| |
|
- Tục hát cửa đ́nh năm xưa
- --------------------------------------------------------------------------------
Cho đến nay chưa biết chắc tục hát cửa đ́nh (c̣n gọi là hát ca trù, ả đào) ra
đời từ bao giờ. Sách đại lược sử kư toàn thư chép rằng: năm 1025 vua Lư Thái Tổ
thấy có cô gái là Đào Thị giỏi nghề hát được nhiều người mến mộ nên tất cả các
nữ ca sĩ đều cho gọi là đào nương và dân gian gọi là ả đàọ Có thể ca trù đă ra
đời từ trước thời Lư, dân gian gọi là hát cửa đ́nh sau đó phát triển đi vào cung
đ́nh phục vụ vua quan.
Sử sách ngày xưa c̣n ghi lại tên tuổi nhiều ả đào có công đánh giặc ngoại xâm
hay cứu dân độ thế. Sách lịch sử Việt Nam trong đoạn chép về cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc từ 1407 - 1427 cũng nêu tóm tắt: một cô hát ả đào ở Tiên Lữ
nay là Phù Tiên - Hưng Yên tên là Huệ cũng dùng lời ca tiếng hát và mưu trí của
ḿnh để tiêu diệt từng toán giặc khi chúng kéo về đóng đồn ở quê hương cộ Nhớ
công ơn người nghệ sĩ dân gian đó, dân làng đặt tên cho thôn của cô là thôn Đào
Đă.ng.
Hàng năm cứ vào ngày 02/02 âm lịch tại đền mẫu là nơi tưởng niệm bà Đào Nương.
Những nghệ nhân thôn Đào Đặng đă diễn vở kịch về sự tích bà Đào Nương để ca ngợi
và giúp thế hệ mai sau hiểu hơn về người con gái họ Đào, một nghệ sĩ hát ả đào
nổi tiếng đă phát huy truyền thống Hai Bà Trưng nêu gương sáng cho phụ nữ Việt
Nam dù tay trắng cũng giết được giặc ngoại xâm.
Sự tích kể rằng, vào cuối đời nhà Hồ 1400 - 1407 ở làng Đào Đặng có một ca nữ họ
Đặng tên là Huệ nổi tiếng khắp vùng. Bà sinh ra và lớn lên vào thời loạn lạc,
quân Minh sang xâm lược nước ta, sau khi đánh bại triều Hồ, đổi nước ta thành
quận Giao Chỉ đặt bộ máy đô hộ, đóng đồn trại khắp nơị Khi giặc kéo đến làng Đào
Đặng bắt một số thiếu nữ trong đó có Đào Thị Huệ đưa về phục dịch cho chúng. Bọn
giặc này có thói quen nằm ngủ trên ghế tre, mỗi đứa một chiếc rồi chui vào túi
gai nhờ người ở ngoài thắt lại chứ không có màn. Nhờ có cả thanh và sắc lại khéo
chiều chuộng, lúc bấy giờ giặc tin cô và một số chị em nên chúng giao phó tính
mạng cho một số chị em này, phục vụ ăn uống, chiêu đăi hát ḥ... thậm chí tối
đến thắt cái túi ngủ cho chúng. Một số chị em này lúc đầu làm thấy cũng lạ,
nhưng có một hôm cô Đào Thị ra sông Mai Nguyên, đây là con sông chẩy siết, cô
nghĩ đến nước sông này có thể là nơi chôn sống bọn lính giặc nàỵ Bấy giờ cô bàn
với các cụ nên tổ chức một số thanh niên, dân binh khoẻ mạnh, tin cậy buổi tối
đến lều trại để các cô sẽ đưa anh em vào, hai người xách một cái túi quẳng xuống
sông Mai Nguyên. Kế hoạch này đă được thực hiện từ ngày này sang ngày khác, cuối
cùng khi giặc kiểm tra quân số thấy ít dần, địch hoảng hốt sợ đấy là đất thiêng.
Quân địch không hiểu là do có quân của ta nội ứng nhổ trại rút khỏi nơi khác và
từ đó dân làng ở nơi đó được giải phóng.
Sau khi bà Đào Nương mất, nhân dân Đào Đặng lập đền thờ ngay trước chợ để bà con
qua lại hàng ngày tưởng nhớ người liệt nữ tài hoa, mưu trí đă giải phóng quê
hương. Khi Lê Lợi và Nguyễn Trăi quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cơi, quan sở tại
đă tâu việc này lên Kinh xin tặng phong. Triều đ́nh xét công trạng Đào Thị Huệ
đă dùng mưu giết giặc cứu dân phong làm Phúc Thần sai trích tiền kho, làm lại
đền cho thêm tráng lệ và ban ruộng Tự Điền để dân làng đèn hương, cúng tế. Ngôi
đền Đào Đặng ngày nay chính là nơi yên nghỉ, nơi chứng tích về bà, nhân vật lịch
sử góp phần tô thắm trang sử 4.000 năm của dân tộc. Để tưởng niệm công lao to
lớn của Đào Nương, cứ vào ngày rằm và mùng 1 hàng tháng, nhân dân địa phương lại
tới dâng hương hoa thờ bà. Đặc biệt trong ngày mùng 1, mùng 2 tháng 02 âm lịch
hàng năm được coi là ngày hội truyền thống, chính quyền địa phương và các ban
ngành tổ chức mở hội dâng hương và các hoạt động văn hoá như ca hát, đấu vật,
đấu cờ...
Ra đời từ thời Lư, nhưng đến thời Lê sơ ca trù mới phát triển ma.nh. Hiện nay có
hai giáo phường nổi tiếng đều có đền thờ tổ, đó là giáo phường Lỗ Khê huyện Đông
Anh và giáo phường Phú Đô huyện Từ Liêm thờ Đinh Dự hiệu là Thanh Sà Đại vương
và vợ là Măn Đường Hoa công chúạ Ở đ́nh làng Phú Đô hiện c̣n cuốn ngọc phả bằng
chữ Hán do ông Đào Cử đỗ tam giáp tiến sĩ năm Quang Thuận thứ 7 (1466) làm quan
tới chức hộ bộ thượng thư biên soạn. Nội dung: Đinh Dự là con trai quan Khai
quốc công thần là Đinh Lễ và bà vợ họ Trần quê ở làng Lỗ Khệ Ở Phú Đô c̣n thờ
hai bà chúa có công chấn chỉnh giáo phường đó là Nguyễn Thị Phương và Nguyễn Thị
An con gái ông Nguyễn Duy T́nh người làng. Hai cô Phương và An vốn xinh đẹp hát
haỵ Một hôm cô Phương vào vùng Thập tam trại trong thành Thăng Long cắt cỏ, vừa
cắt cô vừa hát, t́nh cờ gặp một vị hoàng thân trong triều Lê đi tới làm quen và
kết làm vợ chồng. Sau đó vị hoàng thân lên ngôi là vua Lê Anh Tông (1557- 1573)
bà Phương được phong là Hoàng thái hậu, bà em cũng được đưa vào cung và phong
làm An tuyên phị Về sau hai người trở về làng dạy trai gái trong ḍng họ Nguyễn
hát ca trù. Hàng năm đến ngày 03/03 giỗ tổ, các giáo phường trong huyện Từ Liêm
vẫn đến đền Ca Công ở Phú Đô tế lễ tổ nghề.
Ngoài các giáo phường nổi tiếng đă kể trên, nay thông qua một số di vật cổ cho
thấy c̣n có thêm một số giáo phường khác. Ở đ́nh làng Văn Tŕ, xă Minh Khai
huyện Từ Liêm c̣n tấm bia vuông bốn mặt dựng năm Chính Hoà thứ 21 (170 cho
biết ngôi đ́nh của làng vốn là trụ sở của giáo phường huyện Từ Liêm, sau tổ chức
này giải tán nên những người đại diện của giáo phường Phương Canh và Thượng Ốc
đứng ra bán cho dân làng Văn Tŕ, như vậy đă có thời tổ chức giáo phường quy mô
toàn huyện.
Về các bài hát cửa đ́nh, có thể xưa kia có nhiều tác giả sáng tác các bài bằng
chữ Hán hoặc đào hát tự đặt lời nên không thấy ghi lạị Người được coi sáng tác
các bài hát cửa đ́nh bằng quốc âm đầu tiên là Lê Đức Mao sinh năm 1462 ở làng
Đông Ngạc huyện Từ Liêm.
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê... là những người sáng
tác nhiều ca trù nhất trong thời Nguyễn. Sau này có thêm nhiều tác giả sáng tác
các bài ca trù có nội dung yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Đại,
Hà Lâm...
Truyền thống lâu đời và quư báu nhất của nhân dân ta là sự ăn ở thủy chung, nhân
nghĩa, uống nước nhớ nguồn, t́nh cảm thiêng liêng ấy phát triển từ gần đến xa từ
t́nh yêu gia đ́nh, làng xóm quê hương đất nước, từ sự phụng thờ gia tiên đến sự
phụng thờ Thành hoàng làng là những anh hùng khai phá thiên nhiên và những anh
hùng có công giết giặc ngoại xâm mà hát cửa đ́nh - ả đào - ca trù là lối hát thờ
thần phục vụ việc tế tự ở đ́nh làng làm tăng thêm phần trang nghiêm thành kính
trong việc thờ cúng những Thành hoàng ấỵ Ngoài ư nghĩa ấy, hát cửa đ́nh - ả đào
- ca trù ngày nay c̣n được đánh giá là một loại h́nh âm nhạc bác học rất cần
phải ǵn giữ cho mai saụ
'Nh́n đất nước mà ḷng đaụ Lời ca có phép nhiệm mầu, khiến quân giặc Minh khắc
khoảị Đây đó thờ ơ trễ nải, nàng ả đào thành chiến sĩ nghệ nhân. Tiếng ca trù
hôm nay như ngọn gió mùa xuân, đưa về tỉnh Đông, tỉnh Bắc. Sông núi ngh́n xưa
ngày đêm đất nước vẫn nghe vọng tiếng ca trù'.
Theo Sắc mầu văn hóa
|
|