bạn, tiễn bạn kéo dài cho tới sáng như trong hát Ghẹo.
Trống Quân là một h́nh thức hát giao duyên rất phổ biến từ Thanh Hóa trở rạ Tục truyền rằng hát Trống Quân xuất hiện từ thời nhà Trần vào thời nhân dân ta chống giặc Nguyên. Binh sĩ chia làm hai bên vừa xướng vừa đối trong khi gơ vào trống đánh thành nhịp điệụ Ông Phan Kế Bính, trong quyển Việt Nam phong tục, cho rằng hát Trống Quân có từ thời Nguyễn Huệ Binh lính giả thành trai gái để hát đối giải sầu trong khi hành quân đánh nhà Thanh. Lời hát đối rất t́nh tự Trai hỏi: "Cái ǵ mà nó thấp cái ǵ cao Gái trả lời: "Anh hỏi th́ em xin thưa Một số hát hội khác Ngoài ra c̣n nhiều loại hát giao duyên như Hát Ghẹo Thanh Hóa, Hát Ghẹo Long Xuyên, Trống Quân Phú Thọ, Trống Quân Đức Bắc, Trống Quân Hữu Bổ, Hát Đúm Hải Dương. Hát đ̣ đưa thuộc huyện Thụy Anh, Thái B́nh chỉ hát lúc đ̣ đi trên sông, chứ không hát khi đ̣ cặp bến. Có hai loại hát đ̣ đưa: hát đường trường được hát lúc đông thuyền bè cùng đi trên sông, trai gái hát đối đáp tỏ t́nh với nhau, và hát bỏ lửng là hát một ḿnh mang tính chất kể chuyện trong các sinh hoạt làm việc có loại hát Ví và hát Giặm rất thịnh hành ở miền Bắc nhứt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Loại hát ví được đổi thành những tên khác nhau theo sinh hoạt: hát phường vải (Nghệ An), hát phường cấy, hát phường buôn, hát chặt củi, hát ví đ̣ đưa, hát phường chiếu, hát phường vá lưới, hát chăn trâu, vv.. Hát Phường Vải ở Nghệ An chú trọng về thi thố văn chương. Hát phường cấy thịnh hành hơn. Mỗi ngành làm việc đều dùng cách hát đối đáp t́nh tứ để vơi bớt cơn mệt và chọc phá cho thoải máị
Miền Trung và miền Nam có nhiều điệu Lư, Ḥ thuộc loại hát giao duyên. Ḥ Sông Mă, Ḥ Mái Nh́, Ḥ Mái Đẩy trên sông Hương, Ḥ Giă gạo, các điệu Lư mười thương, lư con sáo ở miền Trung. Trong Nam, ḥ rất phong phú và đa dạng: Ḥ Đồng Tháp, Ḥ Cần Thơ, ḥ Bạc liêu, ḥ G̣ công, ḥ Lơ, ḥ cấy,v.v. Khi đi dạo qua vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta thường nghe những câu chọc ghẹo rất t́nh tứ theo loại Ḥ Đồng Tháp. Một cậu trai bắt giọng: "Ơ à ơi, ời ạ Một cô gái trả lời: " Ơ a ụạ Ngó lên trời th́ trời
trong mây trắng Dân miền Nam ăn nói cục mịch, biết sao nói vậy, không màu mè hoa lá, không chải chuốt văn chương. Họ có thể ḥ như sau: " Ḥ ơ a Nếu cô bị chọc thấy anh chàng đó dễ thương th́ trả lời "Ḥ ơ à Tại miền Nam, cách tán tỉnh rất
trực tiếp, không màu mè trong loại hát đối đáp trữ t́nh. "Hờ ơ ạ Cô gái có lúc cũng la lớn: "Đứng xa kêu bớ anh Mười Hay "Thương không thương em hổng có
cần Ḥ, Lư, hát hội với Quan Họ hát ghẹo, Trống Quân, hát phường vải, hát xoan, c̣ lả, vv.. rất gần với chúng ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả h́nh ảnh sống động của xă hội nông thôn Việt Nam và mỗi người hát là một nhà thơ, có khi là một nhà sáng tác nhạc. Đề tài t́nh yêu được khai thác từ các loại hát làm việc, hát giao duyên, giúp cho trai gái có dịp bày tỏ tấm ḷng của ḿnh. Trong phạm vi của bài viết ngắn này, tôi chỉ muốn đưa ra một vài khía cạnh đặc thù của loại hát trữ t́nh trong nhạc dân ca Việt Nam của dân tộc Kinh để giúp cho các bạn trẻ có một cái nh́n tổng quát về kho tàng dân nhạc và từ đó tự khám phá thêm những khía cạnh khác của vườn hoa âm nhạc đa sắc, đa âm của nhạc truyền thống Việt Nam.
Sách tham khảo Lư Nhất Vũ, Lê Giang: "Dân ca Bến Tre", NXB Ty Văn Hóa Thông Tin Bến Tre, 1981 Lư Nhất Vũ, Lê Giang: "T́m hiểu dân ca Nam Bộ", NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 1983. Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa: "Dân ca Kiên Giang", NXB Sở Văn Hóa Thông tin Kiên Giang, 1985 Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Thạch An: "Dân ca Cửu Long", NXB Sở Văn Hóa Thông Tin Cữu Long, 1986. Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Minh Luân: "Dân ca Hậu Giang", NXB Sở Văn Hóa Thông Tin Hậu Giang, 1986. Nguyễn Văn Huyên: "Les Chants alternés des garcons et des filles d�Annam", NXB Paul Geuthner, Paris, 1934. Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc: "Dân ca Quan Họ Bắc Ninh", NXB Văn Hóa, Hanoi, 1972. Nguyễn Chung Anh: "Hát Ví Nghệ Tĩnh", NXB Sử Địa, Hanoi, 1958. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao: "Hát Giặm Nghệ Tĩnh", tập 1 và 2, NXB Sử học, Hanoi, 1961. Nhóm Lam Sơn: "Dân ca Thanh Hóa", NXB Văn Học, Hanoi, 1965. Trần Quang Hải: "Âm nhạc Việt Nam biên khảo", NXB Bắc Đẩu, Paris, 1989. Trần Việt Ngữ, Thành Duy: "Dân ca B́nh Trị Thiên", NXB Văn Học, Hà nội, 1967. Trần Việt Ngữ, Trương Đ́nh Quang, Hoàng Chương: " Dân ca miền Nam Trung Bộ", tập 1 và 2, NXB Văn Hóa, Hà nội, 1963. Tú Ngọc: "Hát Xoan" (dân ca Phú Thọ), Vụ Nghệ Thuật, Bộ Văn Hóa, 1958 (tài liệu in roneo) Tú Ngọc: "Bước đầu t́m hiểu Hát Xoan Vĩnh Phú", NXB Ty Văn Hóa Thông Tin Vĩnh Phú, 1981 Tú Ngọc: "Dân ca Người Việt", NXB Nhà Xuất Bản Âm Nhạc, Hà nội, 1994. Vũ Ngọc Phan: "Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam", tái bản lần thứ 7, NXB Khoa học xă hội, Hanoi, 1971.
Tạp chí Âm Nhạc, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hà nội, từ 1978 tới 2000 Tạp chí nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, Bộ Văn Hóa Thông tin, Hà nội, từ1973 tới 1990. Dân ca đồng bằng Bắc bộ, NXB Âm Nhạc, Hà nội (Ngọc Oánh ghi, gồm 14 bài) Dân ca Quan Họ Bắc Ninh, NXB Văn Hóa, Ha ụnội, 1974 (Tú Ngọc ghi, 8 bài) Dân ca Trung du, NXB Âm Nhạc, hai tập, Hà nội (Ngọc Oánh ghi, 19 bài) Dân ca Nam Bộ, NXB Văn Nghệ TP HCM, 1983 Dân ca Thanh Nghệ Tĩnh, NXB Âm Nhạc, Hà nội (Lê Quang Nghệ ghi, 20 bài) Quan Họ, NXB Mỹ Thuật và Âm Nhạc, Hà nội, (Nguyễn Viêm và Ngọc Oánh ghi, 60 bài / 3 tập), 1960 Dân ca B́nh Trị Thiên, NXB Âm Nhạc, Hà nội (Nguyễn Viêm ghi, 32 bài) Dân ca Nam bộ, NXB Mỹ Thuật Âm Nhạc, Hà nội (Trần Kiết Tường ghi, 29 bài) Hát Xoan, NXB Âm Nhạc, Ha ụnội (Ngọc Oánh và Tú Ngọc ghi, 9 bài) Hát Ghẹo, NXB Văn Hoá Nghệ Thuật, Hà nội (Ngọc Oánh ghi, 15 bài) Hát Ghẹo Vĩnh Phú, NXB Văn Hóa, Hà nội, 1974 (Nguyễn Đăng Ḥe ghi, 10 bài) Ḥ Sông Mă, NXB Văn Hóa Nghệ thuật, Hànội (Lê Quang Nghệ ghi, 9 bài) 18 tập Dân ca phổ biến, NXB Mỹ Thuật Âm Nhạc, Hà Nội, 1960-61 (nhiều người ghi) 5 tập Dân ca Việt Nam, NXB Mỹ thuật Âm Nhạc, Hà nội, 1971-1972 (nhiều người ghi)
Rêves et Réalités / Tran Quang Hai & Bach Yen, do hăng Playasound phát hành PS 65020, Paris, 1988. Trên 10 CD về dân ca Việt Nam do Viện Âm Nhac phát hành. Có thể hỏi mua tại: Viện Âm nhạc, 32 Nguyễn Thái Học, Hanoi, VietNam. Liên lạc e-mail: musicology@hn.vnn.vn hay có thể viếng trang nhà website: www.vnstylevdc.com.vn/vim để có thể đặt mua dĩa CD, CDV, và sách nghiên cứu về dân ca, nhạc cổ truyền Việt Nam.
|
Xin vui ḷng liên lạc với
haphuonghoai@gmail.com về tất cả
những ǵ liên quan đến trang web nầy
|