Phục hiện một
điệu múa cổ gần 700 năm tuổi
Bài 1
Tương truyền điệu múa này có từ đời Trần nhưng
trong chính sử thì chưa thấy có sách nào ghi chép lại cụ thể.
|
Múa Bài Bông do bác sĩ người Pháp
Charles-Edouard Hocquard chụp vào đầu thế kỷ XX. |
Múa Bài Bông trong dân gian còn có một tên gọi khác là Bắt Bài Bông, là
một điệu múa nằm trong hệ thống các bản múa của nghệ thuật Ca trù (Gồm múa
Bỏ bộ, múa Tứ Linh, múa Bài Bông). Điệu múa này thường được sử dụng trong
các dịp đại lễ của chốn giáo phường, trong không gian uy nghi ở nơi cửa đình
khi hát thờ một năm thường được sử dụng hai lần và ngày giỗ tổ Ca trù và
tháng 3 và tháng 11 âm lịch. Bên cạnh đó trong không gian Cửa quyền tức là
hát tại các dinh quan, đám khao vọng chúc thọ lớn, điệu múa này cũng được sử
dụng, những nghệ nhân Ca trù vẫn coi điệu múa Bài Bông như một dùng để múa
chầu, múa ngự.
Tư liệu còn để lại cho thấy vào dịp Tứ tuần đại khánh (Mừng
thọ 40 tuổi) của vua Khải Định (năm 1924) thì đoàn ca công ở Thanh Hóa đã
đưa điệu múa này vào trong Huế để biểu diễn chúc thọ vua.
Tương truyền điệu múa này có từ đời Trần nhưng trong
chính sử thì chưa thấy có sách nào ghi chép lại cụ thể. Sách Việt Nam Ca
trù biên khảo có ghi chép lại là điệu múa Bài Bông là do Trần Quang
Khải dựng ra để ca múa trong ngày lễ Thái Bình diên yến do vua Trần
Nhân Tông tổ chức sau khi đánh thắng quân Nguyên – Mông lần thứ 3. Cũng
trong cuốn sách này có viết: “Múa Bài Bông là nhã nhạc của đế vương thịnh
điển nhất trong nhạc giới”.
|
Đoàn ca công Thanh Hóa trong dịp
tứ tuần đại khánh của vua Khải Định. |
|
Múa Bài Bông do bác sĩ người Pháp
Charles-Edouard Hocquard chụp vào đầu thế kỷ XX. |
Trong sách Tuyển tập thơ Ca trù, nhà thơ Ngô Linh Ngọc lại viết
rằng: Múa Bài Bông do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Về lai lịch
tác giả của điệu múa Bài Bông có thể chưa chắc chắn nhưng có nhiều dấu vết
có thể coi đó là một điệu múa của thời nhà Trần:
Thứ nhất: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông
xâm lược lần thứ 2, nhà Trần có bắt được con hát Tuồng tên là Lý Nguyên Cát
trong đám loạn quân của Toa Đô, sau đó Lý Nguyên Cát tự nguyện xin ở lại và
dạy hát Tuồng, trong đó có vở Vương mẫu hiến đào được các con em
vương hầu lúc bấy giờ tranh nhau học. Điệu múa Bài Bông còn lại cho đến ngày
nay thì về phần giai điệu ảnh hưởng khá nhiều chất nhạc của Tuồng trong đó,
mang ý chúc thọ với các động tác thể hiện hình ảnh hiến đào, dâng tửu rất
sang trọng và tao nhã.
Thứ hai: Điệu múa bài Bông có tất cả 9 màn; trong đó có
một màn được gọi là hay nhất, động tác và ca từ hay nhất thì lại trệch ra
khỏi ý nghĩa chung của nội dung điệu múa. Đó chính là bài Thời Hồ
(hay còn gọi là Đào viên kết nghĩa lấy tích trong Tam quốc khi Lưu
Bị - Trương Phi – Quan Công kết nghĩa vườn đào khuông phù Hán thất).
Tại sao giữa một điệu múa tưởng chừng để chúc thọ cầu
phúc cho muôn dân lại trệch ra một bài như vậy? Còn nhớ câu nói tổng kết của
thành công chiến thắng 3 lần chống quân Nguyên – Mông xâm lược Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn có nói do: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước
nhà chung sức” nên mới có được chiến thắng vang dội tạo nên hào khí Đông – A
của vương triều nhà Trần. Phải chăng lấy tích “Đào viên kết nghĩa” ở đây
chính là minh họa cho chính câu “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận” mà
Trần Quốc Tuấn đã nói.
Điệu múa Bài Bông được coi là báu vật của mỗi giáo phường.
Thông thường chỉ có giáo phường nào lớn mạnh hay được đi hát thờ ở mỗi dịp
tế lễ ở đình, ở dinh quan, hay vào kinh Chúc Hỗ hát chầu ngự vua mới có được
một đội múa Bài Bông, vì chi phí để thành lập một đội như vậy rất tốn kém.
Đội múa ít nhất là 4 người theo mức độ quan trọng của
không gian diễn xướng mà tăng số lượng người lên gấp đôi: hoặc 8 hoặc 16,
những dịp đại lễ thì phải 32 người múa.
Về trang phục các cô khi múa thì mặc áo mã tiền thêu kim
tuyến, chân áo đính chân chỉ hạt bột, trên mũ gắn một quả bông, hai vai bên
vai đeo đèn hình hoa sen, tay cầm quạt tầu, lúc thì xếp quạt, lúa xòe quạt
linh hoạt và trông rất vui mắt. Các cô đầu vừa múa và vừa hát, động tác múa
ứng hợp với lời hát đã được cách điệu đi nhiều, động tác múa lạ không giống
với bất cứ lối múa của các nghành nghệ thuật nào. Đi kèm với đội múa là một
đội nhạc: có Quản giáp cầm trống cái giữ nhịp, một người đánh đàn đáy, một
đàn nguyệt bốn dây (vẫn gọi là đàn tứ đoản); một đàn tam; một trống mảnh,
chiêng và trống cơm, lúc tấu nhạc khoan thai, vui tươi gợi nên cảnh thái
bình.
Múa Bài Bông gồm 9 màn nhưng trên thực tế chỉ diễn 6 màn
theo thứ tự: Một bài hát Kéo ra (Tựa như màn giáo đầu) – Bài hát
Xuân (Ca ngợi cảnh sắc tươi vui đất nước trong vào mùa Xuân, tương
tự như vậy có các bài Hạ - Thu – Đông, khi diễn xướng mà linh hoạt tùy theo
tiết mùa mà đổi bài hát) – Sau bài hát Xuân đến bài hát Khách
– Tiếp vào bài Thời Hồ (Tức là Đào viên kết nghĩa) – Tiếp tục là
một bài hát Khách và kết thúc là bài Kéo vào. Múa đủ 6 màn
hết gần một tiếng. Từ trước đến nay hiếm có một điệu múa nào kéo dài được
như thế.
Trong chốn giáo phường vẫn coi điệu Bài Bông là một điệu
múa chúc thọ, nhưng trên thực tế khi tìm hiểu và phân tích ý nghĩa thông qua
sự sắp xếp các màn múa, mức độ quan trọng, những dấu hiệu đặc biệt khi phân
tích bài Thời Hồ thì thấy có thể đây không phải đơn thuần là một
bài múa mang tính chất chúc thọ mà chính là điệu múa xưng tụng cảnh đất nước
thanh bình cũng như ý nghĩa thành công của việc 3 lần chiến thắng quân
Nguyên – Mông xâm lược tạo nên hào khí Đông – A của vương triều nhà Trần.
Tất nhiên phân tích cặn kẽ ý nghĩa điệu múa này đòi hỏi một cứ liệu khoa học
chắc chắn, điều chúng tôi nói ra cũng chỉ là một tham khảo bước đầu đối với
điệu múa đặc biệt này.
Hiện còn một số tư liệu liên quan đến điệu múa Bài Bông:
Đầu tiên phải kể đến bức ảnh của đòan ca công Thanh Hóa
chụp tại Huế trong dịp Tứ tuần đại Khánh của vua Khải Định, trong bức ảnh
thấy rõ một đội múa Bài Bông với quần áo đặc biệt và tay cầm quạt tầu.
Thứ hai là hai tấm ảnh của bác sĩ Charles-Edouard
Hocquard, một vị bác sĩ quân y đã theo đoàn viễn chinh Pháp sang Việt Nam
đầu thế kỷ 20, ba tấm ảnh trên được lấy tại trang web của ông về hình ảnh
một đội múa Bài Bông đầu thế kỷ.
Năm 1945, giới nghệ sĩ Hà Nội đã tổ chức một buổi diễn
tại nhà hát lớn nhằm quyên góp ủng hộ chính phủ trong tuần lễ vàng và lấy
tiền cứu đói. Trong đó những nghệ sĩ như Quách Thị Hồ, Chu Thị Năm… diễn vở
Lưu Bình - Dương Lễ; cụ Quản ca giáo phường Khâm Thiên lúc bấy giờ
là cụ Phó Đình Ổn thì dựng múa Bài Bông, họa sĩ dựng sân khấu bấy giờ là ông
Lưu Văn Sìn. Từ đó cho đến bây giờ thì múa Bài Bông chưa được diễn lại một
lần nào.
Năm 1980, đoàn làm phim Hát cửa đình Lỗ Khê của
Trung tâm nghe nhìn Hà Nội định dựng lại điệu múa Bài Bông, nhưng đáng tiếc
do thiếu kinh phí nên không thể dựng được. Tuy vậy cũng có thu được một phần
nhạc của điệu múa Bài Bông do nghệ sĩ Kim Đức dựng lại.
Nghệ sĩ Kim Đức là con gái của Quản ca Phó Đình Ổn cho
đến giờ là người duy nhất còn lại, giữ được điệu múa Bài Bông, bà chính là
một trong những vũ công năm xưa trình diễn tại nhà hát lớn điệu múa sang
trọng vào bực nhất của Ca trù này. Hiện giờ bà đang cùng một nhóm nghệ sĩ
dựng lại điệu múa Bài Bông để biểu diễn tại lễ hội Yên Tử rất có thể tại lễ
hội Yên Tử năm 2008 này, một điệu múa cổ có được gần 700 năm tuổi lại xuất
hiện tại khu danh thắng ghi những dấu ấn văn hóa, tâm linh quan trọng nhất
của triều đại nhà Trần.
Bài 2
Lên Yên Tử xem múa Bài Bông, Lục cúng
hoa đăng
|