| |
|
-
-
“Đi Về Miền Tây” tại Nam Kỳ,
-
Các Hoạt Động Bất Hợp Pháp Của Người Việt và Người Hoa tại
-
Vùng Transbassac (thời khoảng 1860-1920)
-
Thomas
Engelbert
-
Đại ư
-
Hoạt động bất họp pháp có tính chất bản địa tại một vài khu vực
duyên hải của Việt
-
Nam thời tiền hiện đại. Bài viết này nhắm vào một vùng như thế, miền
tây hay khu vực
-
Transbassac của Miền Nam Việt Nam hiện đại và bờ biển kéo dài của nó
từ Châu Thổ
-
song Cửu Long cho đên các vùng Kampot và Kompong Som của Căm Bốt và
Trat của
-
Xiêm. Người Trung Hoa định cư tại đây hoạt động trong cả nền kinh tế
hợp pháp và bất
-
hợp pháp, như các nông dân và nhà mậu dịch cũng như là các kẻ buôn
lậu, thổ phỉ và
-
hải tặc. Bài viết này thảo luận về các yếu tố địa lư chính trị đă
tán trợ cho các hoạt động
-
phi pháp, và phác họa các t́nh hưống lịch sử đă uốn nắn người dân
địa phương vào các
-
tổ chức hay phong trào kinh tế, xă hội, tôn giáo hay chính trị khác
nhau. Bất kể sự xâm
-
nhập hành chính thực dân gia tăng, nhiều yếu tố trong các yếu tố này
đă được thử
-
thách và bảo đảm các hoạt động tương tự sẽ quay lại bất kỳ khi nào
các t́nh hưống thay
-
đổi, giống như trong suốt thời Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất.
-
DẪN NHẬP
1
-
Nạn hải tặc, thổ phỉ và mua bán phi pháp luôn luôn hiện hữu trong
suốt lịch sử lâu
-
dài của các sự tương tác chính trị và kinh tế giữa Việt Nam và Trung
Hoa. Biên giới núi
-
đồi của Việt Nam với Trung Hoa , và đặc biệt bờ biển dài hơn 2,000
cây số của nó đă lôi
-
cuốn mọi loại người bên lề xă hội của Trung Hoa, như các kẻ buôn
lậu, các người tỵ
-
nạn né tránh sự ngược đăi, các di dân bất hợp pháp, các hải tặc và
quân thổ phỉ. Cùng
-
khuôn mẫu này đă hiện diện dọc theo bờ biển dài của Trung Hoa, nơi
mà hoạt động
-
mậu dịch, buôn lậu, đánh cá và hải tặc luôn luôn liên hệ với nhau.
Điều này đặc biệt
-
đúng cho các thời kỳ lịch sử khi hoặc Trung Hoa hay Việt Nam tự cô
lập ḿnh, áp đặt sự
-
cấm đoán một phần hay toàn diện trên mậu dịch quốc tế hay trên việc
mua bán các sản
-
phẩm đặc biệt hay đánh các sắc thuế thật cao để phát huy hang hóa
của ḿnh hay để
-
trục xuất các hàng hóa ngoại quốc ra khỏi thị trường của chúng.
Trong các thời kỳ này,
-
buôn lậu tức thời lấp kín khoảng trống, thường các
tay bạt mạng
[sui
mano,
tiếng La
-
Tinh trong nguyên bản, nguyên được dùng trong các sổ hộ tịch của
giáo dân trong giáo
-
xứ, có nghĩa
tự tay ḿnh,
tức chỉ
người tự tử,
chú của người dịch] này được bảo vệ bởi
-
các viên chức địa phương là các người ngăn trở sự truy tố đổi lấy sự
dự phần vào lợi
-
lộc phi pháp.
2
-
Khuôn mẫu của mậu dịch phi pháp này tại Đông Bắc và Đông Nam Á Châu
cổ thời
-
c̣n sống sót một cách mạnh mẽ cà vào thời kỳ thuộc địa, với một số
sự biến đổi bởi có
-
sự canh tân hóa phương tiện mua bán và sự kỉểm soát nó. Điều này cho
thấy, một mặt,
-
sự liên kết chặt chẽ và liên thuộc của các vùng vĩ mô kinh tế của
Đông Bắc và Đông
-
Nam Á châu. Mặt khác, nó biểu lộ sự bất lực của các cơ cấu nhà nước
trong việc đối
-
phó với thành tố căn bản này trong nền kinh tế của miền. Tự do mậu
dịch – như được
-
đ̣i hỏi bởi Samuel Baron [1632-1694 , sử gia và luật gia người Đức,
là một trong các lư
-
thuyết gia đầu tiên về luật quốc tế, cho rằng luật các dân tộc là
một chi nhánh của luật
-
2 | T r a n g
-
tự nhiên là luật dựa trên khái niệm cho rằng con người là con vật xă
hội, và mọi cá nhân
-
đều phải đượcc hưởng sự b́nh đẳng và sự tự do, chú của người dịch]
trong thế kỷ thứ
-
mười bẩy, Sir John Bowring [1792-1872, nhà ngoại giao, ngữ học và
văn gia Anh Quốc,
-
thông thạo nhiều thứ tiếng, được ghi nhớ v́ các tuyển tập và bản
dịch thi ca từ nhiều
-
ngôn ngữ Âu Châu và Á Châu, chú của người dịch] hồi giữa thế kỷ thứ
mười chín, và
-
bởi vài thế hệ các nhà hành chính Pháp làm việc tại Đông Dương – vần
chưa là cách
-
nghĩ thịnh hành. Ngay cho dù quyền lực thực dân Pháp đă mở cửa Đông
Dương cho
-
các thị trường cấp miền và thế giới hơn bất kỳ chính quyền nào trước
nó, ư thức hệ thực
-
dân, chủ trương rằng nhiệm vụ của thuộc địa là cung cấp cho thị
trường Mẫu Quốc
-
nguyên liệu và bảo đảm cho việc bán các chế tạo phẩm, đă áp đặt các
hạn chế trên
-
mậu dịch tự do. Các thống đốc và nhà hành chính Pháp làm việc tại
chỗ chỉ biết quá rơ
-
đâu là các thị trường cổ truyền và tương lai của thuộc địa, và đă đă
đ̣i hỏi nhiều lần,
-
nhưng không mấy thành công, rằng Paris cần phải có đủ sự cứu xét đến
các nhu cầu
-
căn bản này.
3
-
Các sự ngăn cấm, các sắc thuế quá cao, và các độc quyền nhà nước,
thí dụ về
-
thuốc phiện, rượu, muối và diêm, đă tạo ra các cơ hội bằng vàng cho
mậu dịch phi
-
pháp, ngay từ lúc khởi đầu sự cai trị của thực dân cho đến hồi kết
cuộc của nó. Khi
-
mậu dịch phi pháp hiện hữu, nạn hải tặc và thổ phỉ bao giờ cũng đứng
gần kề. Một
-
nguồn gốc thứ nh́ của nạn hải tặc, và đặc biệt biến thể trên đất
liền của nó tức nạn thổ
-
phỉ, là sự phát triển kinh tế của các vùng đất trước đây c̣n sơ
nguyên hay chưa phát
-
triển, vốn lôi cuốn các người định cư, nông dân và các nhà mậu dịch
lương thiện, nhưng
-
cũng gồm cả mọi loại người bên lề, như các kẻ trốn thuế, buôn lậu,
phiêu lưu, ngoài
-
ṿng pháp luật, các kẻ bần cùng và những kẻ khác không bén nhậy để
gánh chịu quá
-
nhiều sự cực khổ hầu kiếm sống.
-
Liệu có thể xếp các người sống bên lề này nói chung như “các kẻ nổi
lọan xă hội sơ
-
khai”
4
hay không? Câu hỏi này dẫn trở về cuộc thảo luận phát sinh trong
thập niên
-
1950 và được nung sôi bởi các công tŕnh nghiên cứu của Hobshawn và
Chesnaux. Họ
-
nêu câu hỏi là liệu các hội kín của Trung Hoa có phải là các nhóm
thời tiền hiện đại, về
-
mặt kinh tế, có nguồn gốc tiểu tư sản hay không, các lực lượng đối
lập chính trị đă uốn
-
nắn diễn tiến của lịch sử Trung Hoa cuối thời đế quốc nhưng luôn
luôn ngăn cấm
-
khuynh hướng cải cách chính trị hơn là sự thay đổi cách mạng. Sự
thảo luận của giới
-
học thuật Tây Phương phát triển trong các thập niên sau đó cho thấy,
tuy thế, mô thức
-
giải thích Marxist này th́ quá đơn giản và lăng mạng. Nó đă không
cứu xét đến tính
-
phức tạp của hiện tượng hay các sự biểu lộ khác nhau của nó, bởi
t́nh anh em kết
-
nghĩa thề nguyền nơi căn bản của các hội kín này đă là một phần
trong sinh hoạt Trung
-
Hoa hàng ngày và xă hội địa phương được chuyên biệt hóa, không khác
ǵ với các
-
nhóm giang hồ chuyên ăn cướp và hoạt động tôi phạm. Các hội này có
thể, trong các
-
t́nh huống nào đó, có tính chất bảo thủ hay cách mạng, hướng về kinh
tế hay chính trị.
-
Với bằng chứng từ văn khố được công khai hóa từ cuối thập niên 1980
và trong thập
-
niên 1990, điều trở nên rơ ràng rằng các hội kín Trung Hoa không
phải là những tổ chức
-
tập trung hóa, mà là các nhóm tự trị và độc lập ở địa phương đă chia
sẻ các nghi thức
-
tương tự và thấm đậm các sắc thái tôn giáo mạnh mẽ trong sự tuyển mộ
và trong các
-
tiến tŕnh khởi phát của chúng. Với thời gian, các mục đích chính
trị khó hiểu có thể đă
-
hiện hữu trong thời kỳ thành lập đà nhường chỗ cho việc t́m kiếm lợi
lộc kinh tế xuyên
-
qua các phương thức tội phạm hay phi pháp.
5
-
Câu trả lời cho câu hỏi này sẽ ra sao chiếu theo các nguồn tài liệu
từ Đông Dương
-
thuộc Pháp? Câu trả lời là có, nhưng chỉ ở trong ư nghĩa rằng các
người này nằm bên
-
lề xă hội đă nổi loạn chống lại luật pháp và trật tự như thế. Chắc
chắn chúng ta cũng sẽ
-
t́m thấy trong các người này một số các kẻ nổi loạn xă hội kiễu xưa
theo định nghĩa của
-
3 | T r a n g
-
Hobsbawn, tức người có gốc chủ yếu ở nông thôn công khai kêu gào sự
trả thù chống
-
lại sự bóc lột, nhưng chúng ta cũng sẽ t́m thấy các hội viên của các
tố chức kiểu anh
-
chị mafia đă hành động như các công cụ quyền lực của các con người
cá nhân, và sau
-
hết, các môn đồ cứu thế [của các tổ chức ḥa b́nh một ngh́n năm dưới
sự trị v́ của
-
Thiên Chúa (milletarian trong nguyên bản, chú của người dịch] đă đạt
được sự thành
-
công nhất một khi sự lănh đạo và ư thức hệ phát sinh từ bên ngoài
khu vực nông thôn
-
nguyên thủy của họ.
6
-
Tuy nhiên, hai lập luận cảnh giác chúng ta chống lại bất kỳ khảo
hướng tất nhiên
-
(determinist) này sẽ vạch ra một lằn vạch đỏ giữa hoạt động thổ phỉ
thời cuối thế kỷ thứ
-
mười chin với cuộc cách mạng cộng sản của thế kỷ thứ hai mươi. Trước
tiên, các hiện
-
tượng buôn lậu, hải tặc, và thổ phỉ phải được nh́n trong một khung
cảnh địa dư và lịch
-
sử rộng lớn hơn. Một thời điểm đặc biệt, thời cuối thế kỷ thứ mười
chin và đầu thế kỷ
-
thứ hai mươi, và một địa điểm đặc biệt, miền nam của Việt Nam hay
Nam Kỳ thuộc
-
Pháp, là các đối tượng của bài nghiên cứu này, nhưng hiện tượng
không bị hạn chế vào
-
thời kỳ lịch sử này hay vào miền nam không thôi. Nó đă bắt nguồn từ
lâu trước khi
-
người Pháp đên và là một đường nét cấu thành và đặc trưng cho sự
phát triển kinh tế -
-
xă hội của vùng Châu Thổ sông Cửu Long, như hai thí dụ dưới đây cho
thấy.
-
Đoàn người Hoa định cư lớn lao đầu tiên tại Châu Thổ sông Cửu Long
hồi cuối thế
-
kỷ thứ mười bẩy là các nhà mậu dịch và các hải tặc, trung thành với
nhà Minh, những
-
kẻ đă chạy trốn từ bờ biển phía nam khi nhà Thanh thống nhất Trung
Hoa trong thập
-
niên 1680. Họ đă không bỏ phí sự chiếm ngụ sinh lợi của ḿnh tại
vùng đất mới này,
-
được chỉ định cho họ bởi các v́ chúa nhà Nguyễn tại Huế, mặc dù về
mặt chính thức,
-
nó hăy c̣n thuộc vễ Vương Quốc Căm Bốt lân cận vào thời khoảng đó.
Sau hết, hai
-
chiếc tàu Anh Quóc đă được thuê bao bởi nhà vua Xiêm La để giúp vào
việc trấn áp
-
họ. Trong cuộc đột kích này, William Dampier đă tường thuật rằng các
chiếc thuyền của
-
Anh Quốc đă xâm nhập sâu vào “Con Sông Lớn của Căm Bốt” nơi mà chúng
gặp một
-
thị trấn có thành lũy kiên cố trên một ḥn đảo, có thể là tiền thân
của Mỹ Tho Đại Phố
-
sau này, sẽ trở thành một trong những trung tâm thu hút của cuộc
thực dân tương lai
-
của người Trung Hoa và Việt Nam tại vùng Châu Thổ sông Cửu Long.
7
Thí dụ thứ nh́
-
có niên kỳ năm 1791, khi Nguyễn Phước Ánh, tức Hoàng Đế Gia Long sau
này, sắc dụ
-
rằng tại Long Xuyên và các nơi khác, các người Hoa, “cũ hay mới”
đến, được khuyến
-
cáo một cách mạnh mẽ hăy khai khẩn đất mới, và họ sẽ đực miễn các
sắc thuê”, quân
-
dịch, và các nhiệm vụ khác. Nếu những “ngừoi dân nhà Đường, “cũ và
mới’ không sẵn
-
ḷng tự tổ chức thành các đồn điền (military plantations) để làm
việc này, họ bị đe dọa
-
với hàng loạt các sắc thuế và sưu dịch, kể cả việc trưng binh, “hầu
làm nản ḷng các kẻ
-
ham vui chơi và lang thang bất định”.
8
Các thí dụ tương tư từ các thời kỳ khác nhau có
-
thể được t́m thấy trong các nguồn tài liệu về Việt Nam thời tiền
thực dân.
9
-
Thứ nh́, chủ trương chống thực dân đă đóng một vai tṛ quan trọng
hồi cuối thế kỷ
-
thứ mười chin và đầu thế kỷ thứ hai mưoi. Sự cai trị của ngoại bang
chưa bao giờ
-
được ưa chuộng trong các tầng lớp hạ lưu và có học, trong số những
người được gọi là
-
dân bản xứ Á Châu của Đông Dương (Việt, Lào và Khmer) hay trong số
những người
-
được gọi là Á Châu ngoại kiều (căn bản là người Trung Hoa). Nhiều
cuộc khảo cứu về
-
chủ nghĩa chống thực dân của người Đông Dương, và đặc biệt của người
Việt Nam,
-
nh́n thấy ánh sáng kể từ cuối thập niên 1920, đă chứng minh nhiều
lần điều này trong
-
một cung cách thuyết phục.
10
Tuy nhiên, giống y như các hội kín Trung Hoa sử dụng
-
chiêu bài “phản Thanh, Phục Minh!”, các kẻ cướp hay các người khác
mà mọi xă hội
-
loài người đều sẽ sắp loại như một số loại tội phạm, cũng có thể sử
dụng các cảm tính
-
chống thực dân như thế làm vỏ bọc hay duyên cớ cho các hoạt động phi
pháp của họ,
-
như cuộc thảo luận sau này về các hành vi của các hội kín ở Nam Kỳ
sẽ bộc lộ. Loại
-
4 | T r a n g
-
các kẻ kết băng đảng này đă được nh́n nhận như các kẻ nổi loạn chống
thực dân và do
-
đó được ḷng giới b́nh dân hay không? Các nguồn tài liệu của Pháp,
nói về “quân thổ
-
phỉ” chung chung không có sự phân biệt nào, chỉ đưa ra các sự ám chỉ
gián tiếp, v́ thế
-
chúng ta phải phán đoán các hiện tượng này về mặt lịch sử theo từng
trường hợp một,
-
bằng việc lượng định một cách cẩn trọng tính chất xă hội của chúng
và các hàm ư chính
-
trị khả hữu của chúng. Bàu không khí của một xă hội biên cương thu
hút các nông dân
-
và các nhà mậu dịch, quân thổ phỉ và các lính đánh thuê, các kẻ nổi
loạn và các lănh tụ
-
cứu thế. Các t́nh huống lịch sử cụ thể đă khuôn đúc ra họ, và các
mục tiêu cùng khát
-
vọng của họ, thành các sự biểu hiện đặc biệt của các tổ chức hay
phong trào kinh tế, xă
-
hội, tôn giáo hay chính trị. Nói cách khác: giới hải tặc, quân thổ
phỉ, các hội kín, các kẻ
-
tin theo thuyết một ngh́n năm thịnh trị của Chúa, và các phong trào
cách mạng đều là
-
các cây đựoc phát triển lên từ mảnh đất ph́ nhiêu của Nam Kỳ thuộc
Pháp. Chúng
-
không khác nhau về không gian, chỉ khác nhau về thời gian và tính
chất.
-
Tuy nhiên, như đă nói ở trên, nạn buôn lậu, hải tặc và thổ phỉ đă
hiện diện trong một
-
khung cảnh toàn miền rộng lớn về mặt lịch sử và địa dư nhiều hơn một
ḿnh Nam Kỳ,
-
hay ngay cả Việt Nam ngày nạy Các hoạt động trên biển chính yếu phát
sinh từ ba khu
-
vực, mỗi nơi có các đặc điểm riêng của nó. Trước tiên, và cổ xưa
nhất về mặt lịch sử,
-
là miền bắc Việt Nam, được gọi là Bắc Kỳ (Tongking) trong thời thuộc
địa. Địa dư và
-
khí hậu nơi đó tán trợ cho nạn hải tặc và buôn lậu tại nhiều ḥn đảo
rải rác trong Vịnh
-
Bắc Bộ mù sương đă tạo ra các điều kiện lư tưởng để ẩn trốn hay né
tránh sự truy kích.
-
Trong hồi cuối thế kỷ thứ mười tám, các hải tặc Trung Hoa c̣n đóng
một vai tṛ chính trị
-
và quân sự quan trọng qua việc gia nhập hải quân của quân nổi dậy
Tây Sơn chiếm
-
ngôi vua, giống y như một nhóm hải tặc khác sẽ làm ở sâu phía nam
hơn đă hỗ trợ cho
-
bên chiến thắng sau cùng là chúa Ngiuyễn trong một cuộc nội chiến
kéo dài ba thập
-
niên.
11
Thứ nh́ là một khu hoạt động phát tỏa từ Đảo Hải Nam. Các hạm đội
thuyền
-
buồm của nó thường mua bán với Macao, các bờ biển của Trung Hoa và
Việt Nam, và
-
các hải cảng tại vùng Đông Nam Á hải đảo. Dân chúng duyên hải gốc
Hán của ḥn đảo
-
chính yếu là các di dân hay người tỵ nạn từ Quảng Đông, với nhóm đặc
biệt quan trọng
-
là dân Hakka [người Khách, hay người Hẹ, như người Việt hay gọi, chú
của người
-
dịch]. Các ngư phủ ở đây, giống như các nơi khác, có thể tham gia
vào hoọat động hải
-
tặc tùy thời, khi có một cơ may thích hợp xuất hiện. Nhưng điều làm
hoạt động mậu
-
dịch nói chung của Hải Nam trở nên khác biệt, ít nhất là vào khoảng
cuối thế kỷ thứ
-
mười chin, chính là sự chế ngự của các tổ chức bất họp pháp. Các
mạng lưới của các
-
hội kín của nó trải dài đến Hồng Kông, Thượng Hải và Tân Gia Ba.
12
trong khi hải vận
-
của Hải Nam th́ đặc biệt quan trọng trong việc mua bán “cu-li:
coolie”
sang Vọng Các
-
hay Tân Gia Ba. Người Triều Châu thống trị việc mua bán gạo giữa
Sàig̣n và Swatow,
-
nơi mà các thuyền buồm Trung Hoa vẫn c̣n nắm độc quyền thực sự trong
thời thuộc
-
đia.
13
Ngoài t́nh trạng này, các thuyền buôm nhỏ và chèo tay (manoeuvrable)
của Hải
-
Nam cũng tham gia vào mọi hoạt động phi pháp, kể cả việc bắt cóc các
phụ nữ và trẻ
-
em Việt Nam đem bán tại Lục Địa Trung Hoa.
14
-
Khu vực thứ ba của các hoạt động phi pháp, là tiêu điểm của bài viết
này, trải dài từ
-
các khu duyên hải thưa dân hay không có người ở của miền đông nam
Căm Bốt (đặc
-
biệt giữa Kampot và Ream), bao gồm các ḥn đảo trong Vịnh Xiêm La
nằm ngoài khơi
-
bờ biển phía tây nam của Việt Nam, xuyên tới bán đảo Cà Mau. Giải
đất này của vùng
-
ven biển “biên cương” dài hơn nhiều đă vươn xa tới quanh vịnh Xiêm
La
15
có thể được
-
gọi là vùng Transbassac mở rộng, khi nó bao gồm miền Nam Kỳ đựoc gọi
là
-
Transbassac bởi người Pháp, hay “miền Tấy (Western part” của Nam
Việt Nam trong
-
các nguồn tài liệu Việt Nam đương thời,
16
với sự bành trướng kinh tế dọc theo bờ biển
-
cho đến tỉnh Kampot và Kongpong Som của Căm Bốt.
-
5 | T r a n g
-
Cho đến đầu thế kỷ thứ hai mươi, vùng Transbassac đích thực là một
trong ba miền
-
c̣n lại có thể được xếp là các biên cương nằm trong Nam Kỳ thuộc
Pháp (French
-
Cochinchina), như miền nam Việt Nam được gọi một cách chính thức
trong thời khoảng
-
từ 1859 đến 1945. Cùng với vùung Transbassac, các khu vực biên cương
này gồm
-
biên giới giữa Nam Kỳ - Căm Bốt và khu núi rừng phía bắc và đông bắc
Sàig̣n, tại các
-
tỉnh Biên Ḥa và Thủ Dầu Một. Tại các khu địa dư này, sự xâm nhập
của con người, sự
-
kiểm soát chính trị và sự phát triển kinh tế đều thấp, hay c̣n chỉ
mới được bắt đầu xảy
-
ra, và người Việt Nam chỉ cấu thành một trong vài nhóm chủng tộc cư
trú, trong đó có
-
người Hoa và người Khmer cùng con cháu của các cuộc kết hôn hợp
chủng với người
-
Hoa (hậu duệ phía con trai được gọi là Minh Hương [?], nếu cha là
người Trung Hoa).
-
Bởi cả lư do chính trị lẫn kinh tế, các thẩm quyền thực dân đă cố
gắng thúc đẩy sự tiến
-
bước của họ vào các địa điểm này, nhưng, sau hết, tiến tŕnh đ̣i hỏi
có đủ thời gian của
-
chính nó và vẫn chưa hoàn tất khi người Pháp bị buộc phải rút lui
khỏi Đông Dương sau
-
năm 1954. Các khu vực này từ lâu – hay nói đúng hơn, măi măi vẫn là
– các vùng đất
-
nuôi dưỡng mọi loại hoạt động phi pháp và đă cung cấp các nơi ẩn náu
lư tưởng cho
-
các kẻ trốn thuế, các kẻ trốn nợ, các nông dân không đất cày, các
lănh tụ muốn cứu
-
đời, các tội phạm, các kẻ chống đối chính quyền, và các người nổi
lọan chính trị công
-
khai.
-
Các nguồn tài liệu chính yếu cho bài viết này được rút ra từ các văn
khố thực dân
-
thời cuối thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi.
17
Trong số các tài lieu được
-
in ra, các tập chuyên khảo tỉnh hạt địa phương được ấn hành dưới
danh nghĩa
Hội
-
Nghiên Cứu Đông Dương (SEI: Société des Études Indochinoises)
tại Sàig̣n hồi đầu
-
thế kỷ thứ hai mươi, cũng đặc biệt quư giá. Một cách dễ hiểu, một
bài nghiên cứu được
-
viết về Đông Dương thuộc địa chỉ dựa trên các nguồn tài liệu Pháp
(văn khố và bên
-
ngoài) không thôi có thể mang sự nguy hiểm của việc du nhập nhăn
quan thiên vị từ các
-
nguồn tài liệu này, và từ đó thiếu mất tính vô tư. Sau hết, mọi sử
gia đều có khuynh
-
hướng, đến một mức độ nào đó, bị bắt giữ và trở thành tù nhân của
các nguồn tin của
-
họ, vốn là một trong các khí cụ làm việc của họ. Bởi v́ các kẻ ăn
cướp và quân thổ phỉ
-
không viết tài liệu về chính họ, ít nhất đến mức độ mà chúng ta hay
biết ngày nay,
-
chúng ta bị bắt buộc phải sử dụng các tài liệu của các “đối phương”
của chúng, trong
-
thực tế có thể tạo ra vấn đề trong nhăn quan và tính thiên vị. Tuy
nhiên, nếu chúng ta
-
luôn luôn nh́n vào các nguồn tài liệu này với cặp mắt chỉ trích, đâu
là khí cụ chính yếu
-
khác cho việc nghiên cứu của sử gia, khi đó làm giảm bớt được vấn đề
thiên kiến đă
-
được nhận thấy.
-
Hơn nữa, các nguồn tài liệu không bao giờ thông minh hơn các người
đă viết ra
-
chúng. Giống y như việc chúng ta phải tránh việc tưởng tượng rằng
mọi thứ mà các
-
nhà hành chính Pháp thu thập và chú giải đều phải là “sự thực”,
chúng ta cũng phải né
-
tranh như thế mối nguy hiểm đối nghịch của việc nghĩ rằng đó là
“sai”, đơn giản chỉ v́ nó
-
đă được viết bởi “các kẻ thực dân”. Giống như bất kỳ chính quyền nào
khác trên thế
-
giới, không khó khăn ǵ để xác định đựoc các nhân viên chuyên nghiệp
và các viên
-
chức thư lại xu thời tại Đông Dương thuộc Pháp. Tuy nhiên, chúng ta
cũng t́m thấy
-
nhiều nhân vật với các năng lực trí thức và các tiêu chuẩn đạo đức
cao, với một sự giáo
-
dục khá thông thái, đôi khi với cả sự huấn luyện chuyên môn về đông
phương học,
-
trước khi họ sang Đông Dương. Họ làm việc ở đó trong nhiều năm dài
và ở các khu
-
vực khác nhau, thông thạo ít nhất một, hay đôi khi nhiều hơn, các
ngôn ngữ cổ xưa hay
-
hiện đại của Đông Dương, có một sự hiểu biết sâu xa về miền này và
biểu lộ các t́nh
-
cảm con người với người dân mà họ cai quản, cho dù phục vụ cho một
lư cớ mà ngày
-
nay bị nhất trí lên án. Trong bốn thập niên trước khi Trường Viễn
Đông Bác Cổ (École
-
Francaise d’Extrême-Orient) được thành lập như trung tâm nghiên cứu
kinh viện đầu
-
tiên tại Đông Dương, các nhà quản trị hành chính này, cùng với các
nhà giáo sĩ truyền
-
6 | T r a n g
-
đạo Công Giáo, đă là các kẻ tiên phong và mở đường cho ngành học về
Việt Nam,
-
Khmer và Lào sau này. Trong các thập niên sau đó, nhiều công tŕnh
mà họ sản xuất ra
-
vẫn c̣n chứng thực được các năng lực trí thức cao siêu của họ. Điều
này dĩ nhiên
-
không có nghĩa rằng mọi điều họ đă viết ra đều là “đúng”, nhưng ít
nhất chúng phải
-
được xem trọng. Nh́n từ một nhăn quan thực tế, một khía cạnh đáng
quân tâm khác
-
trong các công tŕnh của họ là t́m biết xem họ đă phản ứng ra sao
trước các thử thách
-
lâu đời mà họ gặp phải trong các nhiệm vụ hành chính của họ, chẳng
hạn như buôn lậu,
-
hải tặc và thổ phỉ.
-
Bài viết này bắt đầu bằng việc ấn định các nền tảng kinh tế và địa
lư – chính trị của
-
vùng Transbassac mở rộng. Sau đó chúng ta duyệt xét những nguồn tài
liệu nào phát
-
hiện ra các hoạt động phi pháp ở đó. Quay sang một cái nh́n hơi khác
biệt, chúng ta
-
khi đó khảo sát
Thiên Địa Hội
[tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] Trung
-
Hoa (Chinese Heaven and Earth Society) tại Nam Kỳ thời ban đầu thuộc
đị, đặc biệt liên
-
quan đến vai tṛ của nó trong việc phổ biến ư tưởng và mô thức tổ
chức các hội kín từ
-
người Trung Hoa sang người Việt Nam. Bài viết sau đó kết thúc với
một kết luận phản
-
ảnh tính liên tục và sự thay đổi trong các hoạt động phi pháp tại
miền này trong suốt thời
-
c̣n lại của kỷ nguyên thuộc địa.
-
Các Điều Kiện Địa-Chính
Trị
Của Vùng
Transbassac
-
Di chuyển theo hướng đông bắc xuống tây nam, ba phân khu địa chính
trị thường
-
được phân biệt tại Nam Kỳ thuộc Pháp: vùng đông và bắc Sàig̣n; vùng
Cissbassac; và
-
vùng Transbassac.
18
Tất cả ba phân khu này đều có chung một khuôn mẫu định cư
-
tương tự: có các trung tâm đông người ở hơn và được kiểm soát chặt
chẽ hơn, được
-
bao quanh bởi các khu vực ven biên thưa dân hay kém phát triển hơn
là nơi, từ rất lâu
-
trước khi có người Pháp đến, mà các kẻ nổi loạn, các tội phạm, và
các người tỵ nạn t́m
-
thấy chỗ ẩn náu hay che dấu cho các hoạt động phi pháp.
-
Hai trong ba khu vực rộng lớn được xác định với sự tham chiếu đến
sông Bassac,
-
vùng Cissbassac, và vùng đất xa hơn về phía tây, băng qua con sông.
Chúng ta có thể
-
bắt đầu bằng việc nêu câu hỏi rằng đâu là sự khác biệt giữa hai
vủng? Về mặt địa lư, chỉ
-
có rất ít sự khác biệt: cả hai đều là đồng bằng, được đóng khung và
chế ngự bởi ḍng
-
chảy của nước – chính yếu bởi hai con sông quan trọng, sông Bassac
(trong tiếng Việt,
-
là sông
Hậu Giang)
và sông Mekong (Tiền
Giang)
19
cùng các sông nhánh và các phụ
-
lưu. Các sông nhỏ tuôn nước vào các sông lớn hơn, tạo thành các nơi
sông giao nhau,
-
trong khi các gịng nước nhỏ, hoạt động như các mương dẫn nước tự
nhiên (rạch:
-
tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], và các mương dẫn
nước nhân tạo
-
(kênh
hay
kinh,
tiếng Pháp là
arroyo,
nguyên gốc là một từ ngữ của tiếng Tây Ban Nha),
-
ngày càng được mở rộng ra mọi hướng. Tất cả các thuỷ lộ lớn nhỏ này
đă tạo ra vô số
-
mạng lưới các tuyến giao thông chằng chịt. Đất bồi phù sa của các
con sông tạo thành
-
nền đất, không ǵ ngoài một ít các đụn phù sa (giồng)
làm gián đọan bức tranh phẳng ĺ
-
của sông nước và các cánh đồng lúa.
20
Ở khoảng giữa biển và đất liền, nơi các môi
-
trường nước mặn và nước ngọt gặp nhau, các rừng
tràm
(mangrove) mọc lên ở cửa
-
các con sông.
21
Tại khu sinh thái đa dạng nhất, chúng tọa lạc tại các đầm ngập nước
-
thủy triều dọc theo bờ biển của châu thổ sông Cửu Long và bán đảo Cà
Mau, nơi mà
-
chúng vẫn thường xuyên bị ngập bởi nước biển hay nước lợ. Với các
luồng nước
-
duyên hải và đại dương đến từ phía nam và tây nam, các đầm tràm miền
nam Việt Nam
-
thường xuyên tiếp nhận các chồi nhánh của cây tràm từ các nơi xa xôi
như măi tận các
-
bờ biển Mă Lai và Nam Dương.
22
-
Sông Bassac luôn luôn là một mắt xích giao thông quan trọng giữa Nam
Kỳ và Căm
-
Bốt, cũng như là lối tiếp cận với biển quan trọng nhất của Phnom
Penh trong thời tiền
-
7 | T r a n g
-
thuộc dịa và thời thuộc địa. Vào khoảng gần cuối thế kỷ thứ mười
chin, các bờ cát gây
-
trở ngại tại hai cửa chính của sông Cửu Long, ở Cửa Đại và Cửa Ba
Lai, tạo ra một vài
-
sự khó khăn cho việc lái các con tàu và thuyền buồm lớn hơn.
23
Mặt khác, sông Bassac
-
đă nối liền nhau chứ không ngăn cách: các đảo lớn hơn hay nhỏ hơn
nằm trong ḷng
-
con sông – một số đảo có người ở, một số không – đă không gây trở
ngại cho việc hải
-
hành và tạo dễ dàng cho việc băng ngang con sông rộng này.
-
Sử dụng các bờ bên trái và bên phải sông Bassac như là một biên giới
là tạo ra một
-
tuyến để chỉ định miền đông và miền tây của Châu Thổ sông Cửu Long.
Điểm khác biệt
-
chính yếu giữa hai miền nằm ở khía cạnh xâm nhập của con người, sự
pha trộn chủng
-
tộc và kinh tế. Phần lớn của vùng Cissbassac vốn đă sẵn được mở ra
cho sự canh tác
-
bởi người Trung Hoa và người Việt Nam trong thế kỷ thứ mười tám, và
sau đó chính
-
yếu bởi người Việt Nam trong thế kỷ thứ mười chín, từ lâu trước khi
người Pháp đến
-
nơi vào năm 1858. Vào lúc đó người Việt là nhóm chủng tộc đông đảo
nhất. Tuy nhiên,
-
tại vùng Transbassac, sự phát triển nông nghiệp phần lớn đă diễn ra
dưới thời thuộc
-
địa, bắt đầu trong thập niên 1880 sau khi các quân nổi dậy chống
thực dân sau cùng đă
-
bị trấn áp. Tuy nhiên, cho đến đầu thế kỷ thứ hai mươi, dân số ở đây
đă pha trộn rất
-
nhiều so với miền đông, với người Việt nam, Trung Hoa, Khmer và
người Minh Hương
-
vẫn sinh sống gần cận nhau, như họ đă từng làm trong quá khứ.
24
Do tiến tŕnh lịch sử
-
này, một sự khác biệt quan trọng khác đă phát sinh giữa hai miền
trong thế kỷ thứ hai
-
mươi: đất nông nghiệp định cư từ lâu tại miền Cissbassac thường được
chia thành các
-
mảnh nhỏ và được canh tác bởi các nông dân điền chủ, trong khi việc
đào các con kinh
-
thời thuộc địa, đặc biệt là tại miền Transbassac, đă giúp cho việc
khai khẩn các giải đất
-
lớn có thể đem đấu giá bán cho kẻ trả giá cao nhất, tạo các điều
kiện cho sự phát triển
-
các đại điền chủ và các khu trồng lúa được cầy cấy bởi các nông dân
tá điền [thuê
-
ruộng].
-
Tuy nhiên, trong mục đích tranh luận của tôi, tôi muốn nh́n vào một
vùng
-
Transbassac mở rộng, không chỉ phần đất ngày nay thuộc vào nam Việt
Nam mà c̣n cả
-
giải duyên hải nối dài đến miền đông nam Căm Bốt, với nó nhiều hải
cảng nhỏ của bán
-
đảo Cà Mau đă có quá nhiều ràng buộc về kinh tế. Khu vực này v́ thế
được chia làm
-
hai: phần đầu khảo sát về vùng Transbassac chính danh và phần thứ
nh́ nh́n
-
Transbassac như một vùng duyên hải kéo dài từ các hải cảng của Rạch
Giá và Hà Tiên,
-
thuộc Việt Nam ngày nay, đến Kampot, Ream, và Kongpom Som thuộc Căm
Bốt ngày
-
nay.
-
a. Vùng Transbassac Việt
Nam
-
“Transbassac”
là danh xưng thời thuộc địa chỉ khu vực vượt quá bờ sông bên phải
-
của sông Hậu Giang, được biết từ lâu đối với người Âu Châu bằng tên
của nó trong
-
tiếng Khmer,
Bassac.
Phân vùng này chiếm một diện tích gần 15,000 cây số vuông
-
nằm giữa Châu Đốc, tại biên giới Căm Bốt về phía bắc, Vịnh Xiêm La
về phía tây, và
-
biển Nam Hải (South China Sea) [tiếng Việt gọi là biển Đông Hải, chú
của người dịch]
-
về phía đông. Trong thời khoảng cứu xét này, khu vực được bao phủ
bởi đầm lầy, rải
-
rác với các giồng đất phù sa rộng lớn, một số giồng được dùng cho
việc canh tác nhưng
-
cũng thường bị che phủ với đồng cỏ và rừng thưa. Các giồng đất này
là nơi cư ngụ của
-
dân gốc Khmer, trong khi người Việt Nam thương đi khai khẩn đất mới
dọc theo các
-
thủy lộ. Người định cư gốc Hoa cũng thiết lập các chợ ở các cửa sông
và các giao
-
điểm thường được dùng làm các trung tâm thu hút mà quanh chúng là
người Việt Nam
-
sinh sống tại các khu định cư chen chúc hơn. So sánh với vùng
Cissbassac, toàn vùng
-
này hăy c̣n rất thưa dân vào cuối thế kỷ thứ mười chin, ngoại trừ
một vài “túi định cư”
-
của người Khmer. Các cộng đồng làng xă Việt Nam hiện diện nơi đây
thường trẻ hơn
-
và ít cố định hơn,
25
cơ cấu hành chính yếu kém hơn, và sự kiểm soát của người Pháp ít
-
8 | T r a n g
-
hơn. Tất cả các yếu tố này đă giúp biến vùng Transbassac trở thành
một mảnh đất vun
-
bồi thực sự mọi loại hoạt động phi pháp.
-
Tỉnh Sóc Trăng là một thí dụ thích đáng. Trong năm 1904, nó bao gồm
2,300 cây số
-
vuông, nhưng chỉ có 105,000 cư dân, trong số đó 57,000 người Việt
Nam và người
-
Minh Hương (các kẻ không may đă không được thống kê riêng rẽ),
38,000 người Căm
-
Bốt và Căm Bốt lai Trung Hoa, cùng 10,000 người Hoa. Trong số người
Hoa, 7,000
-
người thuộc sắc dân Triều Châu (Teochiu), và các người khác là dân
Quảng Đông
-
(Canton) hay Phúc Kiến (Hokkien). Chúng ta biết rằng có ít người nói
tiếng Hải Nam
-
hay Hẹ (Hakka) tại Sóc Trăng vào lúc đó, bởi chính quyền Pháp bắt
buộc mọi người
-
Trung Hoa tại thuộc địa phải ghi danh tại các tổ chức dựa trên thổ
ngữ được gọi là các
-
bang hội
(congrégations)
26
và không có nhóm nào như thế hiện hữu cho các người nói
-
tiếng Hẹ hay Hải Nam tại Sóc Trăng hồi đầu thế kỷ thứ hai mươi. Mật
độ dân cư hăy
-
c̣n thấp, chỉ có 2.2 người trên một cây số vuông.
27
Hai vùng khác nhau có thể được
-
phân biệt tại Sóc Trăng. Trước tiên là vùng đất trọng tâm, giống như
một hành lang
-
chính giữa chạy từ bờ phía bắc của sông Bassac đến biên giới của
tỉnh Bạc Liêu kế cận
-
về phía tây nam, là một “cánh đồng lúa bao la”. Ở đó, bốn tổng (Định
Ḥa, Nhiêu
-
Khánh, Nhiêu Ḥa, và Nhiêu Phú) bao quanh trung tâm tỉnh lỵ. Trong
năm 1904, chỉ có
-
50 người Âu Châu, 771 người Việt Nam, 600 người Trung Hoa và 30
người Ấn Độ sinh
-
sống trong thị trấn Sóc Trăng, được quy hoạch theo phong cách Âu
Châu, một loại kiểu
-
thành phố “Sàig̣n” ở cấp tỉnh. Khu địa phương tương đương như “Chợ
Lớn” là một hải
-
cảng của người Hoa tại Băi Xàu, được xây cất sau khi bến tàu người
Hoa cũ (Chợ Cũ
-
hay Mỹ Xuyên) đă bị phế bỏ bởi có sự đọng bùn của con kinh gần đó.
Băi Xàu cách vào
-
khoảng mười cây số đông nam Sóc Trăng, dọc theo kinh Ba Xuyên. Trong
năm 1904,
-
930 người Việt Nam và Minh Hương, 650 người Hoa và ít người Ấn Độ
sống ở đó. Nơi
-
thả neo này là một thị trấn sinh động và thường được lai văng từ
cuối tháng Hai đến
-
tháng Sáu, đặc biệt trong ba tháng sau vụ gặt mùa xuân, bởi các
thuyền buồm lớn (ghe
-
chài)
[ tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] của các nhà mậu
dịch ở Chợ
-
Lớn. Họ đến đây để kiếm mua gạo Sóc Trăng, được xem là ngon nhất Nam
Kỳ. Trong
-
thời kỳ mà chúng ta lưu tâm đến, hơn 200 chiếc thuyền buồm thường
hành nghề này và
-
đă xuất cảng trung b́nh 180,000
giạ
(piculs) gạo mỗi tháng.
28
-
Tỉnh sống nhờ gạo và chỉ trên gạo của nó. Mỗi tháng, khoảng 250
thuyền buồm đă
-
chuyển trái cây, rau, và các tiêu thụ phẩm đến các chợ ở Sóc Trăng
và Băi Xàu. Từ
-
cuối thế kỷ thứ mười chin, dân số của Băi Xàu gia tăng từng năm một.
Các hoạt động
-
kỹ nghệ và thương mại, như cất rượu hay xưởng cưa bằng tay, bắt đầu
mọc lên, xưởng
-
cưa sử dụng gỗ nhập cảng từ Căm Bốt, Cà Mau và Rạch Giá. Người Hoa,
và con cái
-
của họ sinh ra bởi các phụ nữ Việt Nam hay Khmer, sinh sống tại đây
với một nhân số
-
đáng kể, không chỉ ở hai địa điểm nêu trên, mà c̣n ở tất cả các chợ
trong tỉnh.
29
-
Nếu khoảng gần hơn phân nửa diện tích của tỉnh (1,410 cây số vuông)
nằm dưới sự
-
sản xuất nông nghiệp vào khi đó, 764 cây số vuông, đặc biệt kể cả
các khu vực rộng lớn
-
của phần phía tây và tây bắc, thuộc các quận Đ́nh Khánh (hay Kế
Sách) và Nhiêu Mỹ,
-
hăy c̣n chờ được sự khai khẩn. Khu rừng hoang này là nơi sinh sống
của hổ, voi, và
-
cá sấu. Châu thổ sông Bassac, tại phía đông bắc và đông nam Sóc
Trăng, có đủ các
-
tuyến giao thông đường sông và biển thuận tiện với một số tỉnh lân
cận (Bạc Liêu, Cần
-
Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, và Bến Tre); nhưng vào lúc đó, bờ biển của
nó gần như
-
không có người cư ngụ, cũng như tại một vài đảo nhỏ và bờ cát dọc
gịng sông. Gộp
-
chung, vào năm 1904 người Pháp chấm định chỉ có mười hai cây số
đường trong tỉnh là
-
thích hợp cho xe chạy. Giống như trong quá khứ, các tuyến giao thông
tốt nhất vẫn
-
c̣n là đường nước, và nhiều thuyền bản xứ cỡ nhỏ và xuồng Âu Châu
lớn hơn đă di
-
9 | T r a n g
-
chuyển trên nhiều thủy lộ nông, các ḍng nước, và các kinh đào dẫn
đến các cảng sông
-
lớn hơn và ngôi chợ, cũng như đến tỉnh lỵ.
30
-
Chính quyền đương nhiên mong muốn phát triển các khu vực này, nhưng
lao động
-
th́ thiếu hụt, đặc biệt đối với các khu đặc nhượng khai khẩn bao la
của người Pháp. Sự
-
du nhập các công nhân từ miền trung Việt Nam đông dân hơn (thuộc địa
An Nam) chỉ
-
cho thấy các kết quả hỗn tạp. Các phu thợ (coolies)
Việt Nam như thế thường cầm lấy
-
tiền ứng trước và rồi bỏ trốn khỏi “các cai thầu” của họ. Trong khi
các điều kiện làm việc
-
của các nông dân tá điền Việt Nam trên các thửa đất trồng lúa tại
Châu Thổ sông Cửu
-
Long không vô nhân đạo như các t́nh trạng đă được lập chứng tại các
đồn điền cao su
-
ở Biên Ḥa,
31
họ vẫn c̣n bị đe dọa bởi các sự rủi ro từ thiên nhiên (như sự xâm
nhập
-
của nước mặn hay nước lợ vào các khu vực đă khai hoang) hay bởi số
nợ chồng chất
-
của họ với các điền chủ và với các nhà mậu dịch chủ nợ Trung Hoa.
Của cải khổng lồ
-
của các đại điền chủ cho phép họ, vào khoảng thập niên 1930, sinh
sống ở nơi khác,
-
phần lớn ở Cần Thơ hay Sàig̣n, và c̣n ở cả những nơi xa xôi như
Paris; nhưng các cơ
-
nghiệp này đă được mua với giá của sự bất ổn, bấp bênh, sự khinh
xuất, và, dần dà, sự
-
nghèo đói và thống khổ của hầu hết mọi nông dân tá điền, như viên
chủ tỉnh Bạc Liêu
-
đă cảnh cáo hồi năm 1937.
32
-
Một điểm đặc thù của khuôn mẫu định cư tại sáu tỉnh cũ của miền nam
Việt Nam, giờ
-
đây là Nam Kỳ thuộc Pháp, là một dân số lớn lao người dân không định
cư, những
-
người sống trên thuyền hay tại các khu định cư trôi nổi dọc bờ các
con sông và các kinh
-
đào. Thường họ kiếm sống như các công nhân ban ngày, hay họ có thể
đi lượm củi,
-
đánh cá hay tham gia vào mọi loại hoạt động phi pháp. Những người có
thể gia nhập
-
vào số người “bất định” hay, nói theo tiếng Việt, các
lưu dân
trôi nổi (floating) bởi v́
-
nghèo khó, nợ nần, mất mùa hay các sự bất hạnh khác. Vần thường xảy
ra nhiều, hàng
-
ngũ của họ cũng bao gồm các kẻ lông bông, các khách giang hồ, và các
kẻ phiêu lưu
-
không thích sự khó khăn và nhọc nhằn gắn liền với nông nghiệp và
khai hoang đất mới.
-
33
Các làng nổi trôi như thế đặc biệt quen thuộc đối với người Việt Nam
tại vùng hạ lưu
-
sông Cửu Long. Thí dụ, tại tỉnh Châu Đốc, các tập hợp này có thể
được t́m thấy dọc
-
theo hầu hết các con sông và kinh đào. Một con thuyền, một túp lều
tranh khốn khổ trên
-
đất liền (paillot,
tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch), và một mảnh vườn
-
vài mét vuông là tất cả những ǵ mà các người này sỡ hữu. Nhiều
người Việt Nam lưu
-
động từ các khu định cư như thế cũng lợi dụng biên giới Căm Bốt bên
cạnh để trốn thuế
-
(và sự kiểm soát chính thức chặt chẽ hơn), tạo ra nhiều điều làm
phiền ḷng viên chủ
-
tỉnh người Pháp hồi năm 1904.
34
Làm sao mà chính quyền thuộc địa lại có thể khiến
-
cho các người dân thờ ơ này khai khẩn cánh đồng ph́ nhiêu bao la
đằng sau các túp
-
lều khốn khổ của họ được, ông ta hậm hực một cách vô vọng.
35
Các quyền sở hữu đất
-
đai, thuế thấp, và các tín dụng trong giai đoạn khởi đầu có thể giúp
trả lời câu hỏi của
-
ông, nhưng các giới chức thẩm quyền Pháp ưa thích điều, trong thực
tế, một hệ thống
-
các biện pháp không khích lệ, nghiêng về các đặc nhượng được canh
tác bởi các nông
-
dân tá điền và một chế độ đánh thuế nặng cưỡng bách phần lớn các tá
điền lâm vào sự
-
lệ thuộc tài chính suốt đời.
36
-
Các thợ Trung Hoa nhập cảnh, các kẻ nói chung lao động tốt, có thể
là một giải pháp
-
cho vấn đề. Nhưng họ bị xem là kiêu ngạo, có đầu óc độc lập, và
không chắc là sẽ che
-
dấu sự thù nghịch của họ với người Pháp.
37
Ngay từ năm 1882, khuynh hướng các
-
phu, thợ Triều Châu hay gia nhập các hội kín bị nh́n với sự ngờ vực
bởi viên Thống
-
Đốc Nam Kỳ, Le Myre de Vilers, người đă đề nghị thay thế họ bằng
những người Việt
-
Nam.
38
Tuy nhiên, bất kể mọi điều này, yếu tố quyết định là kinh tế: các
phu, thợ Trung
-
Hoa th́ đắt hơn nhiều.
39
Nói chung, và trong cái nh́n dài hạn, người Trung Hoa không
-
được cần tới như một lực lượng lao động cho nông nghiệp Nam Kỳ.
Cho đến đầu thế
-
10 | T r a n g
-
kỷ thứ hai mươi, người Việt Nam vẫn c̣n biểu lộ một số sự miễn cưỡng
để làm việc
-
như các công nhân và thợ cu-li ăn lương, nhưng họ vẫn có thề thực
hiện tất cả các
-
công việc liên quan đển việc trồng lúa dẫn nước tưới tiêu và đồn
điền với giá rẻ hơn
-
nhiều so với các công nhân ngừoi Hoa.
-
Điều thu hút phần lớn các người Hoa đến vùng Transbassac là việc
được phép làm
-
việc trong đất đai của chính họ hay làm cho chính ḿnh, theo một vài
cách thức nào
-
khác. Người Trung Hoa đă đến thăm viếng hay định cư tại vùng
Transbassac muộn lắm
-
từ cuối thế kỷ thứ mười tám. Mặc dù khu vực nằm trên các lộ tŕnh
của nhiều nhà mậu
-
dịch bằng thuyền buồm Hải nNm là các kẻ đă đến đó để mua cá và tôm
từ các nhà sản
-
xuất địa phương,
40
trong số các người Hoa định cư tại chỗ, người nói tiếng Triều Châu
-
họp thành nhóm lớn nhất, giống như tại miền trung và đông Xiêm La và
Căm Bốt. Họ
-
đă đóng góp đáng kể vào việc khai hoang các miền đất mới và vào sự
phát huy việc tiếp
-
thị nông nghiệp, đặc biệt xuyên qua việc mậu dịch lúa gạo, nhưng
cũng có tham gia vào
-
việc trồng hạt tiêu, trái cây, và rau. Từ cuối thế kỷ thứ mười chin,
các công nhân gốc
-
Hải Nam cũng làm việc tại các đồn điền trồng hạt tiêu của Trung Hoa
và Pháp trong
-
vùng Transbassac, cũng như tại miền đông nam Căm Bốt, đặc biệt
khoảng giữa Kampot
-
và Kompong Som. V́ các lư do chính trị và kinh tế, các giới chức
thẩm quyền thuộc địa
-
đă nh́n sự canh tác tại phần lớn lănh thổ Đông Dương bởi các nông
dân Trung Hoa
-
như là một ư tưởng đáng ghê tởm, ngay dù điều đó ít nhất được dung
chấp một cách
-
mặc nhiên tại Căm Bốt và tại các khu vực có người Khmer cư ngụ ở Nam
Kỳ, đặc biệt
-
tại vùng Transbassac.
41
-
Nói chung, các thống đốc và quan đầu tỉnh người Pháp – giống như các
quan triều
-
đ́nh Việt Nam và các chính quyền hoàng gia Căm Bốt trước họ -- đă
nh́n việc khai
-
hoang đất đai và việc kết hôn với các người vợ “bản xứ” như một điều
kiện tiên quyết
-
thuận lợi cho một sự đồng hóa lâu dài mong muốn. Trong mắt nh́n của
quan chức thực
-
dân, các
con lai
[mestizos,
tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, chú của người dịch]
-
này được ban cho tính cần cù siêu đẳng, tính tiết kiệm và một tinh
thần kinh doanh khi
-
so sánh với sô dân “bản xứ thuần túy”. Quan điểm này đă được tŕnh
bày trong một
-
cuộc tranh luận giữa các kẻ bênh và người chống việc nhập cảnh người
Hoa vào lúc bắt
-
đầu thế kỷ thứ hai mươi: hôn nhân liên chủng giữa người Trung Hoa và
“dân bản xứ” sẽ
-
“cải tiến ḍng máu’ của người bản xứ và khích lệ họ phát triển cảm
thức của họ về sáng
-
kiến kinh tế và sự cải thiện xă hội, phe bênh vực đă xác định như
thế.
42
Dù thế, sự sở
-
hữu của người Hoa tại vùng thôn quê phải được giới hạn vào các mảnh
đất cỡ nhỏ và
-
trung, như được tranh luận, bởi các khu đặc nhượng khai khẩn và đồn
điền rộng lớn
-
trên nguyên tắc được dành riêng cho các công dân Pháp và các tổ hợp
tư bản.
43
Các
-
sự tin tưởng này chứng kiến thấy chính quyền Pháp duy tŕ luật lệ về
tư cách công dân
-
cổ truyền, phát sinh từ thời nhà Nguyễn, càng lâu càng tốt: mài đến
nằm 1933 tại Nam
-
Kỳ và Trung Kỳ, và năm 1934 tại Căm Bốt.
44
Theo các điều khoản cổ truyền này, các
-
con trai của một người cha gốc Hoa với một người mẹ bản xứ (người
Việt hay người
-
Khmer) được gọi là người Minh Hương và thụ hưởng, về mặt thuế khóa
và các quyền
-
công dân, một quy chế pháp lư đặc biệt nằm giữa các ngoại kiều Á
Châu [Khách,
tiếng
-
Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] với người bản xứ [dân
đinh,
tiếng Việt trong
-
nguyên bản, chú của người dịch]. Hậu duệ của các cuộc hôn phối giữa
người cha Minh
-
Hương và người mẹ bản xứ, tuy thế, được đối xử như các người bản xứ
đă hoàn toàn
-
đồng hóa về mặt thuế khóa, quân dịch, sưu dịch (làm xâu:
corvée
và quyền được rời
-
khỏi xứ sở, điều được đương nhiên chuẩn cấp riêng cho các ngoại
kiều. Theo quy định
-
này, sự đồng hóa hoàn toàn các hậu duệ phái nam của các cuộc hôn
phối hợp chủng
-
được bảo đảm ở thế hệ thứ ba.
-
11 | T r a n g
-
Nếu các nông gia Triều Châu được đón tiếp, ngừoi Quảng Đông và Phúc
Kiến lại bị
-
nh́n với một mức độ nghi ngờ nào đó bởi khuynh hướng của họ là quần
tụ với nhau tại
-
các “phố Trung Hoa” hay “khu người Hoa”, và tham gia chính yêu vào
mậu dịch, kinh
-
doanh, thủ công nghệ và ngân hàng hơn là nông nghiệp. Các biện pháp
để “trục xuất”
-
họ ra khỏi các lănh vực kinh tế quan trọng này, hay kềm chế sự nhập
cảnh của họ,
-
được yêu cầu nhiều lần bởi các nhóm quyền lợi chính trị và các giới
kinh doanh Pháp tại
-
Sàig̣n, Hà Nội và Paris. Nhưng các hành động như thế không bao giờ
được xem xét
-
một cách nghiêm chỉnh bởi các giới chức thẩm quyền thực dân, các kẻ
đă hiểu rơ rằng
-
các chính sách như thế sẽ hủy diệt nền kinh tế Đông Dương, và đặc
biệt của Nam Kỳ.
45
-
b. Bờ
Biển Vùng
Transbassac Mở
Rộng, Từ Rạch Giá đến Kampot
-
Bờ biển này về mặt lịch sử là một ổ của các hải tặc và các kẻ buôn
lâu. Giống như
-
phần lớn Vịnh Xiêm La, nhiều ḥn đảo hiểm trở và các bờ biển hiếm có
người cư ngụ
-
của nó, với các truông đất xốp và các đầm lầy, đă mang lại các nơi
ẩn náu lư tưởng cho
-
các kẻ nôi dậy và các kẻ ngoài ṿng pháp luật gốc Hoa, Mă Lai, Xiêm
La, Căm Bốt hay
-
Việt Nam, và những kẻ đó di động theo thời cơ giữa các hoạt động phi
pháp và hợp
-
pháp. T́nh trạng này kéo dài từ cuộc di tản của các kẻ trung thành
với nhà Minh từ
-
Trung Hoa trong thế kỷ thứ mười bẩy và mười tám xuyên qua thế kỷ thứ
mười chin, cho
-
măi đến tận các cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất và Lần Thứ
Nh́. Nếu
-
các tàu trang vị vũ khí của Pháp ngày càng có khả năng kiểm soát
phần lớn bờ biển
-
chính của Đông Dương sau năm 1865, các ḥn đảo trong Vịnh [Xiêm La],
và đặc biệt
-
đảo Phú Quốc đốí diện với Hà Tiên, từ lâu đă tạo thành ngoại lệ.
Chúng tiếp tục cung
-
cấp các nơi ân trốn an toàn cho các kẻ gặp rắc rối với nhà cầm
quyền, như các người
-
Trung Hoa trốn tránh pháp luật thực dân hay sự dẫn độ từ Đông Dương
và sống trên
-
các thuyền của họ như một “cộng ḥa độc lập”,
46
xa rời cặp mắt ḍ chừng của nhà
-
chức trách. Những người này thường kết hôn hay lập các mối liên hệ
với các phụ nữ
-
Việt Nam, nhưng mặt khác vẫn sống biệt lập. Ngay con cái họ cũng lập
ra các khu định
-
cư riêng của ḿnh và được biết không ḥa nhập mấy với láng giềng của
họ, ngoại trừ
-
các dịp lễ tết địa phương. Những người Trung Hoa này bị e dè như các
kẻ gây rối, đặc
-
biệt trong số các đồn điền trồng hạt tiêu của người Hải Nam tại
Kampot và Hà Tiên.
47
-
Dù sao, họ cũng rất khó khăn cho người Pháp kiểm soát. Nhiều thuyền
buồm ngang
-
qua trên đường đến Vọng Các và Singapore dễ dàng giúp cho các cá
nhân bị truy nă tái
-
xuất hiện hay biến mất dạng, khi cần thiết.
-
Bờ biển Căm Bốt và phần đất nội địa của nó được sử dụng như một sự
nối dài địa
-
h́nh tự nhiên của lănh thổ Xiêm La nơi phần tây nam của nó và của
Nam Kỳ nơi phần
-
đất phía nam. Phần lớn bờ biển Căm Bốt ở đây được bao che bởi núi
cao, với rặng núi
-
Đâu Khấu (Cardamon) ở hướng tây nam và răng Con Voi (Elephant) ở
phía nam. Rất
-
lâu sau khi có sự thiết lập thuộc địa, các dẫy núi này chỉ được cư
ngụ thưa thớt bởi một
-
sắc dân thiểu số gốc Mon-Khmer, người Pear, các kẻ đă ḥa lẫn với
các người đào tẩu,
-
kẻ nổi dậy, lưu vong Khmer, để tạo ra các người được gọi là
Pol
(các
nô lệ).
Họ chính
-
thức bị bắt buộc phải giao nạp hạt đậu khấu (cardamom), đằng hoàng
(gambodge) và
-
thiết mộc [ironwood, như gô lim, chú của người dịch] cho các nhà
chức trách Pháp-Căm
-
Bốt để đổi lấy muối, gạo, và đồ bằng sắt. Nhưng các sự tiếp xúc mật
thiết của họ với
-
các đồng hưong bên biên giới phía Xiêm La có nghĩa người dân Pear
thường buôn lậu
-
phần lớn các sản vật giá trị của họ cho các mạng lưới người Xiêm gốc
Hoa đặt tại Trat.
-
48
Giống như nhiều đảo nhỏ trong Vịnh, vùng nội địa núi non của các
tỉnh này chứa chấp
-
đủ mọi loại người bên lề bén nhậy trong việc nhảy vào hoạt động kinh
tế của miền biển.
-
Các thuyền buồm mậu dịch và đánh cá từ phía đông Xiêm La và miền nam
Việt Nam
-
vẫn đều đặn ghé bến Kampot và Kompong Som (ngoài khơi có đảo Koh
Kong của Xiêm
-
12 | T r a n g
-
La). Trong hồi đầu thế kỷ thứ hai mươi, Kompong Som vẫn có các quan
hệ hàng hải
-
với Xiêm La nhiều hơn với các cảng Đông Dương thuộc Pháp chẳng hạn
như Kampot,
-
Hà Tiên và Rạch Giá. Đồng tiền
bath (ticul)
của Thái, chứ không phải tiền đồng (piaster)
-
Đông Dương là tiền tệ của nó. Hơn một phần ba thuyền buồm hay lui
tới Kompong
-
Som đă không đóng thuế và trốn tránh sự kiểm soát của sở quan thuế,
theo sự ước
-
lượng của viên trú sứ địa phương của Kampot vào năm 1900.
49
Các người Trung Hoa
-
và Việt Nam tại Kampot và Kompong Som cũng duy tŕ các quan hệ mậu
dịch chặt chẽ
-
với các hải cảng Nam Kỳ kế cận ở Hà Tiên và Rạch Giá, với đảo Phú
Quốc, và, xuyên
-
qua đường bộ và đường thủy, với Châu Đốc bên gịng sông Bassac, và
từ đó với
-
Sàig̣n-Chợ Lớn. Ngừoi Mă Lai cũng quan trọng ở đây. Vài làng Mă Lai
có niên kỳ
-
[thành lập] trở lùi muộn lắm từ thế kỷ thứ mười tám
50
nhưng, cho đến khi có sự chiếm
-
đóng của người Pháp, các di dân mới cũng đến từ Bán Đảo Mă Lai để
bán vũ khí và
-
các đồ gia vị như
galangal
[thuộc giống gừng, chú của người dịch]. Họ dễ dàng ḥa
-
nhập với các người gốc Chàm cùng tôn giáo, là các người mà họ cùng
lập thành các
-
cộng đồng.
-
Kampot bao giờ cũng là “biến
thể khác”
(alter
ego)
của Hà Tiên, và nó là cửa ngơ
-
quan trọng nhất của Căm Bốt để thông ra biển một khi Việt Nam chiếm
đóng cửa sông
-
Bassac. Trong thời kỳ có sự chiếm đóng trực tiếp của Việt Nam (cho
đến năm 1847),
-
Kampot đă là một đồn quân sự, trung tâm hành chính và một sở quan
thuế của Việt
-
Nam. Ngay sau khi các đội quân triều đ́nh triệt thoái khỏi Căm Bốt,
một số lượng đáng
-
kể người Việt Nam vẫn ở lại đó trong các làng canh nông hay đánh cá.
Cho đến năm
-
1860, tỉnh được cai trị bởi một người lai Trung Hoa tên là
Thong
[?], kẻ đă trồng mía và
-
thiết lập một nhà máy lọc đường kéo bằng lừa khá thành công. Một
người Trung Hoa
-
nổi tiếng khác vào thời đó là Mun Sui.
Trước đây bị xem là một hải tặc đáng sợ tại khắp
-
vùng Vịnh Xiêm La, Mun Sui đă về hưu tại Kampot sau khi bị đánh bại
bởi một hải tặc
-
khác. Ở đó ông ta trở thành một kẻ điều giải các công việc của người
Hoa, được nể
-
trọng cho đến khi từ trần vào năm 1878. Trong các thời tiền và ban
đầu của chế độ
-
thuộc địa, trách vụ thuế của Kampot th́ thấp – một phần mười số thu
hoạch – và xứ sở
-
đă sản xuất hạt tiêu, mía đường, thuốc lá, và lúa gạo để xuất cảng.
Các trái cây th́ đầy
-
răy và được chuyển lên Nam Vang cho hoàng gia. Khu vực đủ thịnh
vượng để trả cho
-
ba nhóm diễn tuồng phục vụ cho các nhóm khách hang khác nhau của
chúng: một cho
-
Trung Hoa và một cho Việt Nam, cùng với một đoàn ca múa Xiêm La-Căm
Bốt.
51
-
Tỉnh lân cận Kampot về phía đông nam là Péam hay Banteay Meas. Trong
năm
-
1887, nó chỉ bao gồm mười làng, nơi mà 2,400 người Khmer, 250 người
Trung Hoa, 20
-
người Trung Hoa và 7 người thọ thuế Chàm-Mă Lai sinh sống. Sản phẩm
chính của nó
-
là hạt tiêu Trung Hoa. Các tuyên giao thông đường bộ với Kampot tồi
đến nỗi các
-
người trồng trọt gốc Hoa đă phải mua bán hoa màu của họ với ba chiếc
thuyền bán
-
rong nhỏ đến Châu Đốc thuộc Nam Kỳ.
52
-
Trong năm 1865, sau một cuộc thám sát Hà Tiên và Kampot, Thống Đốc
Nam Kỳ,
-
Đô Đốc de la Grand́ière, hạ lệnh cho các tàu trang bị vũ khí của
Pháp tận diệt “nạn hải
-
tặc” Việt Nam và Trung Hoa (theo đó ông ta cũng nghĩ là các hoạt
động vũ trang chống
-
Pháp, nếu có dính líu đến người Việt Nam) tại vùng Vịnh Xiêm La. Bởi
người Pháp tin
-
rằng các hoạt động như thế phần lớn phát sinh từ hai nơi này,
53
họ đă thiết lập một đồn
-
quân sự và một trạm quan thuế tại Kampot. Các nhà mậu dịch bán hạt
tiêu địa phương
-
cho Sàig̣n – Chợ Lớn từ đó trở đi phải trả thuế quan tại trạm quan
thuế của Pháp. Vài
-
năm sau đó, vai tṛ của Kampot trong cuộc nổi dậy chống Pháp trên
toàn quốc trong các
-
năm 1885-1886 đă làm thoái bộ ngắn ngủi các nỗ lực dành quyền kỉểm
soát nhiều hơn
-
này, và cũng tàn phá các mảnh đất rộng lớn của các đồn điền trồng
tiêu. Khi ḥa b́nh
-
trở lại, vào cuối thập niên 1880, thuế của ttriều đ́nh trên nông dân
đă đánh một mức
-
13 | T r a n g
-
thuế quá cao trên các nhà sản xuất hạt tiêu địa phương, từ 17.5 đến
23 đồng trên mỗi
-
400 cây tiêu, kích động các sự chống đối bạo động từ các nhà trồng
trọt Trung Hoa ở
-
địa phương.
54
Từ đây trở đi, Kampot khó dành lại được sự thịnh vượng trứoc đây của
-
nó. Dưới chế độ thuế khóa hà khắc và chế độ quan thuế hồi cuối thập
niên 1880, dân
-
chúng địa phương đă bắt đầu rời bỏ khu vực. Vài ngôi làng cùng tạo
thành chinh vùng
-
Kampot trước đây đă có được 3,000 dân trong năm 1860 và đă vươn tới
từ 5-7,000
-
người thọ thuế vào khoảng đầu thập niên 1870 (trong đó có 900 người
Trung Hoa, 300
-
người Mă Lai và Chàm, 40 người Việt Nam và 30 người Xiêm La), nhưng
sau cuộc nổi
-
dậy, trong năm 1889, dân số chỉ gồm 2,500 người, và sau đó tụt xuống
chỉ c̣n 1,500
-
người vào đầu thập niên 1890. Trong một thời khoảng ngắn, tṛ cờ bạc
của người
-
Trung Hoa đă trở thành một sự hấp dẫn mới nhưng điều này chỉ gia tốc
sự sụp đổ kinh
-
tế của nhiều người c̣n trụ lại. Một yếu tố khác đặc biệt chắc chắn
đưa đến sự suy tàn
-
kinh tế của Kampot: các hàng xuất cảng chính của Căm Bốt —gạo và cá
cũng được
-
xuất cảng, đặc biệt từ sau năm 1907, từ Battambang), bông vải, ngô
(bắp), gỗ và các
-
sản phẩm tự nhiên khác – một lần nữa lại di hành xuyên qua sông
Bassac hay Cửu
-
Long đến Sàig̣n – Chợ Lớn, giờ đây đă trở thành cửa ngơ chính của
Căm Bốt để thông
-
ra biển. Kampot bị thu giảm xuống thành một trạm trung chuyển cấp
vùng.
55
Từ đó về
-
sau, phần lớn hạt tiêu của nó được chuyển vận bởi các thuyền buồm
Trung Hoa đến
-
Sàig̣n – Chợ Lớn xuyên qua Hà Tiên, mặc dù một số thuyền buồm của
người Hải Nam
-
vẫn c̣n cất tiêu để đem bán tại Hải Nam hay Singapore. Các thuyền
buồm từ Xiêm La
-
trước đây chế ngự ngành buôn bán này thấy ḿnh bị gạt ra bởi thuế
khóa và chế độ
-
quan thuế mới. Từ thập niên 1890, các quan hệ thương mại trực tiếp
với các Bang
-
Quốc Mă Lai, Singapore, Vọng Các và Hải Nam trở nên hiếm hoi, nhưng
chúng vẫn c̣n
-
hiện diện, như sự mua bán phi pháp.
56
-
Để kích thích sự sản xuất hạt tiêu suy giảm tại vùng Transbassac và
miền nam Căm
-
Bốt, trong thập niên 1890, chính quyền Pháp đă mở cửa thị trường Mẫu
Quốc
-
(Metropolitan) cho hạt tiêu Đông Dương với biểu thuế ưu đăi. Trị giá
tổng cộng của
-
“món quà từ đất mẹ này dành cho thuộc địa” được ước lượng là bẩy
triệu Phật lăng mỗi
-
năm. Các nhà trồng trọt tại Xiêm La nh́n thấy một cơ hội để kiếm
tiền từ quan thuế biểu
-
mới, do đó các thuyền buồm Trung Hoa đă bắt đầu buôn lậu hạt tiêu
đến khu vực duyên
-
hải Transbassac mở rộng này, trục lợi từ chế độ ưu đăi thuế này. Một
khi việc này được
-
khám phá ra, các nhà chức trách t́m cách trả đũa bằng cách thắt chặt
sự kiểm soát trên
-
các đồn điền trồng tiêu và sự mua bán của chúng. Để kiểm soát bờ
biển Căm Bốt, cần
-
phải lập một vài đồn mới, cắt cử các nhân viên quan thuế Âu Châu,
nhưng, sau hết, các
-
lư do tài chính và “khí hậu không tốt cho sức khóe” khiến chỉ có một
đồn [được lập],
-
trong năm 1897, được đảm nhận bởi một viên chức Âu Châu duy nhất.
57
Các kết quả
-
của nó khó khả quan. Ngay dù thế, Nha Quan Thuế và Thuế Công Quản
(Direction des
-
Douanes et Régies) đặt tại Hà Nội đă bác bỏ lập luận của trú sú
Kampot Leclère rằng
-
sự mở ngỏ việc mua bán hạt tiêu và sự khai thông của nó đến Đông Nam
Á là các biển
-
pháp hữu hiệu duy nhất cho việc gia tăng sức sản xuất và ngăn chặn
sự giả mạo và
-
buôn lậu.
58
-
Người Trung Hoa cũng định cư tại một số các đảo lớn nhỏ trong Vịnh
Xiêm La.
-
Trong năm 1887, thí dụ, đă có một thuộc địa của các nhà trồng tiêu
Trung Hoa, vào
-
khoảng ba mươi gia đ́nh, trên ḥn đảo nhỏ Koh Kor, đối diện với Koh
Rung. Các
-
thuyền buồm nhỏ của họ chính yếu thông thương với Kampot. Một đảo
khác gần bên,
-
Koh Padaon, có mười lăm nông dân và ngư phủ Trung Hoa sinh sống, tất
cả đều kết
-
hôn với phụ nữ Căm Bốt. Họ trồng lúa cho sự tiêu dung của chính họ
và bán sản phẩm
-
của họ, một cách chính thức là gia cầm và cá, tại Hà Tiên và Rạch
Giá.
59
-
14 | T r a n g
-
Với tất cả các t́nh huống nêu trên, không có ǵ đáng ngạc nhiên khi
thấy người Pháp
-
chưa bao giờ t́m cách xóa bỏ sự buôn bán phi pháp và các mạng lưới
nhập cảnh bất
-
hợp pháp đă nối liền vùng Transbassac và bờ biển Căm Bốt với
Singapore, Xiêm La và
-
Bán Đảo Mă Lai. Các mạng lưới này đă đan kết với các hoạt động phi
pháp có tầm hệ
-
trọng chính trị, hành chính và kinh tế cụ thể đối với dân chúng địa
phương, như thí dụ
-
sau này về việc buôn lậu bông vải và lụa sẽ cho thấy. Trong năm
1931, khi mà Cuộc
-
Đại Suy Thoái [Kinh Tế} ập đến Đông Dương, các hăng dệt của Pháp
khiếu nại chính
-
thức về các sự nhập cảng trái phép bong va/I Ấn Độ và lụa của Trung
Hoa, được vận
-
chuyển bởi các thuyền buồm Trung Hoa từ Singapore và Vọng Các đến
các hải cảng
-
nhỏ của vùng Transbassac (đặc biệt đến Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau,
Bạc Liêu và Sóc
-
Trăng), và từ đó, dọc theo hàng ngàn thủy lộ đến phần c̣n lại của
Nam Kỳ. Thông Đốc
-
Nam Kỳ tức thời ra lệnh đóng cửa tạm thời các bến tàu này và tổ chức
các cuộc đột
-
kích các thị trường của chúng, đưa đến sự sụt giảm số hàng lậu tức
thời đến 75 phần
-
trăm. Nhưng, như các viên chức điều khiển các tỉnh phàn nàn, đă có
các hậu quả kinh
-
tế tiêu cực. Các sản phẩm địa phương từ các tỉnh của họ, chẳng hạn
như cá khô, than
-
đá, và lông vịt, vốn b́nh thường được trao đổi để lấy hàng lụa và
vải bông buôn lậu,
-
khiến sự trấn áp các hang này v́ thế đă tác động một cách tệ hại
trên các ngành thủ
-
công nghệ địa phương. Tuy nhiên, Nha Quan Thuế tại Sàig̣n không động
tâm. Nó đă
-
trả lời với sự quyết đóan đáng ngờ về các hiệu quả trong trường kỳ
của sự ngăn cấm:
-
bờ biển Nam Kỳ, và đặc biệt của Căm Bốt, rất khó để kiểm soát, Nha
này đă lập luận,
-
đến nỗi mậu dịch phi pháp sẽ dễ dàng thẩm nhập xuyên qua các ngả
khác.
60
Bất kể là
-
liệu các công nghiệp địa phương tại vùng Transbassac có thể sống sót
với sự tái
-
chuyển hướng hoạt động chợ đen này hay không không phải là mối quan
tâm của Nha.
-
Chúng ta giờ đây hăy rời khỏi các t́nh huống kinh tế và địa-chính
trị của vùng mở
-
rộng để cứu xét đến nạn thổ phỉ tại miền tây Nam Kỳ.
-
Nạn
Thổ Phỉ Trung Hoa và
Việt
Nam tại vùng
Transbassac
-
Trong năm 1895, Thống Đốc Nam Kỳ có báo cáo các nhóm vũ trang đang
cướp bóc
-
các thuyền buồm mậu dịch sử dụng các thủy lộ của vùng Transbassac để
giao thương
-
với các thị trường lớn hơn, đặc biệt với Chợ Lớn. Theo ông, một
“trận lụt các di dân
-
mới” đă đến từ Hồng Kông sau khi người Pháp gỡ bỏ một lệnh cấm tạm
thời trên sự
-
nhập cảnh của người Trung Hoa từ thuộc địa của Anh Quốc, đuợc thúc
đẩy bởi một
-
dịch bệnh bùng nổ tại đó. Các sự nhập cảnh ồ ạt như thế luôn luôn
mang đến một khối
-
lớn “các kẻ bất kham” trong số các di dân mới.
61
Dù sao, đây chỉ là một trong nhiều báo
-
cáo về nạn hải tặc trong thập niên cuối của thế kỷ thứ mười chin và
trong thập niên đầu
-
tiên của thế kỷ thứ hai mu=ơi, chính yếu tại vùng Transbassac, nhưng
cũng có xảy ra, ở
-
một mu=’c đsô, thấp mức, tại vùng Cisbassac. Nạn hải tặc này phần
lớn liên hệ đến
-
chu kỳ thu gặt, với nhiều vụ cướp nhất được báo cáo sau vụ mùa đầu
tiên (từ tháng Hai
-
đến tháng Sáu) khi các thuyền buồm và tàu chuyên chở gạo đê[‘n các
chợ bên sông và
-
từ đó đến Chợ Lớn. Vù mua thứ nh́, trong tháng Mười, cũng đă lôi
cuốn một sự tái
-
phát của hoạt động hải tặc.
62
-
Các văn khố thuộc địa chứa nhiều thí dụ, theo đó sự việc sau đây kể
từ năm 1891
-
trở nên điển h́nh. Trong tháng Hai năm đó, thí dụ, một nhóm vũ trang
gồm mườ`i tên
-
Triều Châu Trung Hoa đă tấn công chợ Ô Môn (tỉnh Cần Thơ), nhưng đă
phải rút lui tay
-
không sau khi gặp phải sự kháng cự. Sau đó trong tháng Na, viên
phó tổng
(sous-chef,
-
tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch) của tổng Bảo Thuận
(tỉnh Bến Tre)
-
đă trở thành nạn nhân của một nhóm hai mươi người Hoa vũ trang, đă
lấy đi 3,500
-
đồng và một khẩu sung nhỏ, mà không gây ra tổn hại nào khác. Tại Sóc
Trăng, trong
-
cùng tháng, một cuộc tấn công tương tự đưa đến cái chết của nạn
nhân, được ức đóan
-
15 | T r a n g
-
bởi cùng băng đảng đó. Trong khi đó, cũng trong tháng Ba, một nhóm
khác gồm mười
-
ba người Hoa từ Sàig̣n đă tấn công vào
đ́nh
[tiếng Việt trong nguyên bản, chú của
-
người dịch] của làng sản xuất ra đồ gấm kiểu Trung Hoa tại Lái
Thiêu, lấy mất 583
-
đồng. Trong trường hợp này, nhà chức trách đă t́m cách bắt được một
nghi can không
-
lâu sau đó, nhưng không t́m thấy dấu vết của các tên chính phạm.
63
-
Trong năm 1893, viên trú sứ của Sóc Trăng có báo cáo một nhập lượng
đông đảo
-
các di dân Trung Hoa vào tỉnh ông: từ tháng Ba đến tháng Năm không
thôi, 700 người
-
Trung Hoa thuộc mọi nhóm thổ ngữ tượng trưng cho nhiều địa phương đă
nhập vào
-
tỉnh, nhưng đại đa số là các người Triều Châu.
64
Trong năm đó, Sóc Trăng và tỉnh lân
-
cận Bạc Liêu, cùng với tỉnh Cân Thơ ngược sâu hơn trên gịng Bassac,
là các khu vực
-
bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi nạn hải tặc. Diện tích tương đối lớnvà
mật độ dân cư thưa
-
thớt của chúng, cùng với sự giao thương theo bờ biển và gịng sông
đễ dàng, bảo đảm
-
rằng các kẻ bất lương có thể biến mất từ lâu trước khi bất kỳ sự đáp
ứng chính thức
-
nào có thể diễn ra. Chính quyền đă lập ra một toán canh gác ban đêm,
hy vọng đối phó
-
được lợi thế của các thổ phỉ, nhưng phần lớn không có hiệu quả. Sự
vô hiệu năng,
-
thiếu quan tâm và nói chung không thích hợp của họ phát sinh chính
yêu, như được
-
nghĩ, v́ các nhân sĩ địa phương, các kẻ cai quản làng xă của ḿnh,
nằng nặc đ̣i các kẻ
-
canh chừng này cũng phải thi hành công việc khác trong ban ngày. Dĩ
nhiên, ư đồ này
-
có thể đă thất bại bởi các nông dân tá điền, các kẻ tạo thành các
dân quân này và là các
-
kẻ lệ thuộc vào lớp điền chủ giàu có hơn, đă không có quyền lợi kinh
tế trong việc phục
-
vụ các ông chủ của ḿnh vào ban đêm, cũng như trong ngày, mà không
có sự bồi đáp
-
nào. Như các kẻ rất nghèo, họ đâu có phải lo sợ nhiều quân cướp. Bất
kỳ lư do là ǵ,
-
sự thất bại của các toán tuần tra đia phương sau này đă khiến các
nhà hành chính Pháp
-
t́m kiếm ngân khoản để lập ra các đội cảnh sát lưu động, được cung
cấp với tàu gắn
-
động cơ và các vũ khí hiện đại.
55
-
Nạn hải tặc tại vùng Transbassac vươn đến đỉnh cao từ năm 1901 đến
1903, với các
-
báo cáo từ mọi tỉnh miền tây về các hoạt động liên tục của các băng
đảng đượ.c tổ chức
-
hoàn bị và vũ trang đầy đủ. Thí dụ, một băng đảng được cầm đầu bởi
một người mang
-
tên Hùynh Văn An nào đó, cùng hai anh em thuộc gia đ́nh họ Trương,
đă kiểm soát con
-
kinh Sóc Trà và đánh thuế xuyên quá trên các tàu chạy ngang qua. Các
thành viên của
-
nhóm cũng mua bán gỗ lậu, và phụ nữ bị bắt cóc, hoạt động kể sau cho
thấy một sự bất
-
cân bằng nhân số tại vùng đất mới khai khẩn này. Sau khi Huỳnh Văn
An bị bắt và
-
tuyên án mười lăm năm tù, khu vực dành lại sự yên tĩnh trong thời
gian ngắn. Tuy
-
nhiên, khi anh ta t́m cách trốn khỏi nhà lao tỉnh Cần Thơ, các hoạt
động của băng đảng
-
này lại tái diễn.
56
-
Tất cả các tỉnh trong vùng Transbassac nêu trên cho đến giờ đă trở
thành, kể từ thập
-
niên cuối cùng của thế kỷ thứ mừoi chin, các trung tâm của các hoạt
động kinh tế dâng
-
cao. Chính quyền thực dân gia tăng nhịp độ đào kinh, làm đường, và
lập hải cảng,
-
trong khi các chợ mới được thành lập và các đặc nhương khai thác đất
đai được phân
-
phối. Các đặc nhương khai thác đất đai, trên nguyên tắc, chỉ được
dành cho người
-
Pháp và các điền chủ Việt Nam đă nhập tịch, những ngừoi Trung Hoa đă
t́m cách thụ
-
đắc đất đai xuyên qua các phương cách gián tiếp, đặc biệt xuyên qua
các người vợ và
-
con lai Việt của họ.
57
Thật sôi nổi nhịp độ phát triển và thật quá ít dân số đên nỗi ngay
-
người Trung Hoa, có quy chế thuế khóa đặc biệt miễn trừ cho họ các
yêu cầu lao động
-
cưỡng bách, giờ đây có thể “được mời”. như các tài liệu văn khố đă
viết ra, để tham gia
-
“một cách tự nguyện” vào các công tŕnh công chánh này bởi có nạn
thiếu hụt lao động
-
tạm thời.
58
-
Vào năm 1909, mối nguy hiểm của nạn hải tặc đă giảm bớt một cách
đáng kể. Sự
-
phát triển kinh tế tại vùng Transbassac đă bảo đảm rằng các đơn vị
cảnh sát lưu động,
-
16 | T r a n g
-
được yêu cầu trở lại hồi năm 1902, đă được đặt túc trực tại địa
phương. Như viên
-
thống đốc Nam Kỳ đă báo cáo một cách hănh diện, các đồn cảnh sát vũ
trang mới
-
(postes
de gendarmerie)
đă được thiết lập tại một số yếu điểm, như ngă tư đường, các
-
đoạn nối các con sông với các kinh đào, và các ḥn đảo biệt lập, hay
tại các khu vực
-
khác từng đặc biệt tán trợ cho nạn hải tặc. Các đồn này cho phép có
lưu động tính
-
nhiều hơn trong sự truy kích các băng nhóm tội phạm. Các tàu có gắn
động cơ cũng
-
tuần tra các con sông và các kinh đào, ngày và đêm. Dân số nông dân
địa phương,
-
ngày càng tin tưởng hơn rằng các nhà chức trách có thể bảo vệ cho
họ, đă bắt đầu từ
-
chối không nộp tiền cho các băng đảng, và trong một số trường hợp
c̣n trợ lực với nhà
-
chức trách, hoặc bởi việc kháng cự các cuộc tấn công hay bằng việc
tố cáo và bắt giữ
-
quân thổ phỉ.
59
-
Nhưng sự lạc quan của vị thống đốc đến quá sớm. Chỉ một tháng sau
đó, các báo
-
cáo mới về nạn hải tặc lại xuất hiện. Tuy nhiên, lần này các khu vực
duy nhất bị ảnh
-
hưởng là các nơi với nhân số người Hoa Triều Châu đông đảo, đặc biệt
tại các tỉnh
-
trong vùng Transbassac như Sóc Trăng, Cần Thơ và Bạc lieu. Một băng
đảng người
-
Hoa tại đó, được báo cáo là đặc biệt nguy hiểm, gồm hai mươi người
có vũ trang, và có
-
các nơi ẩn nấp trên vài đảo nhỏ, không người ở tại cửa sông Bassac.
Họ tấn công các
-
thương thuyền Trung Hoa và đ̣i tiền bảo kê từ các làng trong khu
vực. Cần đến một
-
chiến dịch cảnh sát phối hợp của ba tỉnh lận cận (Sóc Trăng, Cần Thơ
và Trà Vinh)
-
trước khi băng đảng này sau hết bị tiêu diệt, mặc dù nhiều thành
viên vẫn c̣n chạy
-
thoát được. Dù thế, viên hành chánh quản trị tỉnh Sóc Trăng đă lập
luận, vẫn tuyệt đối
-
cần thiết để cải tiến các sự giao thông tại khu vực xa xôi này, c̣n
được cư trú nhiều
-
phần bởi người Khmer. Tuy nhiên, chỉ riêng tại Sóc Trăng, chỉ có quá
ít công nhân cho
-
các công tác công chánh thiết yếu như thế, khi các chủ nhân các khu
đặc nhương khai
-
khẩn từ chối không “cho mượn” các tá điền của họ đề làm việc cho các
công tŕnh đó.
-
(Chỉ có các thương gia Trung Hoa tại cảng sông ở Băi Xàu đă tạo ra
một ngoại lệ đáng
-
tán dương trước sự thiếu vắng của ư thức công dân này, khi họ cung
cấp cả ngân
-
khoản và lao động cho việc xây cất bến cảng, kinh đào và đê chắn
sóng mới). Như viên
-
tỉnh trưởng đă thúc dục trong bản báo cáo của ông, chỉ sự gia tăng
các đường bộ, sự
-
kiểm tra ngày và đêm các thủy lộ, sự tạo lập các quận hạt hành chánh
mới, và sự động
-
cơ hóa đội tuần cảnh mới có thể hy vọng giải quyết vấn đề hải tặc
tại vùng
-
Transbassac.
70
-
Tỉnh duyên hải Rạch Giá không thoát khỏi tai ách chung của nạn thổ
phỉ vào thời
-
điểm này. Trong những năm đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi, một băng
đảng quân
-
cướp, cầm đầu bởi một người Việt Nam tên Lê Văn Lợi, đă gây kinh
hoàng Rạch Giá.
-
Chúng đặc biệt tích cực tại quận G̣ Quao, nơi mà nhiều nhánh sông,
kinh đào, đầm
-
lầy, và rừng đă tạo ra vô số khả tính cho sự ẩn náu và trốn thoát an
toàn. Như văn khố
-
cho thấy, không chỉ v́ nhu cầu kinh tế mà c̣n do t́nh h́nh an ninh
địa phương phức tạp
-
đă buộc chính quyền phải gia tăng chương tŕnh đào các con kinh mới
tại các khu vực bị
-
ảnh hưởng ở đây, với viên phó thống đốc Nam Kỳ tuyên bố với viên
Toàn Quyền rằng
-
Rạch Giá đă thực sự bị cắt ĺa với phần c̣n lại của thuộc địa bởi có
sự khó khăn trong
-
việc giao thông với nó.
71
Sau khi các kinh đă được đào, giống như ở các miền khác của
-
vùng Transbassac, cơ cấu hành chính của nông thôn Nam Kỳ thuộc địa
đă tức thời mở
-
rộng các khu canh tác mới. Việc này bao gồm sự tạo lập các cộng đồng
nông thôn, các
-
hội đồng xă (conseils
des notables: hội đồng các thân hào nhân sĩ)
và sự xây dựng các
-
ngôi
đ́nh
(communal halls), được tài trợ một phần bởi chính quyền. Đối với
người
-
Trung Hoa, điều này có nghĩa sự du nhập hệ thống bang hội vào đến
tận các góc cạnh
-
hẻo lánh nhất của Đông Dương.
-
17 | T r a n g
-
Chúng ta giờ đây hăy nh́n đến các hội kín, như đối lập với giới thổ
phỉ hay các kẻ nổi
-
loạn bị thất bại biến thành tội phạm, trong thế giới ven biên phi
pháp của Nam Kỳ thủa
-
ban sơ của chế độ Thực dân.
-
Các Hội
Kín Trong Dân Trung Hoa và
Việt
Nam
-
Vào khoảng thập niên 1880, các nhà chức trách Pháp đă bắt đầu lo âu
về các hoạt
-
động bất hợp pháp đă có, nếu có, một ít mối liên kết với sự đối lập
chính trị đối với sự
-
cai trị của Pháp. Các băng đảng tội phạm xem ra đang lên cao tại Nam
Kỳ, như chúng
-
ta sẽ sớm nh́n thấy dưới đây. Nhưng hoạt động phi pháp này không chỉ
là một yếu tố
-
về thời cơ và địa h́nh; nó cũng phải được nh́n trong khung cảnh một
chuỗi các các tật
-
xấu hợp pháp hay trước đây hợp pháp của thời đại, đặc biệt “tam đổ
tường’ của việc hút
-
thuốc phiện, cờ bạc, và đĩ điếm có tổ chức. Vào khoảng cuối thập
niên 1880 và đầu
-
thập niên 1890, chính quyền địa phương quan tâm nghiêm trọng về một
vài hoạt động
-
mờ ám. Các tàu đánh bạc do người Hoa điều hành đă vươn tới mọi ngóc
ngách của
-
Nam Kỳ, trong khi các ṣng bài tại Chợ Lớn , vốn hoạt động hợp pháp
trong một vài thời
-
khoảng dưới danh nghĩa các câu lạc bộ người Hoa, hay các tổ chức
tương trợ (cercles
-
d’entraide mutulle chinois)
– và trong đó tất cả các nhóm thổ ngữ Trung Hoa chính thức
-
đều có dự phần – đă từ chối không chịu tan biến sau khi các hội quán
bị xóa bỏ. Thay
-
vào đó, các ổ cờ bạc bí mật đă phát triển, và thường gắn liền với
các ổ điếm tại các
-
ttrung tâm của tỉnh. Tất cả các điều này đă khiến cho nhà chức trách
Pháp phải quan
-
tâm lớn lao. Phe chỉ trích lo sợ sự phát triển thành một nền kinh tế
ngầm và ngay cả
-
thành một quốc gia trong một quốc gia. Các chính sách Pháp đă biến
đổi từ những năm
-
1860 giữa sự dung chấp các hoạt động như thế v́ mục đích góp phần
cho ngân sách
-
thuộc địa với các mức độ cấm đoán lên xuống. Câu trả ḷi cuối cùng
cho sự đe dọa này
-
đă được đưa ra trong năm 1882 khi viên thống đốc dân sự đầu tiên, Le
Myre de Vilers,
-
xiết chặt các luật lệ liên quan đến ba “tật xấu xă hội” này trên
khắp cơi Nam Kỳ. Pháp
-
chế của ông sau này đưọc mở rộng trên toàn thể Đông Dương, nhưng một
ḿnh pháp
-
chế không thôi khó đủ để giải quyết các vấn đề này.
-
Le Myre de Vilers cũng xiết chặt các luật lệ liên quan đến các di
dân Trung Hoa, các
-
luật lệ có lẽ nghiêm khắc nhất trên toàn vùng Đông Nam Á lúc bấy
giờ. “Các Ngoại Kiều
-
Á Châu” trong đó người Trung Hoa luôn luôn chiếm đại đa số, các kẻ
bị cáo buộc với
-
các vi phạm tương đối nhỏ như hội viên các hội kín giờ đây sẽ phải
chịu sự trục xuất tức
-
thời và vĩnh viễn khỏi Đông Dương, và trong các trường hợp quan
trọng, tài sản của họ
-
cũng có thể bị tịch thu. Ngoài ra, các bang mà họ lệ thuộc có thể bị
phạt nặng nề.
-
Trong một cuộc trấn áp quan trọng các hội kín tại Nam Kỳ, viên Thống
Đốc đă tuyên
-
phán các khoản phạt sau đây trong các năm 1881-82: các bang Triều
Châu tại Chợ
-
Lớn, Cần Thơ, Trà Vinh và Vĩnh Long phái đóng góp 5,000 đồng vào
chương tŕnh trấn
-
áp chung nạn hải tặc tại vùng nông thôn; trong khi tại Sóc Trăng,
phí tổn 3,000 đồng đi
-
liền với sự thiết lập một lực lượng cảnh sát bổ túc 30 người được áp
đặt trên các bang
-
Triều Châu tại Sóc Trăng, Băi Xàu và Bạc Liêu. Một làng cá biệt, Tân
Quới tại Cần Thơ,
-
bị phạt 2,000 đồng v́ bị chứng minh có tham gia vào các hoạt động
của Thiên Địa Hội
-
(Heaven and Earth Society).
72
-
Một khi được chứng minh, các kẻ bị cáo buộc h́nh sự sẽ bị trừng phạt
theo luật
-
pháp; nhưng ngay cả trong các trường hợp này, chừng nào không có các
tội tử h́nh liên
-
lụy, các nhà chức trách thường tán thành sự trục xuất hơn là sự giam
giữ quá dài và tốn
-
kém. Chỉ có các chính phạm Trung Hoa và các ṭng phạm Việt Nam là bị
tống vào nhà
-
giam, thường trên đảo Poulo Condore (Côn Sơn).
73
Ngoài ra, Le Myre de Vilers có đưa
-
ra một sự cải cách tư pháp trong năm 1882. Tại Biên Ḥa, Mỹ Tho, Bến
Tre, Vĩnh Long,
-
Châu Đốc, các ṭa án tư pháp được thành lập, chủ tŕ bởi các viên
chức người Pháp
-
18 | T r a n g
-
được giả định nói thông thạo tiếng Việt và am hiểu văn hóa và xă hội
địa phương. Mục
-
đích của chúng là giám sát một cách hữu hiệu bộ phận bản xứ trong
chính quyền, gồm
-
có các quan lại và thông dịch viên, bị lo sợ, lại quá thường cộng
tác với các kẻ phạm tội.
-
74
-
Các nỗ lực ban đầu của Pháp nhằm kiểm soát khó thành công được.
Thiên Đia Hội,
-
được chia làm hai nhánh, Nghĩa Ḥa và Nghĩa An, hăy c̣n rất mạnh,
đặc biệt trong
-
người nói tiếng Triều Châu và Phúc Kiến. Bang Phúc Kiến có nhân số
ít, nhưng lại gồm
-
các người Hoa giàu có nhất trong thành phần hội viên của nó. Theo
các tài liệu văn khố
-
mà tôi đọc được cho đến nay, họ không bị nh́n như một mối nguy hiểm
đặc biệt đối với
-
luật pháp và trật tự. Sự băi bỏ các hoạt động của các hội của họ
đúng ra là một tính
-
toán kinh tế khôn ngoan hơn, với sự lo ngại liên can đến sự điều
hành các khu lĩnh canh
-
và nạp tiền thuế khóan cho ngân sách, đặc biệt là thị trường độc
quyền về thuốc phiện,
-
và chính v́ thế, là một vấn đề về nguyên tắc chính trị hơn là v́ nhu
cầu khẩn cấp.
75
Tuy
-
nhiên , người Triều Châu lại là một trường hợp khác. Họ hoạt động
như các thương
-
nhân lúa gạo tại Chợ Lớn và như các trung gian tại miền nông thôn
Nam Kỳ, nhưng
-
cũng được đại diện trong giới nông dân tại vùng Transbassac, và tất
cả đều sẵn lấy vợ
-
Việt nam và Khmer. Dưới các t́nh huống này sự lan tràn các tổ chức
hội kín của họ
-
trong phạm vi Nam Kỳ và Căm Bốt, và sự bành trướng của chúng đến dân
“bản xứ”,
-
không phải là điều gây ngạc nhiên, và đă bị đón nhận với sự nghi ngờ
và lo sợ bởi các
-
nhà chức trách thực dân là các kẻ c̣n dự đoán đến một tổ chức “Á
Châu Quốc tế”
trước
-
khi truởng thành
[avant
la letter,
thành ngữ Pháp trong nguyên bản, chú của người
-
dịch]. V́ thế, trong năm 1882, sau các sự xáo trộn ở thôn quê trong
suốt mùa khô, viên
-
thống đốc đă quyết định một màn biểu dương sức mạnh để đối phó với
mối đe dọa vừa
-
phát sinh này. Các tỉnh thuộc vùng Transbassac như Rạch Giá, Bạc
Liêu và Sóc Trăng
-
đă là các mục tỉêu chính của sự đàn áp. Le Myre de Vilers đă đến
thăm khu vực và đích
-
thân chỉ huy các biện pháp chống lại tội phạm Trung Hoa (hay Triều
Châu) có liên quan
-
đến băng đảng.
-
Trong bản báo cáo năm 1882 gửi về Paris của ông, Le Myre de Vilers
yêu cầu đặt
-
các sắc thuế mới để đài thọ cho các công tác nhằm mang vùng
Transbassac, và đặc
-
biệt bán đảo Cà Mau, nằm dưới sự kiểm soát trọn vẹn của chính phủ.
Khu vực này cư
-
trú bởi người việt Nam, Trung Hoa, Khmer và Minh Hương, và nó thụ
hưởng các nối kết
-
đường biển dễ dàng với Trung Hoa và các nước khác trong miền. Từ các
thời xa xưa,
-
nó đă là một nơi ấn náu an toàn cho các phạm nhân, các kẻ gây xáo
trộn, và các kẻ
-
giang hô Trung Hoa, và cho các người tỵ nạn từ các tỉnh khác của Nam
Kỳ. Dân số bất
-
kham này cho thấy khuynh hướng dễ tham gia vào các hội kín, vốn hành
động thay cho
-
các cơ cấu chính quyền chưa hiện diện đầy đủ tại cvác khu vực này,
nơi có sự lo ngại
-
rằng người Pháp không chịu đựng nổi khí hậu không lành mạnh này. Như
viên thống
-
đốc đă lập luận, việc khởi sự các biện pháp vệ sinh tại các trung
tâm thành thị để tỉêu
-
diệt muồi, đào các kinh rạch phục vụ nông nghiệp và mở rộng các cộng
đồng làng xă và
-
các bang hội Hoa Kiều, tất cả đèu cần thiết để đặt địa điểm bất trị
này dưới sự kiểm soát
-
trọn vẹn.
77
-
Theo tôi, các hành động này không đặc biệt chống lại người Trung Hoa
hay phản
-
ảnh sự lo ngại về các ảnh hưởng của người Hoa trên văn hóa Việt Nam,
như các tác
-
giả khác đă kết luận.
78
Hai sự giải thích xem ra quan trọng. Trước hết, chính quyền
-
Pháp lo ngại một sự kết hợp của giới hải tặc truyền thống với quân
thổ phỉ, nh́n các hội
-
kín như một h́nh thức mới của sự tổ chức chống chính quyền và v́ thế
chống thực
-
dân. Đây là trường hợp người Triều Châu và các tổ chức liên hệ của
họ, các kẻ đă
-
hành động trong sự thông đồng với dân chúng bản xứ. Thứ nh́, các
biện pháp được
-
nhắm chống lại một sự kiềm giữ của người Hoa, đặc biệt người Phúc
Kiến, trên nền
-
19 | T r a n g
-
kinh tế. Le Myre de Vilers đă thừa kế từ các thống đốc tiền nhiệm
thuộc hải quân một
-
hệ thống thuế khóa được dựa trên các độc quyền nhà nước, được nhượng
lại cho các
-
sở hữu chủ các nông trại lănh trưng nạp thuế người Hoa; khu nông
trại lănh trưng thuốc
-
phiện không thôi đă đóng góp 20 phần trăm toàn thể ngân sách của
thuộc đia. Nếu định
-
mệnh của Pháp là phải phát triển các vùng thuộc địa sỡ hữu của ḿnh
tại Viễn Đông,
-
việc cung cấp ngân khỏan là điều cần thiết. Bởi v́ Paris sẽ không
cung cấp ngân
-
khỏan, vốn liếng đă phải được t́m kiếm tại địa phương. Điều này có
nghĩa gia tăng các
-
sắc thuế trên “các con ḅ sữa của Nam Kỳ”, người Hoa,
79
một sự khai triển khó được
-
đón tiếp với sự vui mừng bởi các thành phần liên can trong dân số.
80
Mở rộng khu vực
-
trồng lúa, và thay thế các nông trại lănh trưng nạp thuế do người
Trung Hoa điều hành
-
bằng các thị trường độc quyền của nhà nước (công ty công quản) trên
thuốc phiện và
-
rượu, là các câu trả lời của viên thống đốc cho các câu hỏi nóng
bỏng của thời điểm đó.
-
Các độc quyền nhà nước vẫn có thể được điều hành bởi các nhà thầu
phụ, nhưng
-
người Pháp biết rằng người Trung Hoa đă không cấu thành một khối độc
nhất. Ngừoi
-
Triều Châu là các kẻ thù không đội trời chung với người Phúc Kiến,
đặc biệt khi liên
-
quan đến sự kiểm soát mậu dịch lúa gạo, trong một sự thù hận có lẽ
phải quay trờ lùi lại
-
trước năm 1882, khi nhóm kể sau [Phúc Kiến] đă kiểm soát được hoạt
động thương mại
-
trong nông nghiệp như một lợi lộc phụ thuộc ngoài các thị trường
lĩnh trưng thuốc phiện.
-
81
Sự trấn áp các hội kín và sự kiểm sóat nghiêm ngặt trên sự nhập cảnh
cũng phải
-
được nh́n trong khung cảnh mở rộng này. Người Pháp mong gia tăng số
thu nhưng
-
cũng biểu thị rằng họ là các ông chủ.
82
-
Khi có liên can đến bản thân các hội kín, các hoạt động tôi phạm như
tống tiền và
-
cướp bóc có thể đan kết với các động lực chính trị, như trường hợp
kể sau của Thiên
-
Địa Hội tại xă Tân Quới (tỉnh Cần Thơ) cho thấy. Các tài liệu văn
khố cung cấp một cái
-
nh́n thấu triệt hiếm hoi vào cơ cấu và các phương pháp của tổ chức
này tại đây. Xă –
-
chợ này bao gồm chính yếu các nông dân và nhà mậu dịch lúa gạo Triều
Châu, cũng
-
như các nông dân Việt Nam. Trong tháng Sáu 1882, một nhân sĩ Việt
Nam, Phạm Văn
-
Vui, đă từ chối gia nhập Thiên Địa Hội và kế đó bị đe dọa giết chết.
Bản án được treo
-
công khai tại ngôi chùa làng, kư tên bởi “đội
vệ sĩ lănh binh”
[tiếng Việt trong nguyên
-
bản, được dịch sang tiếng Anh là captain, commander of the troops,
có phần sai nghĩa,
-
chú của người dịch]. Phạm Văn Vui yêu cầu sự trợ giúp của nhà chức
trách. Một nông
-
dân và nhà mậu dịch Triều Châu giàu có, Trần Ngăi, được giả định là
kẻ thành lập ra
-
Thiên Địa Hôi trong tỉnh. Ông ta sống tại thuộc đia đă mười năm, và
đă kết hôn với một
-
phụ nữ Việt Nam và có năm đứa con. Trần Ngăi sở hữu 100 mẫu tây đất
tại các tỉnh
-
Cần Thơ và Sóc Trăng, ba ngôi nhà, và hai thuyền chạy đường sông.
Một cuộc lục soát
-
cơ nghiệp của ông khám phá ra một ấn tín hội kín dấu trong đống gạo
gần giường năm
-
của một phu cu-li chuyên chở gạo đến Chợ Lớn và hay biết rằng người
anh (em) của kẻ
-
bị tố cáo, chủ nhân trước đây các thuyền chạy đường sông, đă đi về
Trung Hoa. Trần
-
Ngăi từ chối không hợp tác với các nhà chức trách, v́ thế sự trục
xuất tức thời ông đă
-
được ra lệnh cùng sự tịch thu toàn bộ gia sản của ông. Chỉ có vợ và
các con ông được
-
phép ở lại.
83
Dù thế, có vẻ nhiều nhất là nhà chức trách mới chỉ trục xuất một cai
đội,
-
chứ không phải một thủ lĩnh cao cấp của hội kín.
-
Trong năm 1904, các tài liệu cho thấy rằng cánh
Kèo Vàng
[Yellow Flag branch, sic]
-
của hội, đặc biệt vững mạnh trong người Triều Châu, muốn kiểm soát
mậu dịch lúa gạo
-
vùng Transbassac và thu nhận các hôi viên mới từ người Việt Nam. Tại
Trà Ôn (tỉnh
-
Cần Thơ), các nhà chức trách khám phá ra các ngừoi buôn lẻ gạo gốc
Triều Châu loan
-
truyền các tin đồn sai lạc từ làng này sang làng khác, nói rằng giá
gạo đă sụt giảm mạnh
-
mẽ bởi có sự chiến thắng của Nhật trên nước Nga. Hơn nữa, họ c̣n nói
thêm, rằng
-
người Nhật giờ đây tự do đến Nam Kỳ để đuổi thực dân Pháp đi. Sau
khi chiến thắng,
-
các hội viên Thiên Địa Hội sẽ được trao bằng khen, tước hiệu và của
cải, kể cả các đất
-
20 | T r a n g
-
đai sở hữu của người Pháp đă ra đi. Người Việt Nam thuộc mọi tầng
lớp đă đổ xô vào
-
tổ chức – một số v́ các lư do chính trị hay kinh tế, số khác, đặc
biệt các người giàu có
-
hơn, v́ sự sợ hăi. Gạo được bán với giá thấp một cách lố bịch, buộc
người dân nghèo
-
hơn phải mua gạo cho sự tỉêu dùng của chính họ sau khi đă bán số thu
hoạch của
-
ḿnh. Thành viên của các tầng lớp thấp nhất trong xă hội, các thành
phần cặn bă và
-
các tội phạm, cũng sử dụng cái dù che chở của hội để theo đuổi các
hoạt động phi
-
pháp. Như “các anh em kết nghĩa”, họ biết rằng các đồng chí của họ
sẽ không dám báo
-
cáo họ cho nhà chức trách, đặc biệt nếu các viên xă trưởng và các
nông dân giàu có là
-
các hội viên đồng hội.
84
Các nguồn tài liệu Pháp được tham khảo đến nay không nói
-
rằng tổ chức hay các thủ lĩnh của nó phải chịu trách nhiệm về các
hoạt động tôi phạm
-
nghiêm trọng như cướp của và thổ phỉ. Đứng hơn, một bức tường im
lặng trong tổ
-
chức ngăn cản người Pháp bắt giữ được các thủ lĩnh chủ chốt, những
kẻ được giả định
-
là trong số các thương nhân lúa gạo hàng đầu gốc Triều Châu có mạng
lưới và các sự
-
quan hệ có thể vươn tới tận Trung Hoa. Tuy nhiên, với sự tuyển mộ
nhiều đến thế từ
-
số người nghèo và các phần tử phản xă hội của nông thôn, khuynh
hướng nghiêng về
-
tội phạm không có ǵ đáng ngạc nhiên.
-
Sự lan truyền các hội kín trong dân Việt Nam tiếp tục cho đến lúc
bước sang thế kỷ
-
mới, và không chỉ ở các khu vực có mức độ cao của xâm nhập của người
Hoa giống
-
như vùng Transbassac. Theo các tài liệu văn khố, phần lớn nói về các
tỉnh miền đông
-
Nam Kỳ,
85
các tiến tŕnh cũng tương tự như t́nh trạng Transbassac được tŕnh
bày ở
-
trên. Các hội kín Việt Nam thường được thành lập bởi các cá nhân
xuất thân từ hàng
-
ngũ nông dân giàu có, t́m cách kiểm soát kinh tế hay xă hội. Họ ấn
định mức đóng góp
-
trên các thành viên tùy theo t́nh trạng cá biệt của mỗi người (từ ba
đến năm mươi đồng
-
Đông Dương mỗi năm), với các ngân khỏan được dùng để trang trải các
phí tổn pháp lư
-
hay nhu cầu của gia đ́nh các thành viên bị bắt giữ. Những người
không sẵn ḷng gia
-
nhập bị đe dọa trả thù, trong khi sự lo sợ đă ḱềm giữ nhiều nông
dân giàu có hay
-
“lương thiện” không đảm nhận các công việc hành chính chính thức,
như xă trưởng hay
-
hương hào, để ngỏ chúng cho các hội viên. Với giới lănh đạo làng xă
do thế ủng hộ họ,
-
các băng đảng hội kín mọc lên có thể hoạt động gần như không bị ngăn
trở bởi các
-
thẩm quyền địa phương, bởi không ai dám báo cáo chúng. Chính v́ vậy,
giữa ban ngày
-
sáng tỏ, các băng đảng đă xuất hiện tại các chợ ở Chợ Lớn trong năm
1905 để đ̣i tiền
-
bảo kê từ các nhà mậu dịch bị dọa nạt.
86
-
Tại tỉnh này, như tại tỉnh Biên Ḥa trong năm 1906, nơi mà một hội
kín Việt Nam đă
-
khủng bố các làng dọc theo đường xe hỏa đến Phan Thiết, các thành
viên hội kín Trung
-
Hoa đă hành động như các sư phụ của người Việt Nam. Các thành viên
hội kín có địa
-
vị xă hội xuất hiện trong làng, với bốn hay năm đồng đảng tháp tùng,
đến “mời” các
-
nông dân giàu có hơn thành lập một tổ, với sự đe dọa tử h́nh hay đốt
cháy ngồi nhà
-
của họ để cổ vũ các kẻ c̣n ngần ngại. Khi vào khoảng năm mươi người
đă được
-
khuyến dụ gia nhập, lúc đó họ được quy tụ cho buổi lễ gia nhập,
thường được tổ chức
-
vào buổi tối tại một ngôi đền hay chùa trong làng. Các kẻ gia nhập
cắt máu ăn thề
-
[(thích
huyết)
[sic], tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], và sau đó
một văn
-
thức của hội đă được đọc to trên xác một con gà đen: {“Bất kỳ ai
phản bội anh em ḿnh
-
sẽ bị chặt đầu như con vật này”.
87
Vị chủ tế các nghi lễ này thường là người Hoa — tại
-
Biên Ḥa là người Hẹ -- có kẻ rất thuộc ḷng các nghi lễ.
88
-
Tại chi hội Biên Ḥa của Thiên Địa Hội, ba trong bốn thủ lĩnh, được
gọi là “Tứ
Đại”
-
[tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], là người Hẹ, và
một là người Việt
-
Nam. Bên dưới họ là “Bách Xin” hay “Tiên”,
một thân hào Việt Nam trong xă, vài thầy
-
làm lễ, một phán quan ḥa giải, và một thủ quỹ. Sau cùng có một nhóm
đồng đảng và
-
chấp pháp, được gọi là
Ngũ Hổ,
các người chịu trách nhiệm về việc tuyển mộ các hội
-
21 | T r a n g
-
viên mới. Các nông dân giàu có thường chỉ có thể được miễn trừ với
khoản đóng bằng
-
tiền mặt, trong khi các hội viên thông thường được tổ chức thành ba
đội quân: cờ đen,
-
cờ đỏ, và cờ vàng. Mọi thành viên đều có cấp bực của riêng ḿnh, từ
cấp đại tá và đại
-
úy xuống các trung sĩ và tân binh trơn. Vào buổi tối, hội tổ chức
các phiên họp mặt
-
trong các làng, nơi mà các hội viên được huấn luyện vơ thuật. Như
kết quả của hoạt
-
động hội kín này, cả một phong trào phản kháng hoàn toàn mới mọc lên
một cách âm
-
thầm và lan tràn như một ngọn lửa hoang. Trong một vài tháng, các
nhà chức trách
-
Pháp đă không thể bắt giữ các nghi can, bởi họ gặp phải một sự im
lặng toàn diện tại
-
các làng liên hệ. Nếu các nhà hành chính có thể tuyên bố một cách
hănh diện trong một
-
bản báo cáo hàng tháng rằng các quản hạt thẩm quyền của họ tuyệt đối
yên tĩnh, một
-
tháng sau một tội phạm, một vụ cướp hay tấn công mới không được giải
quyết sẽ làm
-
hoen ố tài liệu của họ. Khi các đơn vị quân sự Pháp và Việt Nam quay
về tay không sau
-
cuộc trinh sát của họ, điều này đă làm gia tăng một cách vĩ đại uy
tín của các hội kín.
-
Không lâu, toàn thể các xă đều dính líu vào.
89
-
Sau cùng, các bức thư nặc danh đă đánh thức các sự nghi ngờ của nhà
chức trách
-
tỉnh và đă phối hợp các sự bắt giữ và lục soát để khám phá bằng
chứng về các hoạt
-
động của hội kín. Chỉ sau khi có điều này, khi các cai tổng và xă
trưởng và các nông
-
dân giàu có cảm thấy được bảo vệ đầy đủ bởi các nhà chức tranh, các
làng xă đă
-
kháng cự lại các đ̣i hỏi của các hội kín và chính v́ thế khiến chúng
có thể trở thành
-
mục tiêu của sự độc ác cùng cực. Tại Biên Ḥa trong năm 1906, người
Pháp đă bắt giữ
-
hon một trăm thành viên băng đảng hội kín , chin mươi tám người
trong họ bị tuyên án
-
tù từ bốn ngày đến bốn năm. Các chính phạm tung ra sự kháng cáo, chỉ
thấy rằng bản
-
ăn của họ bị tăng án gấp đôi.
90
-
Vấn đề các hội kín Trung Hoa và Việt Nam và sự đe dọa chính trị tiềm
ẩn , đặc biệt
-
của người Việt Nam, vẫn c̣n làm bận tâm ca;’c nhà chức trách cho đến
lúc các năm
-
khởi đầu của thập niên 1920.
91
Tuy nhiên, các nơi ẩn trốn của họ tại Châu Thổ sông
-
Cửu Long và dọc theo bờ biển giờ đây phần lớn bị đặt dưới sự canh
gác, sao cho sự
-
truy nă thành công các kẻ ngoài ṿng pháp luật là điều khả thi, ít
nhất trên mặt lư
-
thuyết. Đối với nhà chức trách, một khi đă hay biết vấn đề, việc gây
bận tâm nhất là tạo
-
lập một hệ thống công phu để kiểm soát và canh chừng bí mật nhằm bắt
kịp các sự phát
-
triển mới và nhằm bóp chết các hành động phi pháp từ trong trứng
nước. Hậu quả
-
trong nhiều năm số lượng các báo cáo về các hoạt động như thế bắt
đầu gia tăng, từ số
-
lương bắt đầu nhỏ lúc đầu thập niên 1880 và sau này trong thập niên
1890 tại vùng
-
Transbassac. Vào khoảng thập niên 1900, các báo cáo về các hoạt động
như thế xuất
-
hiện cho Biên Ḥa và sau đó, vào đầu thập niên 1910, dọc theo biên
giới Nam Kỳ - Căm
-
Bốt, cho thấy không có nhiều dấu hiệu của t́nh trạng phạm pháp gay
gắt mà đúng hơn
-
là sự cảnh giác và hoạt động cảnh sát được nâng cao. Như thế, nếu
hoạt động thổ phỉ
-
vẫn tiếp tục nơi đây đó, nó dần dà được đối phó với nhiều sự hữu
hiệu hơn, khi mà
-
quân cướp và các kẻ phạm pháp bị bắt giữ và mang ra xét xử. Cũng
vậy, vào lúc bước
-
sang thế kỷ thứ hai mươi, các nhà chức trách đă xiết chặt sự kiềm
chế của họ tại các
-
khu vực dân thiểu số ở cao nguyên, bởi trên nguyên tắc, không có chỗ
nào nằm ngoài
-
sự kiểm soát của chính quyền. Phụ lực vào kết quả này, từ cuối thập
niên 1910, nhiều
-
phần của cao nguyên cũng dần trở nên ḥa nhập hơn vào nền kinh tế
thuộc dịa.
-
Tuy nhiên, khởi đầu với cuộc cách mạng Trung Hoa năm 1911, một đe
dọa mới hiện
-
ra nơi góc nhà – chủ nghĩa dân tộc hiện đại. Được phổ biiến bởi một
tầng lớp trí thức
-
hay “bán trí thức” (semi-intellectuals) [?] được huấn luyên theo tây
phương và trẻ trung,
-
như các thẩm quyền Pháp thường nh́n họ, họ đă tuyển mộ các người ủng
hộ từ thường
-
dân, đặc biệt trong giới công nhân thành phố và người nghèo ở nông
thôn. Trấn áp các
-
đe dọa chính trị mới này, và không liên đới ǵ đến nạn thổ phỉ hay
nổi loạn cổ truyền, đă
-
22 | T r a n g
-
trở thành mục tiêu chính của công tác cảnh sát của thực dân trong
các thập kỷ kế tiếp.
-
Một “phong trào Á Châu Quốc Tế” có thực giờ đây đang được cấu tạo từ
khoảng 1920,
-
nhưng vẫn c̣n cần thời gian để thành h́nh.
-
Như đựoc nêu ra ở trên, các lư do của nạn thổ phỉ và hải tặc tại
vùng Transbassac và
-
dọc theo bờ biển hải hành Việt Nam – Căm Bốt không liên quan đến
tính đặc thù về
-
chủng tộc mà là một sự đáp ứng với nhiều lớp các yếu tố địa - chiến
lược truyền thống
-
đặc trưng cho khu vực này, và đă tạo ra các cơ sở “khách quan” cho
các hoạt động như
-
thế. Các khu vực rộng lớn của vùng Transbassac và khu duyên hải nối
dài của nó chưa
-
được phát triển, nhưng dễ tiếp cận xuyên qua một mạng lưới chằng
chịt các thủy lộ khó
-
mà kiểm soát và là nơi mà các chỗ ẩn trốn hay phục kích có thể được
tổ chức một cách
-
dễ dàng. Hơn nữa, liên quan đến hải tặc Trung Hoa, đă có sự gần cận
của Căm Bốt,
-
Xiêm La và các ḥn đảo hải tặc cổ xưa trong Vịnh Xiêm La.
-
Như các nguồn tài liệu về một vài tỉnh ở Nam Kỳ cho thấy, trong khi
các thành viên
-
của một băng đảng có thể là các nông dân nghèo, đói, và thất học,
các thủ lĩnh không
-
phải như vây. Họ không nhất thiết thuộc vào các tầng lớp cai trị
truyền thống và giàu có
-
đă đuợc thiết định của xă hội nông thôn, bởi các thành viên dân
chúng như thế sẽ có
-
khuynh hương tự xếp hàng với quyền lực chính thức và chỉ gia nhập
một đoàn thể
-
phạm pháp v́ sợ hăi. Các thủ lĩnh của các băng đảng tôi phạm và các
hội kín, như các
-
thí dụ từ Sóc Trăng và Biên Ḥa cho thấy, nhiều phần là các kẻ mới
gia nhập mạng lưới
-
xă hội đă được thiết định vào một tầng lớp xă hội mới sắp sửa xuất
hiện tại một vùng
-
đất mới. Họ tạo ra uy tín riêng của ḿnh và một sự phục tùng xuyên
qua sự kính trọng
-
và một sự chăm sóc có tính cách gia trưởng dành cho các thành viên
đệ tử. Với sự trợ
-
lực của các đệ tử, các thủ lĩnh này đă sử dụng sự dọa nạt và lo sợ
hầu kiểm soát các
-
khu vực nông thôn về mặt kinh tế và chính trị. Các binh sĩ và các
thủy thủ giải ngũ trở
-
về các làng xă sinh quán của họ đă là các khí cụ lư tưởng, như các
kẻ cầm đầu các
-
băng đảng vũ trang, “lính-thổ phỉ”, và như các luồng chuyển tải các
ảnh hưởng ngoại
-
lai. Như các thí dụ từ các tỉnh Sóc Trăng và Biên Ḥa cho thấy, các
kẻ cầm đầu băng
-
đảng đặc biệt không được ngưỡng mộ hay yêu mến bởi dân chúng, nhưng
được nể
-
trọng v́ sợ hăi và v́ không có sự lựa chọn nào khác. Nơi mà sự kiểm
soát thấp, yếu,
-
hay không liên tục, các nhà hành chính bản xứ hay các nhà lănh đạo
cộng đồng địa
-
phương có khuynh hướng nhượng bộ, dung chứa hay cộng tác với các tổ
chức bất hợp
-
pháp này: kêu gọi sự can thiệp của nhà nước bị xem, trên hết, là
bằng chứng của sự
-
bất lực của chính họ, và bị nh́n như gây rắc rối và không hữu hiệu
bởi cộng đồng và bởi
-
chính các nhà lănh đạo cộng đồng ở đia phương. Chỉ khi nhà nước vận
dụng sự kiểm
-
soát hữu hiệu của nó trên lănh thổ tạm thời bị mất (hay mới), khi đó
nạn thổ phỉ mới có
-
thể được giải quyết tận gốc rễ qua việc triệt hạ bức tường im lặng
đă bao quanh và bảo
-
vệ nó.
94
-
Nếu cách khía cạnh phong tục địa phương, lịch sử chính trị, và đia
h́nh đều góp
-
phần vào việc lôi kéo các cá nhân bất măn vào các hoạt động bên lề`
xă hội hay bất hợp
-
pháp hoàn toàn hồi cuối thế kỷ thứ mười chin và đầu thế kỷ thứ hai
mươi, một yếu tố
-
thu hút khác cũng cần phải được nh́n nhận trong bất kỳ sự tường
thuật nào về sự gia
-
tăng các hoạt động phi pháp tại khu vực này. Đây là sự phát triển
kinh tế gia tăng của
-
miền, đặc biệt của vùng Transbassac. Số lượng và tần số các sự vận
tải lúa gạo xuyên
-
qua các kinh đào và sông ng̣i của nó tăng cao một cách liên tục,
trong khi một tầng lớp
-
giàu có của các phú nông Việt Nam và Trung Hoa, các thân hào nhân sĩ
ở làng xă, các
-
nhà mậu dịch, và các thương nhân xuất hiện, tất cả họ hoặc đă chở
gạo, trâu ḅ, tiền và
-
vật quư giá trên thuyền của họ, hay cất giữ chúng tại nhà của hpọ.
Nếu sự di dân của
-
ngừoi Trung Hoa và Việt Nam vào vùng Transbassac đă tạo ra các khả
tính cho các
-
nông dân không đất cầy tự cải thiện xuyên qua việc khai khẩn đất mới
– với phí tổn của
-
23 | T r a n g
-
chính họ hay, với nhiều xác xuất hơn, như các nông dân tá điền của
một chủ nhân khu
-
đặc nhượng – các thành phần bên lề xă hội hay bị truất hữu và các kẻ
bị khai trừ khỏi
-
các nhóm chủng tộc chính sinh sống tại đó, người Việt, Trung Hoa hay
Khmer và các
-
người lai giống, cũng t́m kiếm nơi nương náu và, ít nhất trong một
lúc nào đó, cơ hội để
-
kiếm sống bằng các phương cách phi pháp.
95
-
Lời
Kết: Một Vài Suy Tưởng Về Các Hoạt Động Phi Pháp
-
Vào Lúc Chấm
Dứt Thời Thuộc Địa.
-
Cánh Đồng Sậy [Plain of Reeds: Đông Tháp Mười], cho đến biến giới
Việt Nam –
-
Căm Bốt và từ đó vào miền đông Căm Bốt, quận G̣ Quao trong vùng
Transbassac
-
thuộc tỉnh Rạch Giá, phần sâu bên trong Sóc Trăng, vùng Thất Sơn tại
Châu Đốc, các
-
núi đồi hướng đông bắc Sàig̣n hay biên giới Việt Nam – Căm Bốt – tất
cả các địa danh
-
này và nhiều địa danh tương tự khác nghe rất quen thuộc với một
người nghiên cứu
-
nạn thổ phỉ, hải tặc, các cuộc nổi dậy, và các phong trào chống
chính trị trong suốt thế
-
kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi. Trong những giai đoạn
có sự kiểm soát
-
của chính quyền bị suy yếu, chúng gần như tức thời lại trở thành các
điểm nóng. Các
-
nơi trú ẩn của thổ phỉ và các kẻ ngoài ṿng pháp luật này sau đó
cũng sẽ đóng các vai
-
tṛ tương tự như trong thời chiến tranh giải thực [decolonization)
có vũ trang, bắt đầu
-
vào năm 1940 với cuộc nổi dậy tại Nam Kỳ bị thất bại của Đảng Công
Sản Đông Dương
-
(ICP: Indochinese Commusnist Party). Tuy nhiên, đă có sự khác biệt
quan trọng giữa
-
thời kỳ tiền 1920 với giai đọan sau đó. Trong thời kỳ tiền 1920, khó
phân biệt được hoạt
-
động thương mại phi pháp hoàn toàn khỏi các hoạt động chống thực dân
hay chính trị,
-
bởi chúng đan kết vào nhau. Thổ phỉ hay hải tặc cổ truyền có thể
mang một ư nghĩa
-
chính trị hay các hoạt động chính trị thoái hóa thành ra chỉ có tính
chất tội phạm, như
-
phần tường thuật về hội kín ở Biên Ḥa đă cho thấy.
-
Các phong trào mới sau năm 1920 – như Trung Hoa Quốc Dân Đảng, mạnh
nhất ở
-
miền nam Việt Nam,
96
Việt Nam Quốc Dân Đảng, hầu như chỉ tập trung trong số các di
-
dân từ mien bắc tại Nam Kỳ, nhiều giáo phái tôn giáo – chính trị
khác nhau của miền
-
nam, và đảng Cộng sản Đông Dương, và các nhóm khác – vẫn tuyển mộ
các thành viên
-
từ các thành phần cặn bă của xă hội hay đă sử dụng các móc nối mờ ám
của các nhà
-
mậu dịch, quân thổ phỉ hay các tội phạm khác. Các thành viên bị giải
tán của các băng
-
đảng trước đây có thể trở thành các đệ tử của các tổ chức chính trị
hay tôn giáo cứu đời
-
sau này, bởi sự hiểu biết về địa phương và mạng lưới của họ là một
di sản quư báu.
-
Các phương thức phạm tội như tống tiền hay bắt giữ người giàu có đ̣i
chuộc tiền cũng
-
đă được áp dụng bởi các phong trào tôn giáo hay chính trị. Tuy
nhiên, nếu các phong
-
trào hiện đại muốn thành công ngoài khuôn khổ nguyên thủy được xác
định rơ ràng và
-
dành được sự hấp dẫn ṭan quốc, chúng phải giữ vững các mục tiêu
tích cực và lư
-
tưởng hơn là về thương mại. Trong khía cạnh này, đang Cộng Sản Đông
Dương được
-
chứng tỏ là tinh ranh hơn các đối thủ tôn giáo và chính trị của nó.
Các tội phạm đă phải
-
bị kỷ luật và từ bỏ các cách thức cũ, đặc biệt đối với thường dân,
môi trường “nước” giả
-
định nuôi sống “cá” du kích.
-
Sau khi Thế Chiến II bắt đầu tại Âu Châu, các sự xáo trộn nổ ra tại
Nam Kỳ. Sự thất
-
trận của Pháp ở Âu Châu có nghĩa là chính quyền thực dân địa phương
“bị mất mặt”.
-
Các tin đồn lan rộng ở thôn quê về một phong trào nổi dậy mới, tương
tự như phong
-
trào nổi dậy cứu đời của Phan Xích Long năm 1913, trong khi nạn hải
tặc và thổ phỉ lại
-
nổi lên tại khắp các sào huyệt cũ trong vùng Transbassac, như Tri
Tôn (Châu Đốc),
-
Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng trong vùng
Transbassac, và
-
cũng tại Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre tại vùng Cisbassac
kề bên. Trong một
-
số trường hợp, nó c̣n vươn tới các khu vực bao quanh Sàig̣n, chẳng
hạn như G̣
-
24 | T r a n g
-
Vấp. Các băng đảng tội phạm, như nhóm đă quấy phá Châu Đốc và Prey
Veng, lan
-
tràn ở cả hai bên của biên giới Việt Nam – Căm Bốt. Như trong các
thời kỳ trước đây,
-
các cá nhân ngừi Pháp không bị tấn công. Các mục tiêu được ưa thích
là nhà của các
-
nông dân Việt Nam giàu có và các thuyền của các nhà mậu dịch Trung
Hoa. Như trước
-
đây, mọi nhóm chủng tộc chính đều có mặt trong các băng đảng này:
Việt Nam, Trung
-
Hoa, Khmer và Minh Hương. Các băng đảng vũ trang từ năm đến mười
người di
-
chuyển thoải mái trên các chiếc thuyền và xuồng của họ, và giống như
trong quá khứ,
-
cảnh sát và các nhà hành cvhính Pháp đối diện với các khó khăn trong
việc bắt giữ các
-
kẻ phạm tội bởi v́ các người canh chừng ở dịa phương, các thân hào
nhân sĩ trong
-
làng, và các người cầm đầu bang hội không dám báo cáo chúng,
97
lo sợ sự trả thù của
-
chúng khi ngôi sao thực dân có vẻ tàn lụi.
-
Trong các thập niên đầu tiên của chế độ thực dân Pháp vào cuối thế
kỷ thứ mười
-
chin, quân nổi dậy chống Pháp đă tụ tập tại Đồng Tháp Mừoi. Trong
cuộc đàn áp tiếp
-
sau vuộc nổi đậy bị thất bại của cộng sản Nam Kỳ năm 1940, vài nhóm
quân nổi lọan đă
-
chạy trốn vào các đầm lầy của Đồng Tháp Mười, cũng như hơi hướng lên
phía bắc đến
-
Svay Rieng tại miền đông Căm Bốt. Tại Đồng Tháp Mười, quân nổi dậy
đă trú ẩn cùng
-
với băng đảng của Phan Văn Kư, tự Mười Kư. Băng đảng thổ phí này đă
khống chế khu
-
vực từ năm 1925 đến 1937. Bất kể tên cầm đầu đă bị bắt giữ về tội
trộm trong bẩy lần,
-
anh ta luôn luôn được tha bổng v́ thiếu bằng cớ. Quân nổi loạn cộng
sản cũng hưởng
-
lợi điểm nhờ khí hậu: mưa nặng có nghĩa các cuộc lục soát của Pháp
v́ đ́nh hoăn trong
-
vài tháng,
98
giúp họ né tránh được các kẻ truy kích.
-
Ngay sau khi xảy ra cuộc Cách mạng Tháng tám 1945, các thủ lĩnh cộng
sản miền
-
nam, chưa có một lực lượng quân sự của riêng ḿnh, đă phải dựa,
trong nhiều nhóm,
-
vào nhóm B́nh Xuyên, một băng đảng chính trị và tội phạm, là các kẻ,
nhờ ở các hoạt
-
động lâu dài tại đó, hiểu biết khu vực Sàig̣n – Chợ Lớn và khu vực
ngoại biên của nó
-
rất rơ.
99
Mô thức này đă được lập lại trong giai đoạn giữa năm 1956 và cuộc
tổng nổi
-
dậy năm 1959.
100
-
Từ cuối năm 1946 đến cuối năm 1948, bộ chỉ huy của Việt Minh miền
nam được đặt
-
tại giữa Đồng Tháp Mựi (Long An ngày nay). Sau hết, vào cuối năm
1948 sự cập bến
-
của các xe bọc thép thủy bộ của Pháp, có thể xâm nhập cánh Đồng
trong mùa khô, đă
-
đuổi giới lănh đạo Việt Minh đến một nơi ẩn náu mới trong rừng tràm
tại Rạch Giá – Cà
-
Mau. Né tránh các thủy lộ chính, được canh gác cẩn thận bởi người
Pháp, họ đă đi bộ
-
qua miền đông nam Căm Bốt nơi mà các khu vực rộng lớn đă sẵn nằm
dưới sự kiểm
-
soát của các lực lượng Khmer Issarak vốn được thành lập bởi Việt
Minh. Từ Căm Bốt,
-
các thủ lĩnh [cộng sản] miền nam đă băng ngang tới khu Thất Sơn
thuộc Tri Tôn (Châu
-
Đốc).
101
-
Trong Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất (1945-1954), phần nội
địa của
-
vài tỉnh vùng Transbassac một lần nữa được dùng làm các nơi ẩn trú
an toàn cho quân
-
cộng sản, và cũng cho các lực lượng chống chế độ khác trước tiên đă
chiến đấu bên
-
cạnh Việt Minh, như giáo phái Cao Đài tại Tây Ninh hay dân quân Ḥa
Hảo tại Long
-
Xuyên, nhưng sau này quay lại chống lại cộng sản. Giống như thời
trước đây, một hoạt
-
động mậu dịch thuyền buồm phát triển đă lợi dụng các thủy lộ nhiều
lỗ hổng của vùng
-
Transbassac để buôn lậu vũ khí, thuốc men, và các vật dụng quân sự
khác từ miền nam
-
Trung Hoa xuyên qua Phi Luật Tân, hay từ Xiêm La và Mă Lai. Được
chuyển vận đến
-
“Các Khu Giải Phóng” Việt Minh , đặc biệt tại miền tây Nam Kỳ, các
hàng hóa thiết yếu
-
này đă được đổi lấy gạo, hạt tiêu, lông vịt, da dê, và sản vật nông
nghiệp. Cùng với một
-
vài thuyền trưởng thuyền buồm Thái-Việt Nam, các chủ nhân thuyền
buồm Triều Châu
-
và các thủy thủ nói tiếng Hải Nam đă phục vụ như các kẻ trung gian
giữa bên cung cấp
-
và khách hàng tiêu thụ. Tại các khu vực do Việt Minh kiểm soát,
người Hoa địa
-
25 | T r a n g
-
phương, hay con cháu lai Hoa-Việt hay Hoa-Khmer của họ, đă góp sức
thành lập các
-
chợ và các tổ hợp mậu dịch để tạo sự thuận lợi cho hoạt động thương
mại. Cũng giống
-
như trong quá khứ, Bangkok và Chantaburi tại Thái Lan, và các đảo
Koh Kong ngoài
-
khơi Căm Bốt và đảo Phú Quốc đối diện với Rạch Giá, đă được dùng làm
các trạm
-
thông quá và các kho hàng tạm thời cho hoạt động mậu dịch phi pháp
này của doanh
-
nhân và phụ nữ Trung Hoa, Hoa-Thái, và Hoa-Khmer. Hạt tiêu của
Kampot được t́m
-
mua bởi cả người Pháp lẫn Việt Minh. Các tướng lănh và chính trị gia
Thái Lan và Phi
-
Luật Tân, hay gia đ́nh của họ, hoạt động như các đại lư và các kẻ
bảo vệ của mạng lưới
-
mậu dịch Việt Minh tại Căm Bốt, Bangkok và Manila. Các móc nối của
Trung Hoa và
-
Việt Minh tại Đông Nám Á, về phần họ, cũng đă có thể khai thác các
quan hệ gần gũi
-
của họ với thân nhân tại Sàig̣n – Chợ Lớn là các kẻ, kế đó, giúp vào
việc tổ chức các
-
mạng lưới mậu dịch của Việt Minh xâm nhập sâu vào trong các khu vực
do Pháp kiểm
-
soát tại Đông Dương.
102
-
Mậu dịch phi pháp và gián tiếp này đă phát triển đến nỗi nó đă buộc
cả hai đối thủ
-
chính yếu trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất phải thay
đổi các chính
-
sách kinh tế của ḿnh. Việt Minh đă phải chấp nhận các thực thể kinh
tế và giữ tiền
-
đồng Đông Dương thuộc Pháp, cho các sự giao dịch với thế giới bên
ngoài, kể cả các
-
khu vực do Pháp kiểm soát, và ngay cả các phần thuộc các khu đă giải
phóng của chính
-
họ. Các thực thể địa phương đă buộc cộng sản phải sửa đổi hay ngay
cả việc tái duyệt
-
phần lớn các chính sách của họ vốn được bắt nguồn từ lâu tại các Khu
Giải Phóng
-
Trung Hoa và sau đó được áp dụng cho các khu vực họ kiểm soát tại
miền bắc và trung
-
Việt Nam. Các chính sách này phát huy chínmh sách tự túc, tự cấp, sự
khắc khổ, và
-
một sự biến thể kinh tế của cộng sản. Tuy nhiên, tại miền nam, doanh
nghiệp và mậu
-
dịch tư nhân trên đó sự sống c̣n của Việt Minh phần nào dựa vào phải
được chấp nhận
-
như một thực tế. Về phần ḿnh, trong năm 1952 các thẩm quyền Pháp,
đối diện với
-
thực tế không chót lọt mà, trước tiên, không hoạt động khi nó mở
rộng cửa cho việc
-
buôn lậu, và thứ nh́, nó đă tác động quá mạnh mẽ trên các kẻ ủng hộ
của chính họ và
-
trên các khu vực do Pháp kiểm soát thuộc vùng Transbassac.
103
-
Trong thời cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950 sau đó, và bất
kể thời tiết hành
-
chính và chính trị đă thay đổi, bờ biển mở cửa và màng lưới chằng
chịt của các thủy lộ
-
Nam Kỳ tiếp tục cung ứng một không gian quyến rũ trong đó việc buôn
lậu, chống chế
-
độ, và các hoạt động phi pháp khác có thể nẩy nở, giống y như các
thời điểm khác trong
-
thế kỷ trước. Và giống như trong quá khứ, người Trung Hoa, và các
hậu duệ Hoa-Việt
-
và Hoa-Khmer địa phương của họ, đă có thể khai thác các sự tiếp xúc
của họ khắp biển
-
Nam Hải để duy tŕ một nền kinh tế chợ đen phát tài./-
-
CHÚ THÍCH:
-
1. Đây là bản đă tu chỉnh của một tham luận được tŕnh bày tại kỳ
hội thảo về Ranh Giới
-
Trên Sông Biển Lần Thứ Nh́, tại Phuket, Thái Lan, 18-19 Tháng Hai,
2006. Tác giả đă
-
thu lượm được rất nhiều từ các nhận xét phê b́nh từ Nola Cooke và
hai vị duyệt xét ẩn
-
danh. Các ư kiến và tư tưởng tŕnh bày trong bài viết này là của
chính tác giả.
-
2. Một thí dụ soi sáng là sự phức tạp toàn diện trong mậu dịch phi
pháp và nạn hải tặc
-
của Nhật Bản và Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh. Xem Kwan-wai So,
Japanese
-
Piracy in Ming China during the 16th
century,
Ann Arbor: Michigan State University
-
Press, 1975. Đặc biệt về Hải Nam, xem, Feray M., “Les
Japonais à Hai-nan sous la
-
dynastie des Ming (1368-1628)”,
T’ung Pao, Série II, Vol. VII, 1906, các trang 369-379.
-
26 | T r a n g
-
3. Đề tài này đă được thảo luận sâu và rộng bởi Giacometti,
Jean-Dominique trong tập
-
“La question de l’autonomie de l’Indochine et les milieu coloniaux
francais 1915-1928”,
-
Aix/Marseille: Université de Provence. Luận án tiến sĩ Đệ tam cấp,
1996. Về vấn đề
-
tiền tệ, xem Giacometti, Jean-Dominique, La Bataille de la Piastre.
Réalités
-
économiques et perceptions politiques dans l’Empire colonial
Francais. Berlin:
-
Humboldt-Universitat zu Berlin, SUDOSTASIEN Working Paper Nr. 9,
1998.
-
4. Xem định nghĩa, xem Hobsbawn, E. J. Primitive Rebels.
Studies in Archaic Forms of
-
Social Movement in the nineteenth and twentieth Centuries.
Manchester: Manchester
-
University Press, 1971 (in lại với lời tựa mới và các sự tu chỉnh
nhỏ), trang 5-6.
-
5. Sự thảo luận từ thập niên 1950 cho đến thập niên 1990 đă được
theo dơi cặn kẽ bởi
-
Dian Murray trong quyển
The Origins of the Tiandihu.
Stanford, California: Stanford
-
University Press: 1994, các trang 103-15.
-
6.
Cùng nơi dẫn trên.
-
7. Voyage au Tonkin en 1688 (suite et fin)”,
Revue Indochinoise
13 (1910) 14, các trang
-
323-334.
-
8. Xem
Đại Nam Thực Lục Chính Biên
(Dynastic veritable records, Gia Long reign), Tập
-
II, Hà Nôi: NXB Sử học, 1963, trang 133. Phần in nghiêng là của tác
giả.
-
9. Tác giả đă thảo luận đề tài này một cách sâu rộng trong chương
đầu tiên trong quyể
-
sách của ḿnh:
Die chinesische Mindeheit im Suden Vietnams (Hoa) als Paradigma der
-
kolonialenund nationalistischen Nationalitatenpolitik.
[The Chinese Minority in Southern
-
Vietnam (Hoa) as a paradigm of colonial and nationalist ethnic
politics]. Frankfurt am
-
Main/Bern: Peter Lang, 2002, các trang 31-136.
-
10. Muốn có một sự tŕnh bày ban sơ về sự h́nh thành của chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam
-
tại Nam Kỳ hồi cuối thập niên 1920, và về việc nh́n Trung Hoa như
một mẫu mực bởi
-
lớp người Việt Nam có học và giới b́nh dân, xem Werth, Léon,
La Cochinchine
-
(voyage), Présentation de Jean Lacouture.
Paris: Vivian Hamy, 1997. Các cuộc nghiên
-
cấu thâm sâu về đề tài này th́ quá nhiều để liệt kê ra hết, nhưng
bao gồm ba tác phẩm
-
chính của David Marr cùng các tác phẩm của Georges Boudarel, Pierre
Berocheux,
-
Philippe Devillers, William Duiker, Charles Fourniau, Daniel Hémery,
Huệ tâm Ho6` Tài,
-
Huỳnh Kim Khánh, và Paul Mus.
-
11.Về vấn đề nạn hải tặc tại Trung Hoa và Việt nam trong khoảng cuối
thế kỷ thứ mười
-
tám và đầu thế kỷ thứ mười chin, xem Murray,
Pirates of the South China Coast, rải rác.
-
12. Seagrave, Sterling,
The Soong Dynasty.
New York: Harper and Row, 1985, các
-
trang 18-20.
-
13. Labrusse, Serge.
Politique du cabotage en Indochine.
Saigon: Imprimerie
-
Francaise d’Outre-Mer 1950, p. 63.
-
14. M. Périgand, Réceveur des Douanes et Régies at Cát Bà to the
Résident at Quảng
-
Yên, 16 juin 1912. Trong National Archives of Vietnam No. I (từ giờ
trở đi, gọi tắt là: QG
-
I), RST (Résidence Supérieure du Tonkin) 01376.
-
15. Li Tana gọi miền này là “biên giới trên nưóc: water frontier”
của Trung Hoa tại Đông
-
Nam Á. Xem “”The Water Frontier, An Introduction”, trong quyển
Water Frontier:
-
Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750 – 1880,
biên tập bởi
-
Nola Cooke và Li tana, Boulder, Col.: Rowman and Littlefield, 2004,
các trang 1-17.
-
27 | T r a n g
-
16. Về các danh xưng khác nhau và ư nghĩa của chúng trong lịch sử,
xem Brocheux,
-
Pierre.
The Mekong Delta Economy, Ecology and Revolution.
Madison: University of
-
Wisconsin – Madison, Center for Southeast Asian Studies, 1995, các
trang 1-17.
-
17. Các nguồn tài liệu văn khố chính là từ Archives d’Outre Mer ở
Aix-en-Provence (từ
-
giờ trở đi gọi tắt là AOM), Văn Khố Quốc Gia I và II (QG I hay QG
II) và Văn Khố Quốc
-
Gia Căm Bốt (ANC)
-
18. Người Pháp bắt chước lối dùng chữ này theo Đế Quốc la Mă, theo
đó các bộ tộc
-
Gallic được chia thành các khu vực địa lư gọi là vùng “Trước Khi Đến
Rặng Núi Alps”
-
(Cisalpine)
và “Vượt Quá Rặng Núi Alps” (Transalpine).
Tôi xin cám ơn tác giả Nola
-
Cooke về sự giải thích này. Mặc dù có nguồn gốc thực dân, thuật ngữ
này không được
-
tôn trọng cứng ngắc trong tất cả văn học thực dân.
-
19.
Bassac
là danh xưng bằng tiếng Khmer. Ngừoi Pháp cũng gọi nó là
Fleuve
-
postérieur (Con sông đằng sau).
Danh xưng cho một nhánh khác của Sông Cửu Long
-
là
Grand Fleuve [Sông Lớn]
(từ tiếng Khmer
Tonlé Thom)
hay
Fleuve antérieur (Con
-
Sông Đằng Trước)
(từ tiếng Việt là
Tiền Giang).
-
20. Bouault, J.
Géographie de l’Indochine,
P. III: La Cochinchine. Hanoi/Haiphong:
-
Imprimerie d’Extrême-Orient, 1927, các trang 2-5.
-
21. Danh từ gọi chung, Tràm (mangrove), không chỉ một nhóm phân loại
thảo mộc
-
nhưng là một nhóm tổng hợp bởi sinh thái chung và sự thích ứng để
tăng trương tại các
-
môi trường nước mặn. Muốn biết thêm chi tiết, xem Sterling, Eleanor
Jane / Hurley,
-
Martha Maud/ Lê Đức Minh.
Vietnam: A Natural History.
New Haven and London: Yale
-
University Press, 2006: 91-95.
-
22. Cùng nơi dẫn trên. Về một sự mô tả hồi thế kỷ thứ mười chin về
khu vực này, xem
-
Brière, “Rapport sur la circonscription de Ca-mau”,
Excursions et Reconnaissances.
Vol.
-
1, 1879, các trang 5-25.
-
23.
Monographie de la province de My Tho.
Saigon: Imprimerie L. Menard, 1924, tr 7.
-
24. Nola Cooke trưng dẫn một vài thí dụ từ cuối thế kỷ thứ mười tám
và đầu thế kỷ thứ
-
mười chín trong bài “Water World, Chinese and Vietnamese on the
Riverine Water
-
Frontier, from Ca Mau to Tonle Sap (c. 1850-1884)”, ở quyển
Water Frontier,
2004, các
-
trang 139-43.
-
25. Muốn có vài thí dụ về sự bât ổn này, xem
cùng nơi dẫn trên.
-
26.
Congrégations
(tiếng Việt-Hán:
Bang),
từ thời triều Nguyễn của Việt Nam, là các
-
thực thể pháp lư cho mọi Hoa Kiều, các kẻ không liên quan cá nhân
đến các thẩm quyền
-
mà chỉ là các thành viên của các nhóm này, dưới trách nhiệm cá nhân
của “bang
-
trưởng”
(chefs
de congregation).
Sau một sự thí nghiệm ngắn nhưng không thành công
-
với sự quản trị cá nhân và trực tiếp của ngựi Trung Hoa, người Pháp
đă tái lập hệ
-
thống truyền thống này vào năm 1863 tại Nam Kỳ. Tại Sàig̣n và Chợ
Lớn, có năm
-
bang theo nguyên quán địa phương: Phúc Kiến (Fujian), Quảng Đông
(Canton), Triều
-
Châu (Teochiu), Hải Nam (Hainan) và Hẹ (Hakka). Tại các tỉnh thuộc
Nam Kỳ, và sau
-
này ở các nơi phần khác trong Đông Dương thuộc Pháp, số lượng các
bang tùy thuộc
-
có đủ túc số hội viên ở địa phương hay không, bởi các cơ quan này
phải tự túc và nâng
-
cao số thu phí để điều hành. Nếu các bang chấp nhận người mới khi
đến nơi, các bang
-
sẽ phải chịu trách nhiệm, cá nhân các bang trưởng, về các hành vi
của hội viên mới
-
trong suốt thời kỳ cư ngụ của họ, và phải trả các số thuế c̣n thiếu
hay khoản phạt cho
-
mọi việc bất hợp thức. Các người mới tới không được chấp nhận bởi
một bang sẽ phải
-
rời thuộc địa tức khắc, với phí tổn của bang đă cự tuyệt họ. Chính
v́ thế, chính quyền
-
28 | T r a n g
-
Pháp đă dành một phần quan trọng của việc canh gác nhóm thiểu số này
cho các thủ
-
lănh của chính họ. Sự hợp tác của các bang có tính cách sinh tử và
hữu hiệu trong việc
-
ngăn chặn các hoạt động của các hội kín trong thế kỷ thứ mười chín
và các hoạt động
-
chính trị không mong muốn trong thế kỷ thứ hai mươi. Sau khi người
Pháp mở rộng
-
chính sách bang hội đến mọi phần của Đông Dương, họ đă canh tân hóa
(với sự trợ lực
-
của Sở Nhập cảnh (Service de l’Immigration) và cơ quan lưu trữ dấu
tay trung ương của
-
Sở) và đă biện hộ nó một cách cứng rắn trước mọi sự chỉ trích từ
nhiều chính quyền
-
Trung Hoa liên tiếp cho đến tận ngày cuối của sự thống trị của họ
(1954). Xem
-
Engelbert, 2002, các trang 118-130, 185-192, 300-324, 505-514.
-
27. Xem
Monographie de la province de Sóc Trăng.
Saigon: Imprimerie Commercial
-
Ménard et Rey 1904, trang 73. Các con số này cần phải được so sánh
với Căm Bốt,
-
nơi mà các băng đảng tội phạm, thổ phỉ và hải tặc vẫn c̣n lan tràn
trong suốt thời thuộc
-
địa. Điều đáng lưu tâm hơn cả các con số tổng quát là sự phân chia
không đồng đều
-
dân số tại các tỉnh khác nhau, thường bao gồm các khu vực to rộng
hơn, và có một
-
mức độ định cư thấp tại những nơi cách xa các trung tâm tỉnh và các
thủy lộ lớn. Xem
-
Annuaire Général de l’Indochine,
Hanoi/Haiphong 1925, trang 13;
Annuaire statistique
-
de l’Indochine 1947-1948,
Saigon 1949, trang 19.
-
28. Hay vào khoảng 10,800 tấn. Xem
Monographie de la province de Soc Trang.
-
Saigon: Imprimerie Commercial Ménard et Rey 1904, trang 45.
-
29.
Cùng nơi dẫn trên.
-
30.
Cùng nơi dẫn trên.
-
31. Về các đồn điền cao su, xem, thí dụ, Trần Tu B́nh [?].
The Red Earth: A
-
Vietnamese Memoir of Life on a Colonial Rubber Plantation.
Bản dịch bởi John
-
Spragens Jr., biên tập bởi David G. Marr. Athens, Ohio: Ohio
University Monographs on
-
International Studies, 1985. Về quan điểm chính thức, xem Delamarre,
E.
L’émigration
-
et l’immigration ouvrière en Indochine.
Hanoi: Imprimerie d’Extrême-Orient, 1931. Cũng
-
xem, bản báo cáo phê b́nh của Delamarre lên chính quyền Pháp được
trưng dẫn
-
ntrong Ngo Van [?], 1986, Annex 1.
-
32. Xem Notice sur la province de Baclieu. Tournée de M. le
Gouverneur Général, 25
-
aout 1937. AOM, Indo., RST 01377. Cũng xem một cách sâu rộng về chủ
đề này,
-
Brocheux n1995, các trang 173-208.
-
33. Milles-Lacroix, Administrateur d’Hatien, to Gouverneur de la
Cochinchine. Hatien, 6
-
novembre 1935. Trong: QG II, Goucoch 1,211.
-
34.
Monographie de la province de Châu Đốc.
Saigon: Imprimerie L. Ménard 1902,
-
trang 47.
-
35.
Cùng nơi dẫn trên.
-
36. Các ngoại lệ đă được thực hiện với các khu đặc nhượng của Công
Giáo, cư trú bởi
-
các người định cư từ Bắc Kỳ. Các nông dân khai khẩn đất mới sẽ được
miễn thuế
-
trong sáu năm, và sau đó trả đủ số thuế trong ba năm. Khi đó đất trở
thành tài sản của
-
họ. Trong
Création des villages de colonization indigene.
QG II, Goucoch 1,211.
-
37.
Cùng nơi dẫn trên.
-
38. Xem Gouvernement de la Cochinchine. Cabinet du Gouverneur.
Saigon, 19 Juin
-
1882. Au sujet de la Sie. secrete du Ciel et de la Terre (signé: le
Myre de Vilers). AOM,
-
Indo., Nouveaux Fonds [NF] 31,449. Tôi xin cám ơn Nola Cooke về việc
nhắc tôi để ư
-
đến tài liệu này.
-
29 | T r a n g
-
39. Trong năm 1909, một phu thợ, cu-li Trung Hoa tại Đông Dương kiếm
được từ 60
-
xu đến 1 đo9^ng` một ngày. Xem, Lafargue, Jean-André.
L’immigration chinoise en
-
Indochine.
Sa règlementation, ses consequences économiques et politiques.
Paris:
-
Henri Jouve, éditeur, 1909, trang 275.
-
40. Brière, “Ca Mau”: 18, 24; và Benoist, “Note de M. Benoist,
ancient inspecteur de
-
Rach-gia, au sujet de l’exploitation d’une pêcherie de crevettes à
Ca-mau”,
Excursions
-
et Reconnaissances,
Vol. 1, (1879), trang 29.
-
41. Muốn có một cuộc thảo luận sâu rộng về đề tài này, xem
Engelbert, 2002, các trang
-
204-08.
-
42. Schreiner, A. “Étude sur la constitution de la propriété
foncière en Cochinchine”,
-
Bulletin de la Société des Études Indochinoises (BSEI),
Vol. 1, (1902), các trang 9-303,
-
trích, trang 28.
-
43. Đây là tinh thần hướng dẫn. Trong thực hành, pháp chế thay đổi
tùy theo các t́nh
-
huống khác nhau, chính yếu được quyết đóan bởi số cung và cầu. Về
chủ điểm này,
-
xem Brocheux, 1995, các trang 17-51.
-
44. Sau nhật kỳ này, các người Minh Hương được xem là dân bản xứ chỉ
ở An Nam
-
[Trung Kỳ]. Tại Căm Bốt, họ bị xem là các ngoại kiều nhưng có thể
xin trở thành công
-
dân Căm Bốt, và thường được chấp thuận. Tại Nam Kỳ (Vochinchina), họ
có quyền xin
-
nhập quốc tịch ngoại quốc, nếu sinh trong khoảng từ 1883 đến 1933 và
sẵn có nó. Việc
-
này phát sinh từ sự thỏa hiệp trong Điều Ước tại Nam Kinh
(Convention of Nanjing) năm
-
1930 giữa Trung Hoa và Pháp: Trung Hoa muốn nhận tất cả các người
Minh Hương sẽ
-
trở thành người Trung Hoa, trong khi Pháp muốn xem họ là người bản
xứ. Sau cùng
-
hết, việc không đạt được thỏa thuận này đă tạo ra một căn bản cho
đạo luật cưỡng
-
bách nhập tịch năm 1956 của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Xem
Engelbert, 2002, các
-
trang 505-56.
-
45. Muốn có sự thảo luận chi tiết hơn, xem
cùng nơi dẫn trên,
các trang 204-08.
-
46.
Monographie de l’Isle de Phú Quốc, province d’Ha-Tiên.
Saigon: Imprimerie
-
Saigonaise, 1906, trang 44.
-
47.
Cùng nơi dẫn trên,
trang 11.
-
48. “Les “Pols” de la Région de Pursat”,
Revue Indo-Chinoise,
1903, các trang 1,025-
-
1,028.
-
49. Résident de France à kampot à Monsieur de Résident Supérieur à
Phnom Penh
-
(Rapport de M. Leclère sur la province de Kompong Som), 25 avril
1900. ANC, RSC
-
1700.
-
50. Xem Yumio Sakurai, “Eighteenth-Century Chinese Pioneers on the
Water Frontier
-
of Indochina”, trong
Water Frontier,
2004, các trang 43-45 về ngừi mă lại dọc theo bờ
-
biển này.
-
51.
Monographie de l’Isle de Phú Quốc,
trang 9.
-
52. Leclère, Rapport sur mon voyage à Romang Chol, 17 mai 1887, ANC,
RSC 5,955.
-
53.
Monographie de la province d’Ha Tiên
Saigon: Imprimerie L. Ménard 1901, trang
-
60.
-
54. Leclère, Kampot, 19 septembre 1889, ANC, RSC 5,938.
-
30 | T r a n g
-
55.
Cùng nơi dẫn trên.
-
56. Leclère, Histoire de Kampot et de la rebellion de cette province
de 1885-1887.
-
ANC, RSC 5,181. Cũng xem bản tóm lược, “L’insurrection de Kampot en
1885”,
Études
-
Cambodgiennes
9 (1967), các trang 23-38.
-
57. Rapport au Gouverneur Général de l’Indochine, 27 janvier 1887 au
sujet de la
-
creation de nouveau bureau de Douane et Régies dans la Colfe de
Siam. ANC, RSC
-
2,595.
-
58. Administration des Douanes et Régies de l’Indochine. Nọ 271/h.
M. A. Frezouls,
-
Directeur des Douanes et Régies de l’Indo-Chine à M. le Gouverneur
Général à Hanoi.
-
Hanoi, 18 mars 1900. ANC, RSC 4,785.
-
59. Résidence de Kampot. Objet: Rapport sur une voyage à Kompong
Trach, 24 mars
-
1887. ANC, RSC 5,956.
-
60. Fermeture du port de Camau avec importations au long cours,
1931. Trong QG II,
-
Goucoch 2,862.
-
61. Lieutenant-Gouverneur de la Cochinchine, M. Duros, à M. le
Gouverneur Général,
-
Rapport du mois d’octobre, 1895. AOM, Indo., Gouvernement Générale
(từ giờ trở đi,
-
gọi tắt là Gougal) 64,321.
-
62. Lieutenant-Gouverneur à M. le Gouverneur Général, Saigon 23 mars
1891. AOM,
-
Indo., Gougal. 64,317.
-
63.
Cùng nơi dẫn trên.
-
64. Xem Rapport mensuels de la Cochinchine, 1893. AOM, Indo.,
Gougal. 64,319.
-
65. Xem Rapport mensuels de la Cochinchine, 1902, AOM, Indo.,
Gougal. 64,324.
-
66. Xem,
cùng nơi dẫn trên.
Quốc tịch của các thành viên băng đảng không được báo
-
cáo. Bởi người Pháp đă dung các dấu trong tiếng Việt khi viết các
danh tính Trung Hoa,
-
các thủ lănh có thể là người Trung Hoa hay Việt Nam.
-
67. Như một quy lệ chung, các đặc nhượng khai thác lớn nhất thuộc
vào các công ty
-
Pháp hay các cá nhân (hoặc Pháp hay ngừoi bản xứ) có quốc tịch Pháp,
là các kẻ đă
-
sở hữu một số lượng hạn chế các tài sản rất lớn, lớn và cỡ trung
b́nh. Các sở hữu chủ
-
bản xứ hay ngoại kiều Á Châu (chính yếu là Trung Hoa) sở hữu một số
rất ít tài sản rất
-
lớn, nhưng nhiều đồn điền cỡ trung và nhỏ. Vào năm 1938, thí dụ, đă
có 52 điền chủ
-
cỡ nhỏ có gốc ngoại kiều Á Châu tại Sóc Trăng, với tài sản không quá
hai mươi mẫu tây
-
(hectares), trong số đó có 48 ngừoi Trung Hoa và bốn người Ấn Độ,
đối với 196 tiểu
-
điền chủ bản xứ. Tuy nhiên, theo họ của gia đ́nh, nhiều sở hữu chủ
“bản xứ”có thể có
-
tổ tiên người Trung Hoa (Diệp, Giang, Kiêm, Lâm, Liêu, Ông, Qúch,
Tào, Thâm, Vưu,
-
v.v…) Indochine. Aresses 1938-1939. Saigon: Imprimerie Albert
Portail 1938, các trang
-
1005-013. Các chính sách đất đai thay đổi theo thời gian, nhưng b́nh
thường, các
-
Ngoại Kiều Á Châu (Trung Hoa, Ấn Độ v.v…) không được phép sở hữu các
đặc
-
nhượng khai khẩn rộng lớn, và đă phải đăng kư họ dưới tên các bà vợ
Việt Nam hay
-
hay các đứa con trai lai (mestizo).
Xem, thí dụ, Rachgia, Chef de province à M. le
-
Gouverneur de la Cochinchine, 22 juillet 1937. QG II, 1,211.
-
68. Xem Rapport mensuels de la Cochinchine, 1902. AOM, Indo.,
Gougal. 64,324.
-
69. Xem Rapport mensuels de la Cochinchine, 1909. AOM, Indo.,
Gougal. 64,330.
-
70.
Cùng nơi dẫn trên.
-
31 | T r a n g
-
71. Văn thư của Phó Thống Đốc Ducos gửi Toàn Quyền, AOM, Indo.,
Gougal, 64,322.
-
72. Xem Le Myre de Vilers, 19 Juin 1882, AOM, Indo, N.F, 31,449.
-
73. Về đề tài này, xem Sngelbert, 2002, các trang 192-204.
-
74. Ministre de la Marine et des Colonies, Rapport au Président de
la République
-
Francaise, 25 Mai 1881, AOM, Indo., NF, carton 31,449.
-
75. Về chính sách đối với thuốc phiện, xem Descours-Gatin,
Quand l’opium financait la
-
colonization en Indochine.
Paris: L’Harmattan, 1992; Guermeur, Henri,
Le régime fiscal
-
de l’Indochine.
Paris: L’Harmattan 1999 (ấn hành lần đầu năm 1909).
-
7t6. Xem Affairs des congregations chinoise de Triều Châu, 1882. QG
II, Cochinchine,
-
IA 15/155 (17). Tôi cảm ơn Tracy Barrett về việc chia sẻ tài liệu
này với tôi.
-
77. Le Myre de Vilers à M. le Minidstre de la Marine et des
Colonies, 12 juin 1882.
-
AOM, Indo., NF 31,449.
-
78. Xem, thí dụ, Descours-Galin, 1992, trang 90.
-
79. Chỉ riêngtừ 1876 đến 1885 không thôi, đă có 18 thông tư loan báo
các sự thay đổi
-
về thuế khóa đánh vào người Hoa (thuế thân, giấy phép (patentes),
giấy tờ đăng kư, và
-
các sắc thuế đặc biệt, thí dụ cho Chợ Lớn). Xem Lasfasrgue, 1909,
trang 67. Đây là
-
một sự thử nghiệm tế nhị, để xem họ có thể đi xa tới đâu mà không
gây phương hại đến
-
nền kinh tế lẫn sự nhập cảnh của người Hoa.
-
80. Sự gia tăng trong việc kiểm soát hành chính, thuế khóa và làm
xâu cũng là nguyên
-
do chính cho các hoạt động nhiều hơn của các hội kín và các cuộc nổi
dậy của người
-
Trung Hoa tại vùng Bornéo thuộc Ḥa Lan, nơi mà ngay cả các thổ dân
Dayaks cũng
-
gia nhập các kẻ nổi loạn. Xem, Somers-Heidhues, Marỵ Golđiggers,
Farmers and
-
Traders in the “Chinese districts” of West Kalimantan, Indonesia.
Ithaca, NY: Cornell
-
University SEAP Papers 2003, các trang 108-112, 181-82.
-
81. Gouvernement de la Cochinchine, Cochinchine Francaise.
Rapport au Conseil
-
Colonial. Année 1880.
Saigon: Imprimerie Colonial 1880, trang 21.
-
82. Xem Engelbert, 2002, các trang 185-204. Điều cần ghi nhận rằng,
trong các thập
-
niên 1870 và 1880, ba quyền lực thực dân chính tại Đông Nam Á (Anh,
Pháp, và Ḥa
-
Lan) đă có các biện pháp để xiết chặt sự kiểm soát sự nhập cảnh của
người Trung Hoa,
-
để gia tăng số thu từ người Trung Hoa, và kiềm chế các hội kín. Sự
nhập cảnh tăng
-
cao gắn liền với sự phát triển thuộc địa đă tạo ra các thử thách mới
cần phải được đáp
-
ứng. Về chính sách của người Anh tại Singapore, xem Jackson R. N.,
Pickering:
-
Protector of Chinese.
Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1965.
-
83. Béliard au Gouverneur en Conseil Privé. Saigon, 17 juin 1882.
AOM, Indo., NF.
-
31,449.
-
84. Xem AOM, Indo., NF. 21,536. Tôi xin cảm ơn Nola Cooke về việc đă
chia sẻ tài liệu
-
nào với tôi.
-
85. Các báo cáo tương tự xuất hiện từ Long Xuyên và Rạch Giá
(Transbassac). Xem
-
Engelbert, 2002, các trang 192-203.
-
86. Biên Ḥa. Rapport politique de la province pour les mois de Mai
et Juin 1906. QG
-
II, II A 45/295 (1)
-
32 | T r a n g
-
87. Nghi thức cắt máu ăn thề và căn bản Đạo (Lăo) Giáo của nó được
giải thích bởi Ter
-
Haar, Bared.
Ritual and Mythology of the Chinese Triads.
Leiden/Boston/Kôlin: Brill,
-
1998, các trang 151-79.
-
88. Người ta có thể thắc mắc tại sao người Hakka (Khách, hay Hẹ) lại
đă cố gắng thành
-
lập một hội kín cùng với người Việt Nam thay v́ gia nhập các hội
Trung Hoa đang có
-
sẵn hay thành lập một hội riêng của họ. Dân số nhỏ và vị thế xă hội
và kinh tế thấp kém
-
có thể là nguyên do.
-
89. Hồ Sơn Đài: “Về một tháng mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp”
(On the fiurst
-
month of the anti-French struggle), trong quyển
Mùa thu rồi, ngày hăm ba
[Words in
-
autumn], T. 2, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 1996, các trang
192-198.
-
90.
Cùng nơi dẫn trên.
-
91. Sử gia của đanbg Trần Huy Liệu tuyên bố rằng Thiên Địa Hội Việt
Nam có “vài
-
ngh́n” hội viên được tổ chức thành các đội h́nh (kèo) gồm 50 thành
viên, mặc dù không
-
cho hay là các đội này đă hoạt động một cách tự trị hay như các chi
hội của một tổ chức
-
trung ương tập quyền. Người Pháp sau hết chỉ việc dập tắt nó trong
các năm 1924-
-
1926.
Cách mạng Cận Đại Việt Nam,
T. 3. Hà Nội: Ban nghiên cứu văn sử địa, 1956,
-
các trang 118-22.
-
92. Xem Li Tana, “Introduction”, trong
Water Frontier,
2004, các trang 7-8.
-
93. République Francaise. Province de Bien Hoa. Rapport politique de
la province pour
-
les mois de Mai et Juin 1906. QG II, II A 45/295 (1)
-
94. Về hiện tượng tương tự tại nông thôn Trung Hoa, xem Billingsley,
Philip Richard.
-
Banditry in China, 1911 to 1928, with particular reference to Honan
Provine.
Leeds:
-
University de Leeds, PhD thesis, 1974, các trang 3-5.
-
95. Cũng xem Brocheux, 1995, các trang 22-29.
-
96. Xem Engelbert, 2002, các trang 217-246, 352-357.
-
97. Xem Notes mensuelles sur les activités subversives en
Cochinchine. AOM, GG I,
-
65490.
-
98. Notice sur l’activité des intrigues politiques de tendances
subversives dans les milieu
-
indigènesde la Ciochinchine pendant le mois de juin 1940. AOM,
Indo., GG I, 65490.
-
99. B́nh Xuyên nguyên thủy là một băng đảng tội phạm, đặt căn cứ
chính yếu trong
-
Chợ Lớn và vùng bao quanh. Trong những ngày khởi đầu của cvuộc đấu
tranh vũ trang
-
chống Pháp, nó đă thành một một quân đội và chiến đấu với danh nghĩa
một đồng minh
-
của Việt Minh tại các khu vực đầm lầy phía nam và tại các khu ổ
chuột (bidonvilles)
-
đông bắc Sàig̣n. Hồ Sơn Đài, “Về một tháng mở đầu cuộc kháng chiến”,
1996, các
-
trang 196-198. Về một sự tŕnh bày của Pháp, xem
L’Administrateur-délégúe de Tân
-
B́nh à M. l’Administrateur, Chef de Province de Gia Định, Tân B́nh,
19 juillet 1947.
-
AOM, Indo., CP 272. Từ 1948, một số thành viên B́nh Xuyên dưới quyền
của Lê Văn
-
Viễn (Bẩy Viễn) đă xoay chiều và trợ giúp người Pháp giữ Chợ Lớn
được tự do, ngoài
-
sự kiểm soát của cộng sản. Xem “Selected Biographies of Vietnamese
Army
-
Personnel” trong Hồ sơ Bộ Ngoại Giao, Department of State: Indochina
1945 – 1954
-
Files, Reel 16/44; USMINISTER SAIGON VIETNAM FROM SANA SGD HEATH;
JOINT
-
WEEKA 48, 4 DEC, 1951, cùng nơi dẫn trên, Reel 17/44. Cũng xem
Devillers, Philippe.
-
Histoire du Vietnam de 1940 à 1952.
Paris: Éditions du Seuil 1952, các trang 156-66,
-
247; và Ngo Van.
Vietnam: 1920-1945. Révolution et contre-révolution sous la
-
domination colonial.
Paris: L’insomniaque 1986, trang 348.
-
33 | T r a n g
-
100 Sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cưỡng bách giải tán các dân
quân của các
-
giáo phái hồi năm 1956, một số thành viên cấp thấp của B́nh Xuyên
gia nhập hàng ngũ
-
Việt Cộng, Trong năm 1957, giới lănh đạo VC (Việt Cộng) tại miền nam
đă sử dụng họ
-
để bảo vệ các nơi ẩn náu của ḿnh tại Biên Ḥa và tại Đồng Tháp Mười
(Plain of
-
Reeds). Xem Hồ Sơn Đài, “Quá tŕnh chuyển hóa một bộ phận vũ trang
B́nh Xuyên
-
thành lực lưo=.ng cách mạng sau năm 1954” [Transforming the B́nh
Xuyên militia into a
-
revolutionary force after 1954], trong
Nghiên Cứu Lịch Sử,
II-IV (1995), các trang 31-36.
-
101. Xem Huỳnh Minh Hiền, “Nhớ Đồng Tháp Mười, “thủ phủ” của Nam Bộ.
Trong
-
những năm đầu kháng chiến” [Commemorating Đồng Tháp Mười, the
“capital” of the
-
South in the early years of the First Indochina War] trong quyển
Mùa thu rồi, ngày hăm
-
ba,
1996, các trang 366-375. Giống như các ấn phẩm tương tự về lịch sử
cách mạng
-
Việt Nam, chắc chắn nó là một loại dật sử đề cao nhân vật tha6`n
thánh [hagiographic]
-
và có thực [apodictic] nhằm kỷ niệm cuộc cách mạng tháng Tám, sau đó
cuộc kháng
-
chiến của cộng sản. Tuy nhiên, từ các hồi ức cá nhân của các kẻ tham
dự chúng ta thu
-
lượm được nhiều chi tiết quư báu có thể được dùng để kiểm chứng và
cân bằng sự hiểu
-
biết phát sinh từ các nguồn tài liệu văn khố Pháp.
-
102. Muốn có một cuộc thảo luận sâu rộng về đề tài này, xem
Engelbert, 2002, các
-
trang 281-497..
-
103. Cùng nơi dẫn trên./-
-
Ngô Bắc
dịch
-
2/4/2009
-
Nguồn:
Thomas Engelbert,
-
“Go West” in Cochinchina,
-
Chinese and Vietnamese
-
Illicit Activities in the
-
Transbassac (c.1860-
-
1920s),
Chinese Southern
-
Diaspora Studies,
Volume 1,
-
2007, các trang 56-82.__
|
|