Những
Câu Hát Phường Vải
Nguyễn Sĩ Đại
Tôi sinh ra giữa bốn bề tre nguyên thủy cây tre già chặt đi làm nhà th́
măng mới mọc lên. Tuổi thơ tôi bồng bềnh trên chiếc vơng chơng, mắt mở
xanh màu dâu vườn, dâu băi; tai lắng c̣n nghe tiếng lách cách thoi đưa,
tiếng xè xè của xe quay sợi. Nhưng không c̣n những đêm hát ví. Chỉ thấy mẹ
tôi lúc nào cũng tất bật. Người bảo: Nuôi lợn ăn nằm, nuôi tằm ăn đứng.
Mẹ tôi xưa là người con gái đẹp của làng, có bằng Primaire Tây học. Nhưng
ông nội tôi lọt mắt và hỏi làm dâu chỉ v́ mê điệu hái dâu.
Ông nội tôi làm lư trưởng. Nhưng bên trong, ông làm chính trị. Những cuộc
họp kín thường diễn ra ở nhà tôi. Ông bị Pháp bắt. Ra tù, ông thôi làm
chính trị, một ḿnh, một ngựa bạch ngao du sơn thủy, đi hát ví, hát đúm
tận Nam Đàn, Nghi Xuân, có khi kéo bạn hát về nhà cơm rượu ḥ hát mấy ngày
liền. Thời ấy hát, sau này các cô tôi bảo, là \
Hát cho đổ quán xiêu đ́nh,
cho long lanh nước, cho rung rinh trời,
hát cho ngày rạng đông ra,
mai về quan bỏ nhà pha cũng đành"...
Cấy hát, gặt hát, ngược nguồn xuôi bè hát, phường nón, phường vải hát.
Nhàn rỗi, không phường ǵ trăng thanh gió mát cũng hát. Mà nên một vùng
dân ca xứ Nghệ đậm đà.
Khi tôi lớn, ông bà đă mất. Làng xóm đi vào hợp tác, có cái rộn rịp của
sản xuất mới và b́nh dân học vụ, khẩu hiệu viết trên nong trên mẹt treo
đầy các ngơ. Nhưng những đêm hát ví th́ đă đi vào quá văng. Chỉ khi mẹ tôi
đi vắng, không bị hối việc, có các cô về, cô cháu gợi chuyện, các cô mới
hát cho nghe.
Trong làng có một người phụ nữ dệt lụa rất đẹp tên là bà Hạnh. Bà Hạnh chỉ
ngồi khung cửi không bao giờ ra ruộng cho nên nước da trắng và bà hay hát.
Có dạo, không tṛn bóng (buổi trưa) nào mà tôi không đến ngồi ở bậu cửa bà
Hạnh để nghe bà kể chuyện và hát.
Xin trời hăy nắng khoan mưa
Cho dâu xanh băi, cho vừa ḷng tằm
Khi mô cho đến tháng mười
Đọi cơm khúc cá vừa cười vừa ănKhông hiểu sao, một đứa bé chưa sạch mũi
như tôi hồi ấy lại mê:
Đă thương th́ thương cho chắc
Đă trục trặc th́ trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ nọ nó đứng đầu chuồng
Khi vui giỡn bóng
Khi buồn bỏ đi...
Thương em răng được th́ thương
Đừng trao gánh nặng trữa (giữa) đường tội em
Cầm vàng mà lội qua rào
Vàng rơi không tiếc, tiếc bộ má đào của em
Rồi bà kể: có anh đi hát phường vải, chẳng may đường trơn bị ngă. Các cô
trong nhà cười ầm và hát vọng ra:
Đến đây ḥ hát làm thân
Cái đầu bái lậy trước sân làm ǵ
Chàng trai là người thông minh, cũng chẳng phải vừa:
Đất đâu có đất lạ lùng
Đứng th́ chẳng chịu, nằm cùng th́ cho
Với cái anh bạo mồm như vậy, c̣n ai dại trêu ghẹo làm ǵ?
* * *
Làng tôi là làng Đông Tây. H́nh như xưa là người các nơi đổ về. Đông - Tây
chí biện đổ hân hân. Cả một vùng Can Lộc kẹp giữa Trà Sơn và Hồng Lĩnh,
hầu như làng nào cũng nổi tiếng. Phía đông làng tôi là Trường Lưu, quê
hương Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ. Phía bắc là Song Lộc,
quê của thám hoa Phan Kính. Phía tây bắc là Thường Nga, Thường Nga cửu thế
cửu cung phi, chín đời hạ và phi để có một tên làng. Làng tôi chỉ nổi
tiếng với một câu: "Lộ Đông Tây bất khả hành". Vào mùa mưa lụt, đường trôi
xuống ao xuống ruộng, có chỗ bám được gốc tre, gốc duối; có chỗ phải đứng
chôn chân trong bùn đến đầu gối. Không có người kéo, tự ḿnh không rút
khỏi. Chỗ lầy lội là chỗ điền địa tốt. Nghe nói xưa làng tôi chưa mở kho
thóc, dân Đức Thọ chưa có ǵ để làm hàng xáo.
* * *
Tôi xa hẳn làng vào những năm chiến tranh ác liệt, ở tuổi thiếu niên. Và
đến tuổi bốn lăm mới lại trở về. Bà Hạnh và nhiều người đă chết. Cả làng
bây giờ không c̣n khung cửi và gốc dâu nào nữa. Mẹ tôi lụi hụi với tuổi
bảy mươi, nửa hồn héo hắt ở phương nam, nơi anh tôi ngă xuống; nửa hồn nhớ
cháu nhớ con ở tám phương, chín phương mà không dễ t́m thăm.
Rơ ràng, trong mắt người đứng tuổi và nhiều lịch dịch như tôi, ngôi làng
quê trở nên nhỏ bé. Dĩ nhiên, đi đêm không c̣n sợ ma. Gặp hiện tượng ǵ,
lư trí cũng t́m cách giải thích.
Thế mà ngày xưa, mỗi cánh đồng là một vùng đất mới lạ. Trong mỗi khóm tre,
bụi chuối, đỉnh núi, trời sao đều có ma quỷ, thánh thần, sự linh thiêng.
Ngôi làng là cả một bao la vũ trụ, bao la nhân thế. Người ta đă mất đi
quan niệm ấy cùng với tuổi thơ. Nhưng bù lại, người lớn sẽ hiểu hơn cái
thăm thẳm của hồn làng khi nghĩa địa là nơi vùi chôn những người ḿnh đă
từng chung sống. Cái mất, cái c̣n của làng và của ḿnh cứ quấn quưt đan
xen, hư thực mờ ảo. Nhiều khi cái trước mắt là xa, cái xa th́ gần, bồn
chồn, rạo rực. Một người Trung Quốc xưa có nói:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao
Trẻ con nh́n lạ không chào
Cho nên cười hỏi: "Khách nào lại chơi"
Tôi không khác người Trung Quốc đó. Ôi làng quê Việt Nam bao giờ cũng dành
cho những đứa con đi xa một nỗi nhớ thương và t́nh cảm đặc biệt. Phải sống
lại với làng, phải tṛn trịa với quê hương, phải t́m lại những ǵ đă mất,
đă chưa kịp kết khí trong hồn với tôi gần đây thành một điều thôi thúc.
Tôi là con của làng, mà đâu biết phong hóa tập tục, từ chuyện cưới xin, ma
chay, phải đọc Phan Kế Bính từ con số không mà lẽ ra phải ngược lại...
Những câu mẹ tôi ru em xưa nghe buồn bă, ứ đầy tâm sự mà đâu tôi có hiểu
được ḷng Người, ngơ hầu làm Người vơi nhẹ, nào những:
Chim xanh xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát lên nhành nghỉ ngơi
Cực ḷng lan lắm huệ ơi
Kiếm nơi mô im mát, huệ ngồi cho lan phân
V́ sương cho núi bạc đầu
Biển lay v́ gió, hoa sầu v́ mưa
Lịch sử hiện đại đất nước, không biết bao thăng trầm, biến động, bao phen
nhân thế khóc cười. Có tâm sự phải im nén cả đời không thể tỏ bày. Có nỗi
đau thương phải trời xanh kia may th́ mới hiểu. Đó là bên trong. Bên ngoài,
mẹ tôi là một người sôi sục hoạt động xă hội, mới nghỉ gần đây. Đă có lúc
Người được điều lên huyện, lên tỉnh. Nhưng chồng thoát ly, một nách bảy
con, Người đă hy sinh v́ chúng tôi hết thảy. Một nách bảy con vào những
năm đói kém, ác liệt nhất của lịch sử, sự nuôi dạy của Người đối với chúng
tôi không thể đủ đầy. Nhưng có sự bày dạy lặp đi lặp lại, đọng với chúng
tôi qua thanh lọc thời gian, đó là quư nhất là con người. Làm người cái
quư nhất là sự thật thà và trọng nghĩa khí. "Khôn ngoan kẻo lọ thật thà".
Không chỉ hát ru, ngày thường, Người vẫn dạy chúng tôi bằng những câu lục
bát: "Có vàng vàng chẳng hay phô - Có con con nói trầm trồ mẹ nghe", "Muốn
cho t́nh nghĩa lâu dài - Đừng coi của trọng hơn người mà hư"...
Tôi hỏi Người về hát phường vải. Người bảo: Đi mà hỏi o Thắng là người cô
thứ năm, bẩm sinh thông minh, ông tôi chỉ cho đi học đến biết đọc, biết
viết nhưng có trí nhớ lạ lùng. Vào những năm chiến tranh quê tôi rộ lên
phong trào ḥ - hát đối đáp giữa làng này với làng khác, giữa làng với bộ
đội cô luôn được mời làm "cố vấn" để đặt lời. Mẹ tôi gặp lần nào cũng đuổi
về, nhưng rồi đêm nào cô cũng băng đồng túm tụm với bọn trẻ.
O Thắng kể: Hát phường vải thường hát tự nhiên, ai thích ǵ hát nấy. Có
khi mấy chị em hát với nhau. Lâu lâu mới có đám hát, nghe tiếng nhau mà có
những anh nho (nho sinh), thầy kư (thư kư) đến hát th́ lúc đó, hát có lớp
lang như hát dặm, hát chào, hát mời, hát hỏi, hát đố, hát xe duyên, hát
tiễn hẹn.
Rồi cô hát, câu hát chào:
Đến đây đông thật là đông
Chào bên nam th́ mất ḷng bên nữ
Chào quân tử th́ sợ dạ thuyền quyên
Em chào chung một tiếng kẻo chào riêng bạn cười...
Câu hát xe duyên:
Thiếp thương chàng đừng cho ai biết
Chàng thương thiếp đừng để cho ai hay
Rồi ra miệng thế lắt lay
Cực chàng chín rượi (rưỡi) khổ thiếp đây mười phần
"Hay rứa lạo (lăo) nạ"! Hay! Tôi đáp. O bỗng bật cười rồi dụi dụi mắt.
Những ǵ của O trong tiếng cười, trong giọt nước mắt vừa ứa? Tôi đă nghe
nhiều Xuân Năm, Hồng Năm, Lệ Thanh hát những câu hát này. Nhưng không thấy
được giọt nước mắt trên má răn reo của người cô luống tuổi. Ngoài kia, lúa
mùa vừa chín. Những quả khế non lích rích dưới chân chim, thảng hoặc những
lá vàng rụng từng chiếc xuống sân đất thật nhẹ. O lại hát:
(Chơ)
Anh đến giàn hoa th́ hoa đạ (đă) nở
Anh đến bến đ̣ th́ đ̣ đạ sang sông
Anh đến t́m em th́ em đạ lấy chồng
Em yêu anh như rứa, hỏi có mặn nồng lấy chi...
(Chơ)
Anh đến giàn hoa, hoa đến th́ th́ hoa phải nở
Anh đến bến đ̣, đ̣ đầy th́ đ̣ phải sang sông
Đến duyên em, cha mẹ gả th́ em phải lấy chồng
Dừ trách nhau chi lắm nựa (nữa), để cực ḷng nhau thêm...
Ôi những chuyến đ̣! Đ̣ đầy th́ đ̣ phải sang sông... Những chuyến đ̣ chở ai
về hạnh phúc và chở ai về oan trái? Rồi chuyến đ̣ thời gian chở những đời
người đi đâu mà mải miết? Giấc mộng kê vàng, thế sự du du... Nhưng thôi,
vận vào mà chi cái nỗi buồn thiên cổ!
Hôm nay, tôi muốn theo câu hát của cô tôi mà về Trường Lưu, làng hát
phường vải nổi tiếng nhiều đời. Nơi đây Nguyễn Du đă về hát và nhiều câu
Kiều từ những buổi hát này mà nên. Người xưa ví:
Xôi nếp cái, gái Trường Lưu
Văn nhân tài tử dập d́u
Xăm xăm t́m nẻo Lam Kiều lầu sang.
Lam Kiều là một địa danh ở quê tôi, có trường Lam Kiều nơi nuôi dưỡng tài
năng của Giáo sư Nguyễn Đ́nh Tứ. Đọc Nguyễn Du ta thấy có "Văn tế sống
Trường Lưu nhị nữ":
Những ngỡ trăm năm trước hẹn ḥ đă chắc, để phũ phàng ba chốn bốn nơi;
Nào ngờ tháng sau này tệ bạc làm sao, bỗng tống táng một tuần hai ả...
"Hai ả" đó là o Uy, o Sạ, những nhân vật có thật. Nguyễn Du đă từng băng
từ Tiên Điền (huyện Nghi Xuân) sang Tràng Lưu (Can Lộc) 40 cây số để đi
hát và "dốc ḷng gắn bó" duyên trăm năm. Chính sau này, khi Nguyễn Huy
Quưnh "Thác lời gái phường vải Trường Lưu gửi trai phường nón Tiên Điền":
Trảng mai hầu trở ra về
Hồn tương tư hăy c̣n mê giấc nồng
Cơi trầu chưa kịp tạ ḷng
Tỉnh ra khách đă non sông mấy vời
Nguyễn Du cũng "Thác lời trai phường nón Tiên Điền gửi gái phường vải
Trường Lưu" rằng:
Tím gan cho cái sao mai
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên
Về qua liếc mắt trông miền
Lời oanh giọng ví chưa quên dằm ngồi
Giữa thềm tàn thuốc c̣n tươi
Bă trầu chưa quét nào người t́nh chung
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng
Đ̣ cài mấy trượng th́ ḷng bấy nhiêu...
Văn là văn viết chơi mà t́nh là t́nh thật, đậm đà xiết kể. Sự ra đi của
những người con gái "sắc đành đ̣i một, tài đành họa hai" ấy chắc để lại
trong ḷng Nguyễn không ít trống vắng để khi về quê nhà, trước cửa biển
chiều hôm thấp thoáng thuyền về, thức nhận những cuộc t́nh, những số phận
khác nào cánh buồm lẻ bên trời, man mác hoa trôi! Những bia tiến sĩ c̣n
đây, Truyện Kiều c̣n đây mà o Uy, o Sạ, o Cúc chàng Nguyễn xưa, một chàng
Nguyễn xắn quần lội bùn sông Cài đi hát th́ đă mất tăm trong vũ trụ, không
biết có c̣n ǵ trong hồn cây, hơi gió quê hương?
Từ Trường Lưu tôi lại về Kim Liên. Đây cũng là một cái nôi của ví phường
vải Nghệ An. Câu lạc bộ Phường Vải mới thành lập lại. Tôi đă được nghe
nghệ nhân Trần Văn Tư hát và kể cho nghe tài hát của bà Hoàng Thị An. Thế
đấy. Không có người mẹ th́ cả anh hùng và thi nhân đều không có. Không
phải chỉ đẻ ra mà là nuôi dưỡng. Những phụ nữ như o Uy, o Sạ, o Tiu, o
Nhẫn, bà An... lặng thầm, bền bỉ nuôi dưỡng hồn dân tộc. ở Kim Liên, các
bước ví phường vải cũng như quê tôi nhưng tên gọi khác: hát dạo gọi là hát
lơ lửng, hát xe duyên gọi là hát t́nh.
Hát lơ lửng có khi người làng khác đến hát, có khi người ở trong nhà hát
vọng ra rứu chân khách:
Nhất vui là cảnh Kim Liên
Cảnh đà có cảnh, người tiên có người...
Ngày xưa hay hát với bà An có anh Tú San (không phải là Giải San Phan Bội
Châu) và ông Hoe Ba là người hay chữ. Trong hát đối (hát đố) bà An cất
tiếng:
Sơn sơn xuất, anh hùng hào kiệt
Gái nữ nhi ngồi trong bóng nguyệt
Nguyệt nguyệt bằng quân tử trượng phu
Chàng mà đối được, em xin làm du (dâu) nhà chàng
Đây là câu hát đố chữ, đố không khó v́ hai chữ Sơn là một chữ xuất, hai
chữ nguyệt là một chữ bằng, nhưng khó là ở đối lại.
Chuyện các văn nhân hát thua các thôn nữ quê mùa không hiếm. Khi Nguyễn
Công Trứ bị hỏi:
Hỏi chàng hà tính hà danh
Hà châu, hà quận, niên canh kỷ hà?
th́ cũng không thể trong một câu mà trả lời cho sát, đành vu khoát:
Trước Lam Thủy, sau Hồng Sơn
Nhà ai hay hát, hay đờn là anh.
Ngay cả Giải San Phan Bội Châu cũng nhiều phen lúng túng - Cho nên sĩ tử
đất Nghệ Tĩnh trước khi đi thi phải mấy lần tập dượt văn sách với phường
vải, để chị em kiểm tra;
Đồn đây có gái hát tài
Để ta đối địch một vài trống canh
Dẫu thua dẫu được cũng đành
Bơ công đèn sách học hành bấy lâu.
Trong ví phường vải, hát hỏi (hát đố, hát đối và hát xe duyên hát t́nh,
hát xe kết) là để lại nhiều áng văn chương hay nhất. Con gái Nghệ Tĩnh vốn
yêu thơ ca, con nhà nông có, con nhà Khoa bảng có, khi hát đố sách, đố chữ,
có khi hát đố về thực tế. Có khi là "Truyện Kiều anh thuộc đă lâu, đố anh
đọc được một câu hết Kiều", có khi là câu đố đối hóc búa:
Năm con ngựa cột cồn Ngũ Mă
Chín con rồng nằm Cửu Long Giang
Chàng mà đối được, có lạng vàng em trao...
Có khi là câu đố về công việc nhà nông:
Đến đây hỏi khách nhà nông
Một trăm mẫu ruộng mấy công cày bừa?
Có khi là một câu đố về lễ, đặt người con trai vào một t́nh huống cực kỳ
nan giải:
Đồn rằng anh học đă cao
Hỏi chị dâu rớt giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên.
Có anh trả lời ngay, cứu được chị mà không thất lễ:
Chị dâu mà rớt xuống giếng
Anh t́m miếng để cứu chị lên
Nắm đầu th́ sợ tội trời
Hai tay nâng đỡ, sợ lời thế gian
Nhanh tay liền bắc cái thang
Kéo chị dâu một thuở kẻo chết oan con người
Có anh không biết làm ǵ cả, đành la làng:
Nắm đầu th́ khổ
Nắm cổ th́ không nên
Nắm chân tay th́ lỗi niềm huynh đệ
Vậy th́ anh cứ van làng là hơn!
* * *
Tôi không phải là một nhà dân gian học, nhưng nhận thấy ví phường vải là
một thể vừa định h́nh vừa không câu thúc bởi điều ǵ, thậm chí không cần
đến một nhạc cụ nào nên sức sống của nó chắc hẳn sẽ rất lâu bền, dù canh
cửi giờ đây không c̣n nữa. Những ǵ mà Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao, Lê
Hàm, Vi Phong... sưu tầm được đă là một gia sản quư đóng góp cho kho tàng
văn hóa dân gian Việt Nam và nghiên cứu tính cách người Nghệ, một đề tài
gần đây được các nhà khoa học xă hội quan tâm. Tôi nghĩ rằng, trước hết
phải nghiên cứu tính cách người phụ nữ xứ Nghệ xốc vác, lam làm, thông chữ
nghĩa, thông đạo lư - không những thông mà chính người phụ nữ mới nuôi đạo
lư, giữ ǵn nền nếp, gia phong, hương tục. Họ có quyền b́nh đẳng với nam
giới và có tính cách cứng cỏi, mạnh mẽ. Để được giải phóng, họ dám phát
biểu và đương đầu. Người ta hay chê kẻ đứng núi này trông núi nọ. Họ nói:
Trèo lên Rú Bụt, trụt xuống Khe Giao
Đứng núi này trông núi nọ, núi mô cao em trèo!
V́ t́nh, họ chấp nhận:
Tưởng là cha mẹ đập một vài ba roi
Ai ngờ đập đến chín chục, một trăm roi
Em ḅ lăn ḅ lóc, em khóc đứng khóc ngồi
Anh ơi dù bầm lưng máu chảy vẫn trọn đời yêu anh.
Trong kho tàng tục ngữ, ca dao vùng này có câu giận, câu thương, câu chán,
câu hờn nhưng xét về tần số th́ câu thương, câu nhớ, câu nghĩa, câu t́nh
vẫn đậm đặc hơn cả. Khi sáng tác th́ rất phong phú, đa dạng. Qua thời gian,
tức là qua sự chọn lựa của con người, th́ cái mà người Việt Nam muốn
truyền cho nhau vẫn là t́nh nghĩa (hơn cả kinh nghiệm sản xuất). T́nh
nghĩa ấy ở vùng đất Khu Bốn nhọc nhằn này như được cô nén hơn, thống thiết
hơn.
Với chồng:
Nghe tin anh đau đầu chưa khá
Em băng ngàn bẻ lá về xông
Mần răng cho trọn đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi em quạt, trộ gió lồng em che
Với con:
Mấy lâu buôn bán nuôi ai
Mà áo em rách, mà vai em ṃn?
Mấy lâu buôn bán nuôi con
áo rách mặc áo, vai ṃn mặc vai...
Với cha mẹ:
Cá bống chặt trước (đầu), chặt đuôi
Tôm he bóc vỏ mà nuôi mẹ già
Mỗi đêm thắp một đèn trời
Cầu cho cha mẹ ở đời với con
Với đồng bào lối xóm:
Xung quanh những họ cùng hàng
Coi nhau như ngọc như vàng mới nên
Người Nghệ chất phác, mộc mạc, điều ấy ai cũng biết. Nhưng không phải
không tinh tế. Tinh tế và mặn mà, ám ảnh đến mức tâm trạng thành cổ điển
trong văn học sử:
Sáng trăng ngồi gốc cây mai
Bóng ḿnh lại tưởng bóng ai t́m ḿnh
Ra về nước mắt trông chừng
Ngóng truông truông rậm, ngóng rừng rừng xa
Người ta nói người Nghệ bảo thủ. Người phụ nữ không biết làm duyên, làm
dáng. Cũng có thể:
Khăn nâu áo vải là thường
Cốt trau cho được luân thường là hơn
Nhưng không phải là phản đối sự điểm trang, trau chuốt, mà như cách nói
ngày nay là không được chú ư lắm. Âu cũng là cái phải bổ khuyết. Nhưng về
cơ bản th́ đúng. Họ từng nói "Điểm trang nhă nhặn là hay", nhưng phải là
phù hợp với hoàn cảnh chớ đừng:
Mẹ em hết gạo treo nồi
Em c̣n trang điểm chạc lưng sồi làm chi
|