Nơi đây
còn lưu giữ được hầu như nguyên vẹn hệ thống tượng thờ đất nung,
tượng gỗ cùng nhiều cổ vật có giá trị khác. Chùa đã được Bộ VHTT
công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Cái tên "Bà Tề"
ẩn chứa sự cổ kính, theo truyền thuyết dân gian, được cắt nghĩa
rằng: Từ thời An Dương Vương, công chúa Ngọc Phi, người có nhiều
công lao với đất nước, đã sinh ra ở đây, đến cuối đời cũng mất
tại chùa.
Cảm kích công lao
của vị công chúa này, nhân dân đã gọi chùa của địa phương mình
bằng một cái tên nôm đó. Kiến trúc chùa quay về hướng nam theo
kiến trúc nội công ngoại quốc với nhiều tòa ngang, dãy dọc gồm
nhà tiền đường, ống muống, thượng điện, cổng tam quan và hành
lang.
Đáng chú ý là tòa
tam bảo được dựng theo kiểu chữ công; nhà tiền đường có 3 gian,
2 chái với bộ khung bốn hàng cột tròn và kết cấu bộ vì thống
nhất làm kiểu thượng cồng rường hạ kẻ.
Ống muống nhà dọc
nối tiền đường với thượng điện bằng những bộ vì kiểu thượng
giường hạ kẻ và 4 hàng chân cột tròn dưới kê tảng đá xanh.
Thượng điện làm theo lối kiến trúc tương đối giống tiền đường.
Dù không còn tư
liệu nào chính xác về lịch sử xây dựng, nhưng qua các hiện vật,
đồ khí tự, tượng Phật và những trang trí nghệ thuật khác như:
Chân tảng đá chạm 16 cánh sen ở hậu cung dễ nhận biết chùa được
xây dựng khoảng từ thế kỷ XVII.
Những dấu hiệu
chùa được trùng tu tôn tạo lại nhiều lần vào thời Nguyễn được
xác định dựa vào những kiến trúc và hiện vật là quả chuông "Bà
Tề tự chung" đúc năm Gia Long thứ 12 (1813), chiếc khánh đồng,
có chiều rộng 1,37m; chiều cao 1,09m, được ghi niên đại Minh
Mệnh thứ 3 (1822).
Là một di tích
kiến trúc tôn giáo cổ và đẹp với quy mô vừa đủ, bố cục hài hòa,
khép kín, giản dị mang đậm nét văn hóa cổ truyền thống, nét đặc
biệt của chùa Bà Tề là ở số lượng tượng vô cùng phong phú, đa
dạng, phong cách nghệ thuật điêu khắc điển hình của thời Lê và
Nguyễn và sự giao thoa nghệ thuật điêu khắc với một số nước
trong khu vực.
Trong nội thất
tòa tam bảo của chùa hiện còn bài trí 72 pho tượng đất nung,
tượng gỗ sơn son thếp vàng, trong đó có rất nhiều bộ tượng như:
Tượng Cửu Long, tượng Đức Ông; bộ tượng Thích Ca sơ sinh; bộ
tượng Văn Phù, Phổ Hiền...
Những pho tượng
gỗ nghệ thuật điêu khắc thời Lê đáng chú ý hơn cả là 3 pho tượng
tam thế; pho tượng A Di Đà, Quan Âm Nam Hải, tượng Thế Tôn và
tượng Văn Phù ngồi trên lưng sư tử, Phổ Hiền ngồi trên lưng bạch
tượng... trong đó, ba pho tượng tam thế được điêu khắc theo
phong cách tượng Chăm pa với nhiều đường nét uốn lượn cầu kỳ,
tinh xảo, sống động cùng sắc thái đặc biệt, đặt trên bệ tượng
cũng thống nhất một phong cách.