Home Tìm Ca Dao Trợ Giúp Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Câu Hò Trên Sông Hương

GS.TS TRẦN VĂN KHÊ


Năm 1941, khi tổ chức chương trình văn nghệ hàng năm của Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Hà Nội, tôi có đề nghị đưa lên sân khấu ba điệu hát dan gian, để chứng tỏ rằng dân Việt ba miền Bắc Trung Nam, tuy có giọng nói và nét nhạc dân gian khác nhau, nhưng cùng chung một ngôn ngữ. Sinh viên miền Bắc hát bài cò lả, miền Trung hò mái nhì và miền Nam hò cấy. Câu hò trên sông Hương năm ấy do chị Phùng Thị Cúc, sinh viên nha khoa, ngày nay là chị Điềm Phùng Thị, một nhà điêu khắc Việt Nam nổi tiếng trên thế giới, biểu diễn trên sân khấu và dạy lại tôi:

Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
Vàng cầm trên tay rớt xuống không phiền
Anh xa bạn cũ biết mấy niên giải sầu!

Năm 1951, tôi bắt đầu sưu tầm tài liệu để soạn luận án Tiến sĩ về âm nhạc, tôi gặp trong bảo tàng viện Guimet đĩa hát Beka số 20324 ghi lại câu hò mái nhì có hai giọng nữ cho câu kể cau xô, và tiếng đàn nhị mà tôi nhận ra là của giáo sư Nguyễn Hữu Ba. Đĩa hát đó không ghi rõ năm in, nhưng thuộc loại đĩa phát hành lối 1937-40. Trong đó có câu hò:

Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
Một trăm người tục, một chục người thanh.
Biết đâu gan ruột gởi mình,
Mua tơ theo lấy tượng Bình Nguyên Quân.

Tôi rất thích thú học câu hò này, mà lúc ấy tôi còn nằm trong bệnh viện chưa đi nước ngoài trình diễn giới thiệu nhạc Việt Nam.

Năm 1954, khi hoàn toàn xuất viện, tôi lại gặp trong Bảo tàng viện Con người, một băng từ ghi âm câu hò mái nhì do chị Châu Loan biểu diễn tại Varsovie (Ba Lan), giọng chị trong mát như suối nước sông Hương, tôi chép lại và học thật kỹ cách luyến láy của chị vì tôi nói tiếng Việt rặt giọng miền Tiền Giang, bắt chước được giọng Bắc khi học Y khoa tại Hà Nội, mà giọng miền Trung thì chịu thua. Không nói được tiếng Việt Nam theo giọng Huế, nhưng khi hò mái nhì, tôi theo cách buông hơi, luyến láy của chị Châu Loan nên các bạn tôi gốc Huế đều cho là “nghe có hơi Huế lắm”.

Từ đó, khi nói chuyện trên đài BBC (Anh quốc), trong chương trình tiếng Việt, hay có lúc đi giới thiệu nhạc Việt Nam trong 24 tổng nước Thụy Sĩ cho hội “Thanh niên yêu nhạc” và sau này trên 40 nước đã mời tôi thuyết trình về nhạc truyền thống Việt Nam, đi đâu tôi cũng hò câu:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non!..

Tôi đinh ninh đó là câu hát trong dân gian, như những câu hò cấy miền Nam, hò khoan Quảng Ngãi, hò giã gạo miền Trung, không ai biết tên người nào đã sáng tác ra những câu hò được truyền tụng như thế.

Mãi đến sau, khi gặp hiền muội Tôn Nữ Hỷ Khương, trong một câu chuyện, tình cờ Hỷ Khương cho tôi biết rằng câu hò đó do cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thi sáng tác, tôi rất xúc động, vì một nhà thơ sáng tác một câu hò hay điệu hát mà dân gian chấp nhận không còn nhớ tên người đặt, tức là nội dung câu hò điệu hát đó phù hợp với cảm nghĩ, suy tư, hay hoài bão, nguyện vọng của dân chúng, nên đã đi thẳng, đi sâu vào lòng của dân chúng, lời lẽ bình dân, dễ nhớ, dễ truyền, và dân chúng đã chắt chiu gìn giữ, truyền tụng từ người này đến người khác, từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Ít nhà thơ nào, trừ ra cụ Nguyễn Du với truyện Kiều được dân chúng nhớ lời thơ mà quên tên tác giả như thế.

Đến năm 1992, khi nhận quyển “Thơ ca” tuyển tập của cụ Ưng Bình Thúc GIạ Thi, đọc trang 314-316, tôi thấy rằng chẳng những câu hò “Chiều chiều trước bến Văn Lâu”, mà câu “Một vũng nước trong, mười dòng nước đục”, cùng với tám câu hò khác, đều do cụ Ưng Bình sáng tác, cho người chèo thuyền hát trên sông Hương.

Câu hò “Chiều chiều trước bến Văn Lâu” từ mấy chục năm nay đã được nghệ sĩ ca Huế dùng làm câu mở đầu để ca bài ca Nam bình. Một mặt vì thang âm điệu thức của câu hò và của bài Nam bình giống nhau trong cách dùng mấy chữ xự non, xang già, xê, cống hơi non. Cũng có lễ câu hò kết thúc bằng hai chữ “nước non” - “đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non” để tiếp theo hai chữ đầu trong bài Nam bình… “Nước non ngàn dặm ra đi”…

Câu hò đó đã gợi hứng cho nhạc sĩ Thúy Hoan sáng tác bài “Tình ca xứ Huế” được phổ biến rộng rãi khắp năm châu, Hải Phượng đã ghi âm cho hãng đĩa OCORA bên Pháp năm 1994.

Trong đĩa hát Echoes of ancestral Voices - Tiếng ngàn xưa số MD 3199 do Lê Tuấn Hùng và Đặng Kim Hiền thực hiện và hãng đĩa Move Records PMI phát hành tại Úc năm 1997, bài thứ 8 là câu hò “Chiều chiều trước bến Văn Lâu” do Kim Hiền hò và tự đệm đàn nguyệt, có Lê Tuấn Hùng phụ họa đàn tranh.

Giáo sư John Balaban, người Mỹ trước kia thuộc đại học Massachusset, nay là Giáo sư đại học Miami, khi nghiên cứu về ca dao Việt Nam vào những năm sau 1971-72 có dịch câu hò ra tiếng Anh. Thuở ấy, ông chưa biết rằng câu hò “Trước bến Văn Lâu” là do cụ Ưng Bình sáng tác. Sau này tôi có dịp gặp ông mấy lần và nói chuyện với ông về xuất sứ câu hò và cách dịch câu hò “Trước bến Văn Lâu” ra tiếng Anh mà tôi gặp một khó khăn là khi dịch Chiều chiều (Evening after evening) - ai ngồi (sitting), ai câu (fishing), ai nhớ ai trông (remembering), ai thương ai cảm (loving). Nhưng tôi không tìm ra chữ nào có âm “ing” cho có vần có điệu vì sầu thảm tôi chỉ biết mấy chữ “sad” hay “sorrowful”. Ông Balaban đề nghị chữ “grieving” tôi sung sướng quá!

Năm 1994, trong tạp chí Asian Arts and Cultures (Nghệ thuật và văn hóa Châu Á) số đặc biệt về Việt Nam vol VII, No 1, winter 1994. (Mùa đông năm 1994), ông Balaban đăng một bài về ca dao Việt Nam. Khi dịch lại câu hò Trước bến Văn Lâu, ông có thêm câu thơ ấy do cụ Thúc Giạ Thị (tên thật là Ưng Bình) đặt ra trong lúc vua Duy Tân bỏ kinh thành, hoạt động bí mật chống Pháp. Câu dịch của ông như sau:

Evening before the King’s Pavilion
People are sitting, fishing, sad and grieving
Loving, in love, remembering, waiting, watching
Whose boats plies the river mists?
offering so many rowing songs
That moves these mountains and rivers, our nation.

Câu dịch rất sát nghĩa, nhưng chưa dịch thoát được chữ “ai” khi ông dũng chữ “people”.

Tưởng nhớ ngày sanh của cụ, nếu căn cứ theo luật vô thường có sanh thì có tử. Nhưng thi ca của cụ, nhất là câu hò bất hủ của cụ sẽ còn vang mãi trong lòng người Việt, và chiều chiều các đoàn nghệ thuật ca nhạc Huế, đều dùng câu hò “Trước bến Văn Lâu” để chiêu đãi du khách dạo thuyền trên sông Hương ngày nay và mãi đến mai sau.

Post ngày: 12/08/18 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18