|
-
- Vài cảm nghĩ về t́nh tự dân tộc Miền Nam và Ca Dao
Ḥa Đa
Kính Tặng Má,
tặng Hồng, vợ tôi,
người đă ru con bằng ca dao.
Một trong những thiếu
sót trong chương tŕnh học ở Việt Nam từ trước đến nay
là sự mất cân đối trong việc giới thiệu đến học sinh
những dữ kiện về văn học theo sự phân bố về địa dư. Nói
cho rơ hơn, chương tŕnh văn ở bậc trung học nghiêng
nặng về những tác giả tác phẩm ở ngoài Bắc và đă bỏ quên
những sinh hoạt văn học trong Nam. Không thể chối căi là
ở trung học, chúng ta học quá nhiều về Tự Lực Văn Đoàn,
về Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo... mà
không hề nói ǵ về những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh,
B́nh Nguyên Lộc...chẳng hạn; chúng ta học quá nhiều về
Nam Phong, Đông Dương tạp chí, học Nguyễn văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh... mà không nhắc ǵ về Gia Định Báo, Phụ Nữ Tân
Văn, Phan Khôi... Có thể nói, trong mọi lănh vực về văn
học ở chương tŕnh trung học, miền Nam đă bị bỏ quên,
khiến cho sau bao nhiêu năm, sự lănh hội về kiến thức
trong chúng ta về văn học đă bị thiếu sót.
Ca dao miền Nam cũng
chịu chung số phận như thế.
Mặc dù không hề được
nhắc đến ở trường học, nhưng ca dao miền Nam vẫn có sức
sống của nó. Chẳng những thế nó c̣n được phát triển mạnh
và là một sinh hoạt tiềm tàng trong cuộc sống của người
b́nh dân, cho dù chúng ta không c̣n thấy những màn ḥ
đối đáp trong công việc hàng ngày ở trên đồng ruộng, sân
lúa hay trên sông rạch như tiểu thuyết đă mô tả. Nó nằm
ngay trên cửa miệng người b́nh dân, họ đọc ra như một
phản xạ tự nhiên phù hạp với hoàn cảnh đang xảy ra không
chê được.
Chẳng hạn, thấy một
chàng trai ở rể bị lợi dụng, miệng đời đă có câu đàm
tiếu:
- Công anh làm
rể đốn rào
Tào lao phất ngọn, chớ nào vợ anh? (1)
- Câu này làm chúng ta
nghĩ ngay đến câu tương tự ở ngoài Bắc:
- Công anh làm rể
chương đài
Một ḿnh ăn hết mười hai vại cà,
Giếng đâu th́ dắt anh ra
Không th́ anh chết với cà nhà em.
- Hay để trêu chọc sự dan
díu ngoài khuôn phép của gia đ́nh và xă hội của một đôi
trai gái, chúng ta đă có sẵn câu:
- Mùng ba th́
có trăng non,
Anh đi lên xuống có con anh bồng
- Nó cũng nằm ngay trong
câu hát ru con của các mẹ, các chị b́nh dân, những câu
ca dao cứ tuần tự tuôn ra một cách tự nhiên, không g̣
ép, không sửa soạn, cứ hết câu này đến câu khác, ru trẻ
vào giấc ngủ. Nhiều khi họ c̣n dùng để diễn tả, kể lể
tâm trạng của họ:
- - Má ơi đừng
gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu.
- - Ví dầu cầu
ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập gh́nh khó đi
- - Giả đ̣ mua
khế bán chanh
Giả đi đ̣i nợ thăm anh đỡ buồn
- ...
- Năm 1970, tôi về làm
việc tại một tỉnh nhỏ ở đồng bằng Cửu Long nên có dịp
tiếp xúc với người b́nh dân, nông dân. Sau 1975, do
chính sách của chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ, tôi lại
có dịp sống hẳn ở nông thôn, gần gũi với nếp sống b́nh
dị, làm quen với cách ứng xử, sinh hoạt của họ. Do đó
xin nêu lên vài cảm nhận có tính rất chủ quan về ca dao
miền Nam. Tôi không có tham vọng tŕnh bày về ca dao
miền Nam như một bài khảo cứu, công việc này xin dành
cho những nhà biên khảo hay cho những công tŕnh luận
văn cao học, tiến sĩ. Cũng xin nói thêm, v́ sự thuần
nhất (một cách tương đối) về âm sắc trong cách nói, sự
tương đồng về sinh hoạt, xin được nới rộng yếu tố địa dư
miền Nam ra đến phần đất tam Phan (Phan Rang,
Phan Rí, Phan Thiết) mà do sự phân chia hành chánh, vùng
này được xếp vào Trung phần. Và cũng xin nhấn mạnh bài
viết chỉ nhằm đóng góp, nêu lên một phần di sản văn hóa
bị bỏ quên trong văn học sử, tuyệt nhiên không có ư phân
biệt địa phương.
- I. Vài nét về sự
h́nh thành cư dân Miền Nam
- Kể từ sau cuộc hôn nhân
Việt -Chiêm giữa Huyền Trân Công Chúa và Chế Mân , nước
Việt chúng ta có thêm hai châu Ô, châu Rí (Thế kỷ XIV,
XV). Để đối kháng với thế lực thống trị từ phía Bắc,
Việt Nam cần phát triển hậu cứ, lập nền tảng kinh tế để
phát triển tiềm năng kháng cự với Tàu, nên đă bắt đầu
chú ư đến việc phát triển về địa lư vào phương Nam.
Nhưng phải chờ đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận
Hoá (năm 1558) và tuyên xưng là Chúa Nguyễn (năm 1600),
hướng phát triển vào Nam mới được phát triển một cách có
qui củ để tạo thành một thế lực ngang ngửa với chúa
Trịnh ở miền Bắc. Với chính sách tầm ăn dâu, người Việt
cứ bành trướng dần vào Nam. Những người tiền phong là
những lính thú khai hoang lập ấp, họ là những người vừa
chiến đấu vừa sản xuất. Họ cũng là những lưu dân từ vùng
Thanh Nghệ, t́m đến phần đất của chúa Nguyễn để sinh
sống, người có tài như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật,
Nguyễn Hữu Cảnh... th́ được trọng dụng, người b́nh dân
th́ được đưa vào dần trong Nam theo chân các tập đoàn
quân sự khai hoang lập ấp. Họ cũng là những tù, hàng
binh của Trịnh do Nguyễn bắt được, đưa sâu vào Nam để dễ
bề quản thúc, kiểm soát... Cũng có những cuộc t́nh duyên
có tính chính trị nhằm mở rộng lănh thổ như cuộc t́nh
duyên của công chúa Ngọc Hoan (hay Ngọc Vạn?) với vua
Miên Chey Chetty dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa
Săi), bà hoàng người Việt này đă mang theo nhiều người
Việt vào sinh sống ở vùng đất Chân Lạp. Sang thế kỷ
XVII, các di thần nhà Minh không chấp nhận Thanh Triều
đă đem bộ hạ và gia quyến vào xin đầu phục Chúa Nguyễn,
Chúa Hiền cũng cho vào định cư vùng Đồng Nai, Biên Ḥa
(Trần Thắng Tài), Mỹ Tho (Dương Ngạn Địch, TrầnThượng
Xuyên) và sau đó (2) vùng đất Hà Tiên do Mạc Cửu mộ dân
khai thác được dâng cho Chúa Nguyễn.
- Khi Gia Long lên ngôi,
một trong những chính sách quan trọng ở miền Nam là ổn
định đời sống về kinh tế, miễn thuế cho cư dân thuộc
vùng đă giúp nhà vua khi c̣n bôn đào trong thời chiến
tranh với Tây Sơn. Sau Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị
đă cho phát triển những đơn vị bán quân sự, cho đào kinh
(3) khuyến khích việc mộ dân lập làng, tiếp tục miễn
giảm thuế cho những vùng vừa khai thác nên dân số ngày
càng đông . Thành phần cư dân h́nh thành trong vùng gồm
phần đông là binh lính, di dân Việt từ Thuận-Quảng
chuyên làm ruộng ít học, sau đó là người Miên, sống rải
rác trong các sốc (làng Miên) trên những vùng đất cao
ráo và người Hoa làm rẫy hay buôn bán, tập trung cạnh
các con sông lớn, tạo thành những thị tứ thịnh vượng.
Phát triển của vùng này chỉ được chú trọng vào quân sự
và kinh tế, c̣n văn hóa chỉ phát triển có hệ thống về
phía tôn giáo ở các miếu, đ́nh, chùa.
- Hơn thế kỷ sau, Pháp
xâm chiếm Việt Nam, chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, miền Nam gần
như mất hẳn ảnh hưởng chính quyền trung ương, văn hóa
miền Nam cũng theo trào lưu đó mà biến đổi. Nền học cũ
bị băi bỏ, cái học mới chỉ để phục vụ cho chế độ thực
dân. Đại đa số người dân miền Nam thiếu học, lại mất đi
nguồn bổ sung nhân lực chính là các binh lính từ các
phiên trấn thuộc chính quyền trung ương, sinh hoạt văn
hóa thông thường và dễ dăi của người b́nh dân là hát ḥ
với nhau.
- Với sự hinh thành về
thành phần cư dân cho vùng đất miền Nam như thế, Sự giao
lưu về văn hóa giữa ba nhóm cư dân nói trên (Việt, Miên,
Hoa) nhất định phải xảy ra và v́ vậy, chúng ta không thể
không để ư đến tính đa văn hóa sẽ phát triển trên vùng
đất này và có thể giải thích được tại sao văn hóa miền
Nam không bị g̣ bó vào khuôn mẫu và có tính cách thuần
nhất như ở miền Bắc. Người b́nh dân, lính thú... thiếu
học, đơn giản, sống tương đối rải rác sẽ khó có thể có
những sinh hoạt văn hóa dựa trên chữ viết, sân khấu...
mà sinh hoạt truyền miệng, phóng khoáng hơn, dễ dăi hơn
được phát tirển mạnh. Có điều nhận xét khá lư thú là âm
sắc trong ngôn ngữ càng vào sâu trong Nam càng nhẹ dần,
nhưng vốn từ vựng từ phía nam Hải Vân vẫn c̣n được duy
tŕ thống nhất và được phát triển thêm, làm giàu thêm
trong suốt chiều dài phát triển lănh thổ về phía nam (4)
. Tinh thần văn hóa ở phần đất này có những độc đáo, tự
nhiên, b́nh dị và đôi khi đi đến sỗ sàng, trong khi tinh
thần văn hóa ở phần đất thuộc Đàng Ngoài (thuộc chúa
Trịnh) đă đạt đến mức tinh luyện, khuôn mẫu, nghiêm túc.
- Người dân miền Nam chịu
ảnh hưởng của luồng văn hóa có tính b́nh dân của các văn
nhân theo vào với Chúa Nguyễn trong giai đoạn đầu đan
kết với những luồng văn hóa của Khmer, Hoa, Pháp, cộng
với điều kiện sinh hoạt dễ dàng, đất rộng người thưa,
sông sâu nước chảy, tài nguyên thiên nhiên thừa thải. Họ
sống b́nh dị, không muốn bó ḿnh trong những khuôn mẫu
có sẵn là điều dễ hiểu. Có khi do điều kiện sinh hoạt
riêng rẽ (trong giai đoạn đầu tiên không phải ở làng xă
nào cũng có những bậc túc nho hay người biết chữ), nên
sự tùy tiện trong giải thích hay trong sinh hoạt văn hóa
làm nảy sinh tính dễ dăi, uyển chuyển, sao cũng được,
miễn là mọi người vui và hạnh phúc là được rồi. Hơn nữa,
đối với những con người tiền phong, sau những lúc phấn
đấu với thiên nhiên c̣n mang tính hoang dă:
- Xứ đâu có xứ
lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh
- hay
- Cà Mau khỉ
khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um
- th́ trong những lúc có
dịp ngồi lại với nhau như sau vụ mùa, buổi chợ, trong
những dịp ma chay cưới hỏi, cất nhà... người b́nh dân
c̣n có nhu cầu giải trí nào khác ngoài những dạng nói
thơ, kể chuyện tiếu lâm, hát, ḥ....? Họ không có khả
năng ngâm vịnh, sáng tác.
- Ca dao miền Nam đă phát
triển trong chiều hướng đó. Chính yếu tố b́nh dị, nghĩ
sao nói vậy, mộc mạc, dễ hiểu đă làm cho ca dao miền Nam
có sức sống rất mạnh, được quần chúng chấp nhận dễ dàng
và do đó làm ảnh hưởng đến sự sinh hoạt và tư tưởng của
quần chúng:
- - Hủ qua
(khổ qua) xanh, hủ qua trắng
Hủ qua mắc nắng hủ qua đèo
Thương em, th́ anh làm giấy giao kèo
Lăn tay điểm chỉ mới thiệt con mèo của em
- -
Thấy em g̣ má hồng hồng
Phải chi em đừng mắc cỡ, anh bồng anh hun
- thật khó t́m thấy những
câu tương tự như vậy ở ca dao miền Bắc.
- II. Vài tính chất có
tính đặc trưng
- Ca dao, ở đâu cũng vậy,
là sản phẩm của quần chúng. Chúng ta không biết tác giả
hay hoàn cảnh sáng tác, nhưng chúng ta biết chắc một
điều: ca dao được người b́nh dân biết đến, sử dụng và
truyền bá. Không có quần chúng, ca dao nói riêng, văn
chương b́nh dân nói chung không thể phát triển và lưu
truyền. Qua ca dao, chúng ta có thể mường tượng được nếp
sinh hoạt, hoàn cảnh sống và phần nào tâm tư của người
b́nh dân. Do vậy, tuy ca dao có những cái chung nhưng
cũng có những cái riêng của vùng. Chúng ta khó có thể
tưởng tượng được ca dao miền Nam lại có những câu nói về
núi cao, ao cá:
- - Núi cao
chi lắm núi ơi,
Che khuất mặt trời, không thấy người yêu.
- - Tiếc công
anh đào ao nuôi cá,
Năm bảy tháng trời, người lạ tới câu.
- dù trên thực tế, không
phải người dân miền Nam không biết núi, biết ao.
- Chúng ta thử lược qua
những tính chất đặc sắc của ca dao miền Nam.
- 1/ Tính uyển chuyển.
- Một trong những nét dễ
nhận thấy là người miền Nam không chịu bó trong những
khuôn mẫu có sẵn, có lẽ do cuộc sống quá được ưu đăi từ
thiên nhiên hào phóng, con người cũng trở nên phóng
khoáng. Từ một câu có tính nhận xét trong đời sống hàng
ngày, mà chúng ta thấy ở đâu cũng đúng:
- Chiều chiều quạ
nói với diều
T́m nơi đống trấu có nhiều gà con
- vào đến miền Nam chúng
ta nghe thấy nó biến thể thành:
- Chiều chiều
quạ nói với diều
Cù Lao Ông Chưởng (5) có nhiều cá tôm
- Người miền Nam có thể
chuyển nhóm chữ "Cù Lao Ông Chưởng" thành một nhóm chữ
nào đó thích hợp với địa danh họ đang sống, họ chẳng hề
bị bó buộc phải rập khuôn theo câu ca có sẵn. Vùng Ô
Môn, B́nh Thủy (Cần thơ) cũng có câu tương tự, chỉ đổi
bốn chữ cù lao Ông Chưởng bằng bốn chữ Ô Môn
B́nh Thủy. Chúng ta có thể t́m thấy dạng này khắp
nơi ở miền Nam, lâu dần chúng ta không c̣n biết câu nào
là nguyên bản, câu nào là sao chép. Ở vùng Cao Lănh,
Đồng Tháp Mười chúng ta có câu:
- Nước chảy
Láng Linh, chảy ra Vàm Cú
Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun
- Nhưng vùng Trà Cú (Vĩnh
Long - Vĩnh B́nh), ta lại nghe:
- Nước chảy
sông xa, chảy qua Trà Cú
Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun
- Một câu khác mà chúng
ta ai cũng biết:
- Nam Vang đi
dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con
- để chỉ Nam Vang là xứ ở
xa, rất xa, đi lại không tiện, ai đi Nam Vang (nghĩa là
qua Miên) làm ăn th́ thường lập gia đ́nh luôn ở bên ấy.
Ở miền Nam, chúng ta nghe không thiếu ǵ câu hát trên,
ch́ đổi chữ Nam Vang thành Long Xuyên, Cần Thơ, G̣
Công... và nghe những câu ấy, chúng ta cảm được cái t́nh
ấm áp của người địa phương làm cho kẻ lăng du phải dừng
chân:
- Tới đây th́
ở lại đây,
Chừng nào bén rễ xanh cây rồi về
- Thật ra. tính uyển
chuyển vừa nêu không phải là một đặc thù của ca dao miền
Nam, nhưng ở miền Bắc và miền Trung, những dị bản của
những câu ca dao ít t́m thấy hơn ở trong Nam. Một trong
những câu điển h́nh là câu:
- Gió đưa cành
trúc la đà
Hồi chuông Trấn Quốc, canh gà Thọ Xương
- ở ngoài Bắc, vào đến
Huế biến thành:
- Gió đưa cành
trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
- Cũng v́ tính chất này
mà ở miền Nam, chúng ta thấy ca dao thường ở dạng lục
bát biến thể nhiều hơn. Số chữ trong mỗi câu hoàn toàn
tùy thuộc vào cách nói, không bị g̣ cho đủ 6 hay 8 chữ,
miễn sao diễn tả đủ ư muốn nói và có vần điệu dễ đọc, dễ
nhớ. Phải chăng tính thực tiển và phóng khoáng của người
dân Nam bộ đă làm cho sự uyển chuyển dễ xảy ra hơn? Nhân
đây, xin nói thêm về tính uyển chuyển đó: ở trong Nam:
Ai đă từng sống ở nông thôn vùng Cửu Long đều biết, khi
cúng dựng nhà người nông dân miền Nam thường bày dĩa
trái cây trên bàn thờ theo công thức: dừa, đu đủ,
xoài; hay măng cầu, dừa, đu đủ, xoài biểu thị
ḷng mơ ước của họ: vừa đủ xài hay cầu vừa đủ
xài, họ không bao giờ cúng chuối, dù trên bàn thờ
của gia đ́nh vào ngày Tết, cho rằng như vậy là chúi
nhủi, khác với cư dân từ Nha Trang vào đến Xuân Lộc
luôn có chuối trên bàn thờ, bất luận dịp nào- Đó là do
cách phát âm trong Nam không phân biệt dừa và vừa,
xoài và xài, chuối và chúi. Ở đồng bằng Nam Bộ người
ta chỉ bày chuối trên bàn thờ Phật. Cũng do sự dễ dăi
trong phát âm, không chàng trai gốc ngoài Bắc hay Trung
nào, lần đầu tiên khi vào miền Nam (đặc biệt miệt vườn
Cửu Long) không hết hồn khi gặp mấy cô gái ruộng tay cầm
ṿng hái (lưỡi hái) chấp lại kính cẩn chào xin vái
thầy hay bị chới với khi cô gái vườn niềm nở mời
hôm nào "quởn" ( hưởn), mời anh vô vườn em chơi. Xin
nhắc lại là người miền Nam không phân biệt được âm v
và âm d, gi .
- 2/ Tính cường điệu:
- Người b́nh dân miền Nam
nói riêng, và cả nước nói chung ít học, nhưng ở miền
Nam, người b́nh dân lại thường ra vẻ "ta đây" hay chứng
tỏ ḿnh ngon lành, thích nói chữ như muốn chứng tỏ ḿnh
là người hay chữ, đôi khi không trúng trật vào dâu
- - Bước vô
trường án, vỗ ván cái rầm
Bủa xua (6) ông Tham biện, chớ bạc tiền ông
để ở đâu?
- - Cách một
khúc sông, kêu bằng cách thủy (?)
Chợ Sài G̣n xa, chợ Mỹ cũng xa (7) ...
- Chính v́ tính hay phô
trương không đúng chỗ, nên chúng ta đừng chờ đợi ở ca
dao miền Nam những cách sử dụng đúng từ ngữ, diễn tả
đúng cách, đúng chỗ. Cái mà chúng ta thường gặp ở đó là
những cách nói vô nghĩa, cốt chỉ có vần, có điệu; nhất
là trong các câu ḥ, chúng ta thấy h́nh như họ cố ư kéo
dài câu ḥ, nói lan man, cốt để tranh thủ thời gian t́m
ư. Họ thường ưa nói quanh co, không đi ngay vào đề tài
chính, mà đôi khi lối quanh co này chẳng dính dáng ǵ
đền việc họ muốn nói. Muốn trêu chọc một cô gái, chàng
trai nói lan man:
- Đầu giồng có
bụi chuối
Cuối giồng có cây đa
Ngă ba đường cái có cây tơ hồng
Con gái chưa chồng, cái ḷng hực hở,
Con trai chưa vợ, ruột thắt tầm canh
- để cuối cùng mới nói :
- Ngó lên mây
trắng trời xanh,
Ưng đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi
- hay cô gái muốn từ chối
nhẹ nhàng lời tỏ t́nh của chàng trai v́ c̣n phải lo
phụng dưỡng cha mẹ già (không chừng đó chỉ là cái cớ nêu
ra để từ chối), cô không nói thẳng vào vấn đề, mà xa xôi
bóng gió trước:
- Đèn nào cao
cho bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc cho bằng gió Nam Vang
Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ
Có chút mẹ già, biết bỏ ai nuôi ?
- Ta thấy ngay, tính chất
này khác hẳn với cách nói có tính cách khuôn mẫu ở ngoài
Bắc, người dân miền Bắc thường nghiêm túc hơn, trữ t́nh
một cách khách sáo hơn, mang ít nhiều tính nghệ thuật
hơn, và thường "đi thẳng" vào vấn đề hơn:
- Trèo lên cây
bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay...
- hay khen tặng vẻ đẹp
của cô gái một cách kín đáo trong:
- ...Xây dọc rồi
lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Có rửa th́ rửa chân tay,
Đừng rửa lông mày chết cá ao anh
- Kiểu nói dông dài này
gặp rất thường trong ca dao miền Nam, nơi mà con người
thường ồn ào chứng tỏ sự "thông thái" của ḿnh một cách
rất dễ dăi, mà cũng rất dễ thương
- Đèn Sài G̣n
ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ
- hay:
- Tàu xúp lê
một, c̣n thương c̣n nhớ
Tàu xúp lê hai, c̣n đợi c̣n chờ
Tàu xúp lê ba, tàu ra biển Bắc,
Tay vịn song sắt, nước mắt ṛng ṛng
Thương em từ thủa mẹ bồng
Bây giờ em lớn, em lấy chồng bỏ anh!
- 3/ Tính trữ t́nh
- Trữ t́nh vốn là một
thuộc tính của t́nh nam nữ, cho dù ở phần nào của đất
nước, người b́nh dân diễn tả t́nh cảm của ḿnh một cách
rất nhẹ nhàng, thoải mái. Quả thật, kho tàng văn chương
b́nh dân cho ta vô vàn những câu tỏ t́nh bóng gió có, lộ
liễu có, và rất đậm t́nh quê hương. Miền Nam cũng không
ra khỏi thông lệ đó. Ca dao miền Nam dùng để tỏ t́nh có
nhiều như bất cứ vùng nào của đất nước. Ta có thể đơn cử
vài câu:
- -Rồng chầu
ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
- -Tḥ tay anh
ngắt ngọn ng̣
Thương em đứt ruột, giả đ̣ ngó lơ
- - Mù u bông
trắng, lá thắm, nhị (nhụy) vàng,
Anh đi khắp xứ, tới đây mới gặp nàng thiệt dễ
thương
- - Mẹ mong gả
thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
Thương anh cũng muốn theo anh
Ngặt cha với mẹ không đành th́ sao?
Cũng như các phần khác của đất nước, ca dao miền Nam thể
hiện rơ nét phong cảnh, sinh hoạt, đồng ruộng màu mỡ,
sông rạch của miền Nam. Đời sống t́nh cảm của người dân
cũng trải rộng với thiên nhiên, sông nước:
- -Bớ chiếc
ghe sau, chèo mau anh đợi
Qua khỏi chỗ này lùm bụi tối tăm.
- - Cầu cao
ván yếu,
Con ngựa nhỏ xíu nó kiệu tứ linh
Em đi đâu tăm tối một ḿnh
Hay là em có tư t́nh với ai?
- - Tàu Nam
Vang chạy ngang cồn cát,
Xuồng câu tôm bơi sát mé nga
Thấy em cha yếu mẹ già
Muốn vô hoạn dưỡng biết là được chăng
- -Mười giờ xe
lửa nhỏ bỏ chợ Bến Thành,
Xúp lê kia dạo thổi, bộ hành xôn xao.
Đối với những t́nh cảm nhẹ nhàng khác, t́nh gia đ́nh
chẳng hạn, cách diễn tả ở miền Nam cũng đơn giản và thực
tế hơn:
- - Râu tôm
nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon
- - Chim quyên
ăn trái nhăn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
- - Sông dài
cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ, mấy năm cũng chờ
- khác hẳn với tính sâu
sắc, nên thơ như ở miền Bắc:
- Hôm qua ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ...
...Đá ṃn nhưng dạ chẳng ṃn
Tào khê nước chảy vẫn c̣n trơ trơ.
- hay thâm trầm như ở
miền Trung.
- Chồng chài, vợ lưới,
con câu
Sông Ngô, bể Sở, biết đâu bến bờ?
Khi nên tay kiếm tay cờ
Không nên th́ cũng chẳng nhờ cậy ai
- Qua ca dao chúng ta có
thể t́m thấy nhiều từ rất thông dụng ở miền Nam. Đây là
nguồn tài liệu quan trọng cho những ai muốn khảo cứu về
ngữ âm miền Nam:
- - Nước rong
(8) nước chảy tràn đồng
Tơ duyên có đó, chỉ hồng chưa xe
- Nước ṛng bỏ băi xa cừ
Mặt em có thẹo, anh trừ đôi bông
- - Bậu nói
với qua bậu không hái mận bẻ đào
Chớ mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay.
- - Mưa lâm
thâm, ướt dầm bông sói
Bậu đi lấy chồng, sao không nói anh hay?
- ...
4/ Tính chớt nhả, cắt cớ:
- Tính phóng khoáng trong
cuộc sống ở miền Nam thể hiện rất rơ nét trong ca dao
miền Nam, tính chất này c̣n được đẩy xa hơn, trở thành
chớt nhả. Hơn đâu hết, chính miền Nam là nơi người ta
t́m thấy dễ dàng sự cắt cớ, sống sượng đến độ bất ngờ
khiến người trong cuộc (dù có học) chưa chắc thoát ra
được. Cô gái đang làm việc dưới ruộng, ḿnh mẩy dầy bùn
śnh, hỏi chàng trai đang ở trên bờ:
- Hai tay em
cắm xuống bùn
Ḿnh mẩy lấm hết, chớ anh hun chỗ nào?
chàng trai trả lời tỉnh bơ:
- Cầu trời đổ
trận mưa rào
Bùn śnh trôi hết, chỗ nào anh cũng hun!
Chàng trai, muốn đặt cô gái vào t́nh trạng khó xử, sống
sượng yêu cầu
- Đôi ḿnh mới
gặp ngày nay
Cho hun một cái em Hai đừng phiền
- chàng trai đắc ư, tưởng
sẽ nhận được ở cô gái sự e thẹn, hay lời rủa sả hay một
cái bộp tai; không dè cô gái không phải tay vừa,
đốp chát liền:
- Ừ, muốn hun
th́ hun cho liền
Đừng làm thố lộ xóm giềng cười em
- trong trường hợp nếu
bạn là chàng trai đó bạn làm sao? không biết bây giờ ai
là người bị lúng túng, ở đây chàng trai chẳng những
không lúng túng mà c̣n liều lĩnh sống sượng hơn, lỡ rồi
đành tới luôn:
- Tui hun ḿnh
dẫu có la làng
Th́ tui ra đó hai đàng chịu chung
Tui hun ḿnh dẫu có làm hung
Nhơn cùng tắc biến, tui chun xuống sàn (9)
- Về tính cắt cớ, muốn
đặt đối phương vào trong những t́nh huống khó tháo gỡ,
chúng ta thường gặp trong những câu ḥ đố. Nếu ở ngoài
Bắc những câu hát đố luôn có tính nghiêm trang, có tính
"bác học" đến độ chúng ta phải đặt dấu hỏi liệu đó có
phải là sản phẩm của lớp b́nh dân ít học? xin đơn cử:
- ...Chùa nào mà
lại có hang
Ở đâu lắm gỗ thời chàng biết không?
Ai mà xin được túi đồng
Ở đâu lại có con sông ngân hà
Nước nào dệt gấm thêu hoa...
...Chùa Hương Tích mà lại có hang
Trên rừng lắm gỗ thời nàng biết không?
Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng
Trên trời lại có con sông ngân hà
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa...
- hay những câu hát đố
đẹp và hay như một bài thơ:
- Đố ai biết lúa
mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng
Đố ai quét sạch lá rừng
Để tôi khuyên gió, gió đừng rung cây...
- ở miền Trung, chúng ta
có câu:
- Đố anh con rít
mấy chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người (10)
- th́ ở miền Nam, chúng
ta khó t́m thấy những câu ḥ, câu hát đố có tính trữ
t́nh như thế, nhưng chúng ta lại tim thây khá nhiều
những câu có tính buộc thắt, khiến đối phương phải rất
nhanh trí để thoát khỏi thế bí, và như chúng ta sẽ thấy,
họ "thoát hiểm" rất dễ dàng và gài lại đối phương. Những
câu sau đây sưu tập được từ Vĩnh Long (11)
- -Thấy anh ăn
học có thi
Em đây xin hỏi con chi không đầu
Sao em lại hỏi cơ cầu
Thượng cầm hạ thú, không đầu là con cua
- - Thấy anh
theo dơi bút nghiên
Em đây xin hỏi, trời nghiêng bên nào
Anh từng đọc sách bên Tàu
Đất nghiêng th́ có, trời nào đâu nghiêng
- - Thấy anh
ăn học lảu thông
Em đây xin đố, khăn lông có mấy đường
Em về đếm hết cỏ vườn
Lại đây anh nói mấy đường khăn lông
- - Thấy anh
ăn nói có tài
Em đây xin đố cây xoài có mấy bông
Em về đếm cá dưới sông
Lại đây anh nói mấy bông cây xoài.
Những câu trên có cùng một dạng thức, điều đó chứng tỏ
có thể từ một người làm ra, nhưng trong một đám cưới ở
một vùng nông thôn thuộcVĩnh Long, trong đêm nhóm họ ở
nhà cô dâu, chính người viết đă nghe ít nhất có hai câu
đố trên, tất nhiên không thấy có câu trả lời thích đáng
từ đối phương. Cũng có những câu đố mắc mỏ, không mong
ǵ t́m được câu trả lời xác đáng:
- Đố ai kiếm
được
Cái vảy con cá trê vàng,
Lá gan con tép bạc
Mấy ngàn em cũng mua.
chỉ c̣n nước trả lời theo kiểu huề vốn:
- Kiếm đâu cho
được
Cái vảy con cá trê vàng,
Lá gan con tép bạc
Để nàng chịu mua?
III. Vài cảm nghĩ
- Trong những phần trên,
chúng ta đă lượt qua một vài đặc sắc của ca dao miền
Nam. Trong khuôn khổ của bài báo, người viết không thể
tŕnh bày hết những nét đặc thù của ca dao miền Nam nói
riêng cũng như những dạng văn chương truyền khẩu khác
như ḥ, vè... nói chung. Điều đáng nói là văn hóa miền
Nam chưa có chỗ đứng dúng đắn trong văn học sử của Việt
Nam, cũng chưa được đề cập một cách đầy đủ trong chương
tŕnh học ngày trước (và cả ngay bây giờ). Chúng ta có
thể có nhiều cách giải thích. (1) Có lẽ do người viết
chương tŕnh của bộ giáo dục trong những năm đầu chuyển
tiếp từ chương tŕnh Pháp sang chương tŕnh Việt (và cả
những vị về sau, trong các chương tŕnh cải tổ) không có
tài liệu nhiều về văn học trong Nam; hay (2) người viết
chương tŕnh không biết ǵ về văn học trong Nam; hay (3)
người viết chương tŕnh cho rằng văn học trong Nam quá
nôm na, không có vẻ "bác học"; hay (4) đơn giản hơn hết
là văn học trong Nam chưa có đủ chiều dài về thời gian
để có chỗ đứng trong văn học sử... Dù v́ bất cứ nguyên
nhân nào, chúng ta đă không dành một chỗ đứng thích đáng
cho văn học trong Nam. Chúng ta đă bỏ quên tính đại
chúng trong giáo dục, phần nào, chúng ta đă tự tách rời
người có học với quần chúng; và quần chúng này, tuyệt
đại đa số là những người có rất ít những liên hệ văn hóa
với những phần đă được dạy ở nhà trường. Làm thế nào đại
đa số quần chúng ở miền Nam ấy có thể hiểu và thông cảm
với những ǵ mà chính họ, hay con cái của họ đă nhận
được từ trường, khi những điều đó không thấy được thể
hiện quanh họ? - Mặc dù không thể không nói đến những
đóng góp về văn học Việt Nam do những nhà văn, nhà báo
tiền phong (mà hầu hết đều xuất thân từ phân nữa trên
của đất nước), nhưng sự mất cân đối trong chương tŕnh
học đă làm học sinh trở thành xa lạ với môi trường họ
đang sống, trở thành vong thân với chính xă hội của họ.
- Ngày nay, phần nào văn
chương b́nh dân của miền Nam đă đi vào đời sống qua các
bài hát dựa vào các điệu lư, điệu ḥ. Nếu cách đây ít
lâu, ngoại trừ lănh vực cải lương, cổ nhạc Nam phần, ca
sĩ dù người miền Nam, tŕnh bày những bài hát về miền
Nam cũng ráng tập phát âm bằng giọng Bắc, càng chuẩn
càng tốt, không dám hát bằng giọng Nam sợ bị chê là quê
mùa, th́ bây giờ nhạc sĩ, ca sĩ (có cả người gốc ngoài
Bắc) dùng hẳn giọng Nam để sáng tác, để hát, không có
cái "mặc cảm" quê mùa như trước. Thử tưởng tượng Phi
Nhung hát bài Lư con Sáo Bạc Liêu (Phan Ni Tấn) bằng
giọng Bắc th́ nó ra làm sao? C̣n những bài khác nữa:
Tiếng Hát Chim Đa Đa (Vơ Đông Điền), Bài T́nh Ca Đất
phương Nam (Lư nhất Vũ - Lê Giang), Chiếc Áo Bà Ba (Trần
Thiện Thanh), C̣n Thương rau đắng mọc sau hè (Bắc Sơn),
Điệu Buồn Phương Nam (Vũ Đức Sao Biển)... làm thế nào để
ca sĩ diễn tả tính Nam bộ trong các bài hát đó bằng
giọng Bắc. Cũng vậy, ngày xưa lúc ban Hợp Ca Thăng Long
hát bài Tiếng Sông Cửu Long (trong trường ca Hội Trùng
Dương), nghe Thái Thanh ngâm:
- Chẻ tre bện
sáo cho dày
Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp em
- hay th́ có hay, nhưng
thấy nó vẫn là lạ.
- Cũng nhân đây, xin nói
thêm về cái thiếu hiểu biết về miền Nam, hay coi nhẹ
tinh thần Nam bộ, mà các tác giả về mọi lănh vực đă
không đặt nặng việc sử dụng đúng ngôn ngữ trong Nam cho
các công việc của họ. Trong Việt Nam Sử Lược, khi nói về
Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, sử gia Trần Trọng Kim chỉ
dùng Nguyễn Hữu Kính, người dân miền Nam không thể nhận
ra đó là vị Chưởng Cơ đă có rất nhiều công trong việc
xây dựng và bảo vệ phần đất này trong giai đoạn đầu.
Cũng vậy, khi Phạm Duy viết đến miền Nam (trong Con
Đường Cái Quan) đă dùng:
- Giả ơn cái
cối cái chày
Đêm khuya giả gạo có mày có tao
Giả ơn cái nhịp cầu ao
Đêm khuya vo gạo, có tao có mày
- Không ai có ư kiến ǵ
về lănh vực âm nhạc mà nhạc sĩ Phạm Duy đă là bậc thầy,
nhưng cách dùng chữ, rơ ràng là ông vẫn c̣n ảnh hưởng
miền Bắc nên không dùng đúng những chữ mà người miền Nam
đă dùng. Nghe nó ngọng nghịu và làm giảm ít nhiều giá
trị đích thực của bài hát. Người miền Nam không ai nói
"giả ơn" mà nói "trả ơn" hay "cám ơn". Chúng ta cũng có
thể bỏ qua v́ cứ xem người "lữ khách" của Phạm Duy chỉ
mới vừa vào miền Nam, chưa đổi được thói quen của ḿnh;
nhưng "cầu ao" để vo gạo th́ không có. Ở miền Nam chỉ có
"cầu nước, cầu nhủi", đơn giản v́ miền Nam không có ao
(trừ ao Bà Om của Người Miên ở Trà Vinh, một địa điểm để
du ngoạn, cắm trại), miền Nam chỉ có hồ, đ́a, đầm, vũng,
giếng...
- Chúng ta phải chấp nhận
tính đơn giản mộc mạc... của miền Nam như là một đặc thù
của văn chương ở vùng đất non trẻ này của đât nước,
chúng ta không có mặc cảm ǵ về sự nôm na, chất phác của
lớp người b́nh dân ấy. Trả lại cho văn chương và văn hóa
miền Nam chỗ đứng đúng đắn trong văn học sử là việc nên
làm, phải làm. Công việc đó qui mô và cần công sức của
nhiều học giả, nhà nghiên cứu, của nhiều người. Bài viết
này xin được là một đóng góp nhỏ cho công việc to lớn
ấy.
- Tài liệu Tham Khảo:
- 1. Việt Nam Sử Lược
(Quyển II) - Trần Trọng Kim -Trung Tâm học Liệu xb 1971
- 2. Việt Sử Tân Biên
(Quyển 3) - Phạm văn Sơn - Cơ sở xuất bản Đại Nam (in
lại)
- 3. Đồng Bằng Sông Cửu
Long hay là Văn Minh Miệt Vườn - Sơn Nam - Nhà xuất bản
Xuân Thu (in lại)
- 4. Lịch Sử Khẩn Hoang
Miền Nam - Sơn Nam - Nhà xuất bản Xuân Thu (in lại)
- 5. Tiến Tŕnh Văn Nghệ
Miền Nam - Nguyễn Q. Thắng - Văn Hiến xb 1994
- 6. Sưu tầm Ca Dao Đồng
Bằng Cửu Long - Tài liệu in roneo, trung học Tống Phước
Hiệp - Vĩnh Long.
- Chú thich
- (1) - Trong toàn bài,
những câu in nghiêng, theo thiển ư của người viết,là
những câu trong miền Nam.
- (2) - Năm 1708, đời
Nguyễn Phúc Chu
- (3) - Kinh Vĩnh Tế,
Kinh Thoại Hà (Kinh Núi Sập) do Thoại Ngọc Hầu đốc xuất
dân binh đào.
- (4) - Trong chuyện Săi
Văi của Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) ta thấy c̣n rất
nhiều từ không có ở ngoài Bắc, nhưng lại vẫn c̣n dùng
trên cửa miệng của dân miền Nam như dươn (duyên), làm
riết, tu hoài tu huỷ, cho xuê, hây hây, ấm cật, bậu,
xinh ghê...
- (5) - Tức Chưởng Cơ
Nguyễn Hữu Cảnh, cù lao thuộc huyện Chợ Mới - Long
Xuyên, An Giang,
- (6) - Phiên âm chữ
"bonjour" (tiếng Pháp)
- (7) - Cũng có chỗ đọc:
Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thủy
- Chợ Sài g̣n xa, chợ
Mỹ cũng xa...
- không biết có loại cúc
nào mà mọc dưới sông?
- (8) - Nước rong:
nước lớn do thủy triều cao, nước từ sông không đổ ra
biển được, chảy vào rạch, đồng ruộng; khác với nước
ṛng do thủy triều thấp, nước từ ruộng chảy ra rạch,
sông lớn.
- (9) - Một dị bản khác:
- Tui ôm, bậu
có la làng,
th́ tui ôm riết hai đàng xấu chung.
Tui ôm bậu có làm hung,
nói cùng bất quá tui chun xuống sàn
- (10) - Câu này nghe
được ở vùng Phan Rang Nha Trang. Không biết Cầu Ô ở đâu,
nhưng chợ Dinh có thể là chợ Kinh Dinh ở Phan Rang. Cũng
có người cắt nghĩa cầu Ô là cầu Ô Thước (trong
chuyện Ngưu Lang Chức Nữ), chợ Dinh là chợ tại
các Dinh, các Trấn ở miền Nam, nơi dân cư đông đúc.
- (11) - Sưu Tầm Ca
Dao Đồng Bằng Cửu Long - Tài liệu lưu hành nội bộ,
in roneo do Trung Học Tống Phước Hiệp - Vĩnh Long ấn
hành
|