| |
|
Thử
Phát Hoạ Chân Dung Người Lính Thời Xưa
Đào Đức Nhuận
Hơn bốn ngàn năm lập quốc, ngay từ những năm tháng sơ
khai, dân tộc ta đă phải đương đầu với tai họa chiến tranh. Cuộc chiến
đấu vệ quốc đầu tiên của dân tộc Việt Nam xảy ra dưới thời Hồng Bàng, cách
nay hơn 4 ngàn năm. Truyền thuyết kể rằng : “ Đời Hùng Vương thứ 6 có đám
giặc gọi là giặc Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao
trong nước để t́m người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù
Đổng, bộ Vơ Ninh (nay là huyện Vơ Giàng, tỉnh Bắc Ninh) có đứa trẻ xin đi
đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đ̣i vào chầu.
Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc
xong th́ đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng,
rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn th́
biến đi mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là
Phù Đổng Thiên Vương.” (1). Đứa-trẻ-chiến-binh của làng Phù Đổng – chính là
đại biểu của tuổi trẻ Việt Nam, một tuổi trẻ giàu ḷng yêu nước – trải qua
mấy ngàn năm lịch sử vẫn được nhân dân ta gọi là Thánh Gióng ! Và h́nh ảnh
của người chiến sĩ đầu tiên đó đă được nhân dân ta nhắc đến với một tấm ḷng
kính phục và biết ơn sâu sắc :
Nhớ xưa đương thuở triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo măng nổi ra kỳ tài
Lên ba đang tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹï gót thần tiên lên trời !
Và để tưởng nhớ người chiến binh anh hùng
đầu tiên của dân tộc, không biết tự bao giờ, cứ vào ngày 9 tháng Tư âm lịch,
nhân dân quanh làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng, thuộc huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh lại tổ chức ngày Hội Gióng :
Mồng bảy hội Khám
Mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu
Th́ về hội Gióng
Đây là một ngày lễ hội thật tưng bừng, diễn
lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân xâm lăng, bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ
cho tổ quốc Việt Nam c̣n trong thời kỳ non trẻ:
Giáo gươm, cờ xí trùng trùng,
Hàng năm mở hội tưng bừng vui thay !
Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày,
Uy phong rạng rỡ đến nay c̣n truyền !
Và tiếp sau cuộc chiến đấu hào hùng của
người chiến binh làng Gióng, lịch sử nước ta đă phải trải qua bao nhiêu cuộc
chiến tranh chống lại nạn xâm lăng của người phương Bắc? Nhân dân ta đă phải
chống trả lại bao nhiêu cuộc chiến tranh chống lại nạn quấy phá của các
nước láng giềng Lăo Qua, Bồn Man, Chiêm Thành hay của người Nùng, người
Thái ở miền thượng du đất Bắc đến người sắc tộc thiểu số thuộc dăy Trường
Sơn ? Và nhân dân ta đă phải tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh gọi là “mở
mang bờ cơi về phương Nam” ? Nhân dân ta đă phải tham gia bao nhiêu cuộc
chiến tranh để đàn áp các phong trào nổi dậy của quần chúng bị áp bức ? Và
nhân dân ta đă phải tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh tranh quyền đoạt vị
giữa các ḍng họ từ loạn 12 sứ quân (945-967) của buổi đầu quốc gia độc lập
đến những cuộc đánh nhau giữa Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn, Nguyễn – Tây Sơn
với khoảng thời gian 300 năm dài loạn lạc bắt đầu từ ngày Mạc Đăng Dung
thoán ngôi vua Lê (1527) đến ngày Nguyễn Ánh thống nhất đất nước lên ngôi
cửu ngũ gọi là vua Gia Long (1802) ? Nói thế không có nghĩa là từ ngày Gia
Long trị v́ đất nước ta đă thôi loạn lạc đâu. Thời Gia Long (1802-1819) hàng
chục th́ từ thời Minh Mang (1820-1840) và các vua kế tiếp đă có hàng trăm
cuộc dấy loạn của đám nông dân nghèo khổ nổi lên chống lại sự cai trị hà
khắc của triều đ́nh nhà Nguyễn.
Lịch sử dân tộc đă ghi lại bao nhiêu chiến
công oanh liệt của tiền nhân với những tên tuổi lẫy lừng từ Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương đến Ngô Quyền, Lư Thướng Kiệt, Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung . . . với hàng hàng, lớp lớp những chiến binh anh
hùng đă đem xương máu tài bồi cho nền độc lập của Tổ Quốc ! Vậy mà, lịch sử
văn học của ta hầu như không để lại một thiên anh hùng ca nào để vinh danh
cho những anh hùng hoặc hữu danh hoặc vô danh của dân tộc, ngoại trừ những
đoạn mô tả lại h́nh ảnh hào hùng của các bậc anh hào nữ kiệt trong các tác
phẩm diễn ca lịch sử như Thiên Nam Ngữ Lục của Vô danh thị hay Đại Nam Quốc
Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đ́nh Toái !
Và một phần nữa là ở trong Ca Dao.
Mà người lính trong ca dao dù có được nhắc
đến cũng không phải là nhiều so với những công trạng, những thử thách, những
gian nguy khổ ải mà họ đă phải gánh chịu qua suốt dọc trường kỳ lịch sử của
Dân Tộc. Vả lại, ngày nay có căn cứ theo ca dao để phác họa lại chân dung
của người lính thời xưa th́ cũng khó mà phác họa một cách trung thực, bởi
lẽ, ngay trong thời kỳ quốc gia độc lập, trải qua nhiều triều đại cầm quyền,
h́nh ảnh của người lính chắc cũng không có những thay đổi ǵ nhiều trong
cách trang phục và những vũ khí mà họ sử dụng. Và sự thay đổi có xảy ra cũng
chỉ là từ khi ta chịu ảnh hưởng phần nào của người Tây phương khi ta bắt đầu
giao tiếp với họ bằng con đường tôn giáo và thương mại. Vả lại, số ca dao
c̣n lai mô tả về người lính cũng không phải là nhiều so với lượng ca dao đă
được sưu tập !
Dưới đây, người viết thử phác họa lại h́nh
ảnh của người lính thời xưa, cái thời mà nền văn minh của nước ta chưa tiếp
xúc với nền văn minh Tây phương. Dĩ nhiên đây chỉ là h́nh ảnh người lính
chiến thời xưa được dân chúng khắc họa một cách không hoàn hảo, và cũng dĩ
nhiên là ta không rơ đó là h́nh ảnh người lính chiến thuộc triều đại nào của
lịch sử Việt Nam :
Ngang lưng th́ thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng
dài.
Một tay th́ cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống
thuyền . . .
Dưới đây là h́nh ảnh của người lính thời xưa
trong một bài ca dao khác:
Lệnh bài sai trẩy Cao Bằng
Cái khăn màu đằng, cái áo màu vang
Ngang lưng anh thắt đai vàng
Vai vác quyển súng, tay mang ḥm ng̣i . . .
Và trong một bài khác nữa:
Ngang lưng th́ thắt cái bao
Vai vác khẩu súng con dao nạp rừng
. . . . . .
Vua ban cái áo mĩ miều
Nửa nhuộm màu điều, nửa nhuộm màu xanh . . .
Qua những câu được trích dẫn ở trên, ta thấy h́nh ảnh
người chiến binh thời xưa được mô tả như sau :
Đầu đội nón dấu : nón dấu là loại nón được đan bằng
tre, có chóp, dùng cho binh lính thời xưa. Đôi khi, người lính c̣n chít khăn
trên đầu trước khi đội nón (cái khăn màu đằng. Màu đằng là màu tím)
Chiến y của người lính xưa thường là màu đỏ
:
Lệnh triều sai trẩy Cao
Bằng
Cái khăn màu đằng, cái áo màu
vang
Màu vang tức là màu đỏ. Ta có thành ngữ : “đỏ như vang”
Hay trong câu :
Vua ban cái áo mĩ miều
Nửa nhuộm màu điều, nửa nhuộm
màu xanh
Trong bản dịch Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn
Thị Điểm (cuối thế kỷ thứ 18), ta cũng thấy người chiến binh mặc áo đỏ :
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là
tuyết in.
Ngang thắt lưng có thắt một cái hầu bao màu
vàng :
Ngang lưng th́ thắt bao vàng. .
.
Ngang lưng anh thắt đai vàng. .
.
Và vũ khi của người lính th́ quá nhiều :
Này nhé :
- Súng vác vai, hỏa mai tọng nạp
Gươm tuốt trần, giáo cắp, mộc
mang
- Ngang lưng anh thắt bao vàng
Vai vác quyển súng, tay mang ḥm
ng̣i
- Đầu đội nón dấu, vai mang súng
dài
Một tay thời cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống
thuyền. . .
Súng đây là loại súng bắn đá gọi là “thạch
cơ điểu thương”
Nhiệm vụ chính của người chiến binh là đi
đánh giặc:
Chẻ tre đan nón
Tá lư khăn xanh
Đánh giặc vùng Thanh
Những khe cùng núi
Những suối cùng đèo
Phận lính th́ nghèo
Tiền lương gạo hết . . .
Ngoài nhiệm vụ đánh giặc (?), người lính
thời xưa c̣n phải làm muôn ngàn công việc vất vả cực nhọc :
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày th́ canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai . . .
Hay: Bài sai anh trẩy trấn Hưng
Đi những đường rừng, uống những nước khe
Ngày thời chém tre
Tối vào canh lũy . . .
Đó là những công việc của người lính ở ngoài
biên ải, ở chốn chiến trường : vất vả, gian nan, luôn luôn phải đối đầu với
cái chết. Nhưng người lính ở hậu phương nào có khác ǵ. Ngay người lính ở
kinh đô cũng phải làm muôn vàn công việc vất vả, gian nan, đầy nguy hiểm.
Chẳng hạn, đây là số phận của người lính dưới thời vua Tự Đức : “Đến năm
Bính Dần (1866) là năm Tự Đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn Niên Cơ tức là
Khiêm Lăng bây giờ, quân sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận”
(2). Có thể nhân ḷng dân quân oán hận nhà vua mà những người chủ trương
cuộc nội loạn lật đổ nhà vua đă cho loan truyền câu ca dao sau đây để kích
động ḷng dân chúng :
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thánh xây xương lính, hào đào
máu dân !
Ngoài những công việc nặng nhọc, hiểm nguy,
người lính lại phải chấp nhận một cuộc sống vật chất thiếu thốn, đầy kham
khổ :
. . . Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang, cùng nứa lấy ai bạn
cùng ? !
. . . Lệnh bài sai anh trẩy trấn
Tuyên
Muối rang khô đúc vô ống nứa
Gạo nhà chùa bán chợ không đâm . . .
Trên đây là những ghi nhận sơ lược về nhiệm
vụ và đời sống vật chất thiếu thốn của người lính thời xưa. C̣n đời sống
t́nh cảm của họ th́ sao?
Ngoại trừ trong những giai đoạn chống giặc
xâm lăng phương Bắc hay chống lại những cuộc chiến tranh phá hoại của các
lân bang như Lăo qua, Bồn Man, Chiêm Thành là lúc tinh thần người lính phấn
chấn, họ nhận rơ được trách nhiệm của họ đối với quốc gia, dân tộc, c̣n
trong những giai đoạn nhiễu nhương của đất nước, tinh thần của họ thật sa
sút. Trước hết, họ thấy ḿnh thật cô đơn. Trấn thủ nơi biên ải, họ cảm thấy
như ḿnh bị đi đày và không c̣n biết tin vào ai, biết nương cậy vào ai. Ai
cũng có thể làm cho họ nghi ngờ. Họ chỉ biết tin vào định mệnh khắt khe,
định mệnh tàn nhẫn, thế thôi :
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng!
Thân ở nơi biên ải mà hồn th́ vưởng vất chốn
quê nhà, thương cha thương mẹ, thương vợ thương con, ngàn mối lo không cách
nào xoay xở nổi :
Thương nàng đă đến tháng sinh
Ăn ở một ḿnh, trông cậy vào ai?
Rồi khi sinh gái sinh trai
Sớm khuya mưa nắng lấy ai bạn cùng?
Ở ngoài biên trấn, nỗi lo âu như quấn chặt
lấy họ. Lo ǵ? Nghĩ ǵ? Trăm mối lo ngổn ngang trong ḷng :
Lính anh lính mới chưa từng
Vai vác khẩu súng nửa mừng nửa lo
Gánh nặng chả ai đỡ cho
Cơn nặng th́ ít, cơn lo th́ nhiều!
Chính những nỗi lo âu dằn vặt tâm hồn họ. Họ
cảm thấy thực sự bế tắc trong cuộc đời binh ngũ, v́ vậy, khi có lệnh xuất
quân, họ có cảm nghĩ như ḿnh sắp đi vào tử địa. Cái tâm trạng lo âu sợ hăi
đă bộc lộ một cách hết sức chân thật bằng những giọt nước mắt chua cay khi
có lệnh xuất quân :
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt
như mưa.
Khi nghe tiếng trống xuất quân đổ liên hồi, chàng chiến
binh với cái mă ngoài đầy hào hùng với những “súng dài, hỏa mai, giáo” đă ̣a
lên khóc ! Tội nghiệp ! Có thể chàng khóc v́ phải xa cha mẹ, vợ con. Có thể
chàng khóc v́ nhiều lư do khác nhau. Nhưng chưa hẳn chàng là người hèn nhát.
Có thể chàng đă khóc v́ một lư do chính đáng : chàng không muốn ḿnh phải hy
sinh vô nghĩa trong một cuộc chiến tranh tương tàn, tranh quyền đoạt vị giữa
các ḍng họ.
Đây nầy :
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
!
Cuộc chiến tranh nào đây ? Đây là cuộc chiến
tranh của ḍng họ vua Lê và chúa Trịnh t́m cách tiêu diệt ḍng họ Mạc đang
dùng Cao Bằng làm căn cứ địa cuối cùng để chống với nhà Lê !
Và đây :
Ḱa ai tiếng khóc nỉ non
Ấy vợ chú lính trèo ḥn Đèo
Ngang ! . . .
Cuộc chiến tranh nào đây ? Đây là cuộc chiến
tranh giữa một bên là vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với một bên là Chúa
Nguyễn ở Đàng Trong !
Và đây nữa :
Tiếng ai than khóc nỉ non
Ấy vợ lính mới trèo ḥn Cù
Mông. . .
Cuộc chiến tranh nào đây ? Đây là cuộc chiến
tranh giữa chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn !
Chắc chắn chàng không phải là người chiến
binh dưới ngọn cờ hào hùng của Ngô Quyền trong trận thư hùng trên sông Bạch
Đằng đánh tan đoàn quân xâm lăng Nam Hán giành lại nền Độc Lập cho Tổ quốc
Việt Nam năm 939 !
Chắc chắn chàng không phải là người chiến
binh dưới hàng quân của Lư Thường Kiệt đă từng vượt biên giới Việt Hoa đuổi
quân nhà Tống chạy cách xa biên giớiù hàng trăm dặm và sau đó đă đánh tan
quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt để giữ vững ngọn cờ Độc Lập của Quốc gia
:
Nam Quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
(Sông núi nước Nam : vua Nam coi.
Rành rành phận định ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Bay sẽ tan tành chết sạch toi!)
( Lư Thường Kiệt – Hoàng Xuân Hăn dịch)
Chắc chắn chàng không phải là người chiến binh dưới ngọn
cờ bách thắng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 3 lần chiến thắng đoàn quân
Nguyên hùng hổ nhất thời bấy giờ đă từng kéo quân từ Âu sang Á và đến Việt
Nam phải khuất phục dưới sức đề kháng kiên cường của quân dân thời nhà Trần
!
Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan !
Chắc chắn chàng không phải là người chiến
binh của B́nh Định Vương Lê Lợi xuất quân từ Lam Sơn rồi kéo thẳng ra Đông
Đô đúng như ḷng ước nguyện của muôn dân :
Lạy trời cho cả gió lên
Cho cờ vua B́nh Định bay trên
kinh thành !
đuổi quân nhà Minh chạy về phương Bắc không dám ngoái
đầu lại nh́n đất Đại Việt oai hùng !
Chắc chắn chàng không phải là người chiến
binh dưới hàng quân của Quang Trung Nguyễn Huệ trong cái ngày xuất quân từ
Phú Xuân ra Bắc Hà để tiêu diệt đội quân xâm lăng của Tôn Sĩ Nghị đang nằm
chờ chết ở g̣ Đống Đa phía nam kinh thành Thăng Long ! “Tinh thần chiến đấu
của binh đội Tây Sơn theo nhận xét của nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc, rất
là cao. Người lính nào cũng gan dạ, thuần thục, một chống nổi mười nên đánh
đâu thắng đấy” (3) :
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già
!
Trên đây là những thời kỳ oai hùng trong
lịch sử dân tộc. Mọi người dân đều nêu cao tinh thần trách nhiệm của ḿnh
đối với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Đứng trước t́nh trạng sinh tử của
đất nước, họ đă nêu cao tinh thần ái quốc một cách triệt để. Mọi t́nh cảm
gia đ́nh đều được để riêng một bên, chỉ c̣n lại tinh thần trách nhiệm cao độ
của người con trai đối vối quốc gia:
Con c̣ lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng ơi trở lại cùng con
Để anh đi trẩy nước non kịp người
Cho kịp chân ngựa, chân voi
Cho kịp chân người kẻo thiếu việc quan!
Hay: Lên voi thúc một hồi c̣i
Thương cha, nhớ mẹ, lệnh đ̣i
phải đi!
Ngay cả người phụ nữ, những người mẹ, người
vợ cũng khuyên con, khuyên chồng làm tṛn nghĩa vụ của một người dân đối với
đất nước :
Khuyên anh đi lính cho ngoan
Cho dân được cậy, cho quan được
nhờ . . .
Họ khuyên chồng con đi lính, mọi việc gia
đ́nh họ hứa sẽ chu toàn cho người đàn ông khỏi bận tâm:
Chàng ơi, phải lính th́ đi
Cửa nhà đơn chiếc đă th́ có tôi
. . .
Chính tinh thần trách nhiệm của người đàn bà
(người vợ) cộng với tinh thần trách nhiệm của ḿnh mà người chiến binh đă có
thể an ḷng giao việc phụng thờ tiên tổ cho vợ hiền để chàng theo vua ra
trấn biên ải giữ vững an ninh cho Tổ quốc :
Khen ai khéo tiện ngù cờ
Khéo xây bàn án, khéo thờ tổ tiên
Tổ tiên để lại em thờ
Anh ra ngoài ải cầm cờ theo vua !
Đó thời kỳ của những ông vua v́ dân v́ nước.
Đó là thời kỳ của những bậc minh quân cai trị quốc gia. Đó là thời kỳ của
những Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Quang Trung Nguyễn Huệ – những v́ vua
đă đem lại vinh quang cho dân tộc!
Người chiến binh “bước chân xuống thuyền
nước mắt như mưa” như được trích ở trên có thể đă sinh ra trong một thời kỳ
đất nước đầy nhiễu nhương. Trước mắt chàng chỉ là h́nh ảnh tranh quyền đoạt
lợi giữa những thế lực phong kiến, chẳng hạn như giữa ḍng họ Mạc với ḍng
họ Lê tạo nên thời kỳ Nam Triều – Bắc Triều (1527-1592), giữa ḍng họ Trinh
và ḍng họ Nguyễn, giữa ḍng họ Nguyễn Tây Sơn với ḍng họ Nguyễn (Gia Long)
tạo nên thời kỳ Nam Bắc Phân Tranh kéo dài hàng hai trăm năm (1600-1802).
Chàng đă gia nhập quân đội trong cái tâm trạng bất đắc
dĩ như thế nên chẳng cần phải đợi giờ xuất quân chàng mới “nước mắt như
mưa”, mà ngay trong cái công việc phục dịch ở địa phương chàng cũng đă không
cầm được nước mắt v́ nghĩ đến cái thân phận bi thảm của ḿnh:
Nhà vua bắt lính đàn ông
Mười sáu tuổi rưỡi đứng trong công đường
Ai trông thấy lính chẳng thương
Đứng trong công đường nước mắt như mưa.
Vào những thời kỳ loạn lạc tranh ngội đoạt
vị giữa các ḍng họ Lê-Mạc-Trịnh-Nguyễn trong hơn 300 năm đó, trai tráng
phải chịu trăm cay ngh́n đắng v́ nạn bắt lính. Đây, ta hăy xem Thích Đại
Sán, một vị ḥa thượng Trung Hoa trong khi thi hành Phật sự ở xứ Đàng Trong
thời Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mô tả những điều mà Ngài đă mắt
thấy tai nghe trong tác phẩm Hải Ngoại Kỷ Sự : “Mỗi năm vào khoảng tháng ba,
tháng tư, quân nhân đi ra các làng, bắt dân từ 16 tuổi trở lên, những người
thân thwể cường tráng, đóng gông lại banmg một cái gông tre h́nh như cái
thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân. . .”(4) T́nh trạng bắt lính
như thế không phải chỉ xảy ra ở Đàng Trong, mà c̣n xảy ra ở Đàng Ngoài của
vua Lê chúa Trịnh ; không phải chỉ xảy ra trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh
(1627-1775) mà c̣n xảy ra trước đó dưới thời Nam Bắc Triều (1527-1592) giữa
ḍng họ Mạc và ḍng họ Lê:
Lính vua, lính chúa, lính làng,
Nhà vua bắt lính cho chàng phải
ra. . .
Hay: Vợ chồng mới cưới hôm qua,
Hôm nay đi lính xót xa muôn phần
Vợ chồng chưa kịp ái ân,
Nhà vua bắt lính lấy quân ở làng . . .
Binh chế không được quy định rơ ràng, thời
gian tại ngũ là bao lâu hầu như không được minh xác bằng một văn bản nhất
định như Thích Đại Sán đă ghi trong tác phẩm dẫn thượng: “ . . . tuổi chưa
đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ, vợ con đoàn tụ . . .” nên đă xảy ra
t́nh trạng người lính chỉ biết cầu mong mau hết giặc giă để được về quê
hương đoàn tụ với cha mẹ vợ con . Một câu hỏi nghe sao mà chua chát, một ước
vọng như một giấc mơ hăo huyền trong thời kỳ đất nước loạn ly:
Bao giờ bắt được giặc Khôi,
Cho yên việc nước chồng tôi mới
về.
. . . Bao giờ hết giặc hỡi trời !?
Bấy giờ ta mới về nơi quê nhà !
Một câu hỏi dường như không có câu trả lời.
Ta hăy nghe lời đối thoại của một cặp vợ chồng trẻ, vợ bụng mang dạ chửa, đă
hẹn với chồng trong giờ phút chia ly chàng ra chiến trận, những lời chân
thực bộc lộ một thái độ chịu đựng thật chua cay, mà có lẽ chỉ có người đàn
bà Việt Nam mới có đủ can đảm để nói lên sự chịu đựng chua cay đó :
- Chàng ơi! Trẩy sớm hay trưa?
Để em gánh gạo tiễn đưa hành tŕnh
- Thương nàng đă đến tháng sinh
Ăn ở một ḿnh, trông cậy vào ai?
Rồi khi sinh gái, sinh trai
Sớm khuya mưa nắng lấy ai bạn cùng?
- Sinh gái th́ em gả chồng,
Sinh trai lấy vợ, mặc ḷng thiếp lo!
Chao ôi! Chàng ra đi khi thiếp chưa sinh,
vậy mà thiếp đă đoán chừng cho đến ngày con khôn lớn có thể “dựng vợ, gả
chồng” chưa chắc chàng đă trở về! Cái thực tế của một thời kỳ trong lịch sử
Việt Nam là như vậy đó, nhưng chính sử có mấy khi được ghi chép đúng đắn!
Dưới thời nhà Lư, nhà Trần các thân vương đều có quyền
tuyển mộ binh lính và thành lập các cơ đội riêng. Dĩ nhiên trong t́nh trạng
này, các thân vương không đủ lương phạn chi phí cho đội quân riêng của ḿnh,
do đó, hoặc là binh sĩ phải khai hoang lập điền, trồng trọt để tạo lương
thực hoặc là do chính gia đ́nh người lính phải cung cấp lương thực cho thân
nhân. Dưới đây là t́nh h́nh lương bổng của người lính xứ Đàng Trong, từ đó
ta có thể suy ra t́nh trạng lương bổng cho người lính của các phía đối
nghịch nhau trong cả nước: “Ngoài chánh binh hoặc tinh binh ra, các quan
Trấn thủ, Lưu thủ thường lấy dân địa phương làm lính để canh giữ các nơi,
binh ấy gọi là thổ binh, hoặc tạm binh, hoặc thuộc binh. Số binh ấy rất đông
gấp mấy lần chánh binh mà lại không được trả lương tháng như chánh binh, họ
chỉ được miễn sưu thuế mà thôi”. (5). Xem thế t́nh trạng người lính tự cung
tư dưỡng không phải chỉ xảy ra trong thời nhà Lư, nhà Trần mà nó c̣n kéo dài
gần như suốt thời kỳ các triều đại phong kiến cai trị đất nước:
* Chàng ơi, trẩy sớm hay trưa
Để em gánh gạo tiễn đưa hành tŕnh. . .
* Con c̣ lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng . . .
Có những người chinh phụ một đời lao đao khổ
nhục v́ chiến tranh, hết lo cho chồng lại đến lo cho con ở chiến trường :
Ḱa ai tiếng khóc nỉ non
Ấy vợ chú lính trèo ḥn Đèo Ngang
Chém cha cái giặc chết hoang
Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng
Gánh từng xứ Bắc, xứ Đông
Đă gánh theo chồng, lại gánh theo con!
Mọi chắt bóp dành dụm của người vợ cứ theo
ngày tháng tại ngũ của chồng không cánh mà bay đi dần dần trong nỗi tuyệt
vọng trông chờ ngày chàng về – cái ngày về sao mà xa diệu vợi :
Đồng ăn đồng gửi cho chồng
Đồng th́ lính tráng, mỗi đồng mỗi ghê
Trông chàng chẳng thấy chàng về
Quan dài, quan ngắn gửi đi dần dần!
Đời sống của người lính vất vả quá. Đời sống
của người lính gian nan quá ! Họ phải căn răng chịu đựng “hữu thân hữu khổ
biết phàn nàn cùng ai!”. Thế nên, đă có người thốt nên lời chua cay :
Tiếc cho bác mẹ sinh thành,
Đẻ trai thời loạn uổng công
tŕnh lắm ru !
Đời sống của người lính vất vả, gian nan là vậy. Đời
sống của người vợ lính gieo neo, vất vả nào có kém ǵ. V́ vậy, đă có lúc
người ta đă khuyên bảo nhau :
Ai về nhắn nhủ các cô,
Đừng lấy chồng lính thiệt thua
trăm đường !
Kể từ thời Lư Nhân Tông (1072-1127), nhà
vua cho mở khoa thi tam trường vào năm Ất măo (1075) để kén nhân tài ra gánh
vác việc triều đ́nh , và năm Bính th́n (1076) cho lập Quốc Tử Giám lấy Tứ
Thư Ngũ Kinh làm sách giáo khoa, đào tạo quan lại cho triều đ́nh th́ Nho
Giáo thực sự được tôn trọng. Nho Giáo rất chú trong về vấn đề giáo dục đạo
đức – tiên học lễ, hậu học văn – thế nên, trong thời hưng thịnh của Nho
Giáo, các quan lại của triều đ́nh là những người tiêu biểu cho nền đạo đức
Nho Giáo, luôn luôn giữ giềng mối của tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ)
và ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Thế nhưng, vào những thời kỳ quốc
gia loạn lạc, nạn tranh quyền đoạt vị giữa các ḍng họ hoành hành, th́ nền
luân lư đạo đức của Nho Giáo cũng suy tàn theo và ta sẽ thấy người dân đă
lột trần mặt nạ của những vị quan ăn trên ngồi trước của triều đ́nh bằng
những h́nh ảnh châm biếm thật sâu sắc và cũng từ đó ta thấy thân phận của
người lính cũng thật bi đát. Họ phải làm những công việc thật đáng tủi hổ là
đi ve gái cho các quan tai to mặt lớn của triều đ́nh :
Em là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè
Ông Nghè sai lính ra ve . . .
Ông Nghè tức là người đỗ Tiến sĩ, học vị cao
nhất trong khoa cử ngày xưa. Và ông Nghè ra làm quan th́ chí ít cũng là quan
Bố chánh, Án Sát đứng đầu một tỉnh. Vậy mà ông Nghè đă sai lính đi ve gái
cho ḿnh th́ c̣n ǵ là luân thường đạo lư! Mà cũng tội nghiệp cho người lính
biết chừng nào!
Cái đặc sản của những thời kỳ quốc gia loạn
lạc là như vậy đó. Quan đă vậy th́ lính cũng chẳng hơn ǵ. Cứ xem vào thời
mạt vận của triều đại Hậu Lê và ḍng họ Trịnh th́ đủ biết. Ḍng họ Lê và
ḍng họ Trinh xuất thân từ Thanh Hóa, nhờ quân sĩ 3 phủ ở Thanh Hóa và bốn
phủ ở Nghệ An để bảo vệ nghiệp Vua và nghiệp Chúa gọi là “Ưu binh” hay lính
“Tam Phủ”. “Lính ưu binh đóng ở kinh đô, được kén làm quân túc vệ để bảo vệ
hoàng gia và phủ Chúa, được nhiều đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền
và cả chức sắc” (6). Bọn lính nầy ỷ vào thần thế của nhàVua và nhà Chúa càng
ngày càng lộng hành, kéo nhau hàng đoàn hàng lũ đi cướp phá của dân chúng,
ngay cả nhà của các quan lại đầu triều chúng cũng không từ. Thế nên dân
chúng rất căm ghét bọn lính nầy mà họ gọi là “kiêu binh”. “Hễ có đứa nào đi
lẻ loi th́ dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu
địch. . .” (7). Đây có thể được xem là h́nh ảnh đen tối nhất, bất xứng nhất
của người lính trải qua mọi triều đại. Ngay cả triều đại Tây Sơn, đánh tan
20 vạn quân Thanh, phá tan mộng xâm lăng của kẻ thù phương Bắc, tạo nên một
chiến công lẫy lừng vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam với vị vua anh hùng
Quang Trung Nguyễn Huệ. Vậy mà, khi vị anh hùng cái thế nằm xuống (1792),
triều đại Tây Sơn nằm dưới quyền Thái sư Bùi Đắc Tuyên, tinh thần binh sĩ
dần dần sa sút đến độ đoàn quân đă hơn một lần tốc chiến tốc thắng nay chỉ
c̣n là một đội quân ră rời với hàng ngũ chỉ huy chỉ là những tên bỏ tiền ra
mua địa vị trong quân ngũ :
Đô đốc tam thiên đô đốc
Chỉ huy bát vạn chỉ huy
Trung úy, vệ úy chẳng kể làm chi
Cai đội, phó đội lấy tàu mà chở !
Người chiến binh thực sự bị dân chúng ghét
bỏ một khi họ trở thành kiêu binh, lợi dụng quyền thế để hà hiếp dân lành,
khinh thường luật pháp quốc gia. Chứ thực ra, trước những chịu dựng vất vả
của người lính, dù là trong thời kỳ đánh giặc ngoại xâm hay trong thời kỳ
nội chiến, dân chúng vẫn có cảm t́nh với người lính :
Cậu lính là cậu lính ơi,
Tôi thương cậu lắm, nắng nôi
sương hàn !
Họ thương người lính v́ người lính phải
chinh thú xa quê hương, bỏ lại quê hương những người thân thuộc mà không
biết lấy ai đỡ đần khuya sớm :
Cảm thương chú lính nhỏ
Đầu đội nón gỗ
Trấn thủ xa nhà
Vợ con không có, mẹ già ai trông?
Đối với bất cứ triều đại nào, dù là trong thời b́nh hay
thời chiến, quân đội luôn là một tập thể cần thiết để bảo vệ chính quyền
trước nạn nội chiến hay ngoại xâm. Thế nhưng, trên thực tế, quan văn c̣n do
khoa bảng xuất thân, c̣n quan vơ th́ thường là những người đánh giặc có tài
được thăng quan tiến chức, về sau, tuy triều đ́nh có tổ chức các khoa thi vơ
và cũng có những học vị như bên văn tức là tú tài, cử nhân hay tiến sĩ vơ,
nhưng phần nhiều chữ nghĩa vừa đủ dùng để đọc một số binh thư c̣n phần lớn
là nhờ vào tài vơ nghệ xuất thân. Chính sách của các triều đại cũng thường
tỏ ra trọng văn khinh vơ. Do đó, “các vơ quan thường không được người ta tôn
trọng bằng quan văn, cho nên những người giỏi văn học thường không tu giảng
vơ thuật, thành trong ngạch quan vơ rất ít người văn vơ song toàn”(8). Thực
ra, trong những giai đoạn quốc gia hưng thịnh, chẳng hạn như thời Lê Thánh
Tông (1460-1497), vơ nghiệp rất được trọng vọng “Tinh thần thượng vơ thuở đó
được lên cao do sự khuyến khích của triều đ́nh nên có cả các vị văn quan
xuất thân khoa bảng cũng xin đổi sang vơ chức” (9). Nhưng đây chỉ là họa
hoằn. C̣n phần lớn các quan vơ không được trọng vọng bằng quan văn :
Quan văn thất phẩm đă sang,
Quan vơ tứ phẩm c̣n mang gươm
hầu.
Chính cái ư thức trọng văn khinh vơ đó đă
tạo nên cái ư thức chung trong quần chúng là xem thường giới vơ biền. Để đối
phó lại thái độ khinh bạc của quần chúng đối với giới vơ biền, người lính
phải tự ḿnh tạo cho ḿnh một giá trị mà đôi khi nó bộc lộ cái tinh thần
hănh tiến của cả một giới người :
Em đừng thấy lính mà khinh,
Lănh binh, thống chế ba dinh một
ḍng !
Chiến tranh là một tai họa thảm khốc của con người do
chính con người gây ra: Những cuộc chiến tranh chống lại mộng xâm lăng cuả
người Trung Hoa. Những cuộc chiến tranh của các triều đ́nh Việt Nam đem quân
thôn tính lănh thổ Chiêm Thành. Nhà Mạc cướp ngôi của nhà Lê gây ra cuộc
chiến tranh dai dẳng giữa 2 phe Nam Bắc Triều. Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với
chúa Nguyễn ở Đàng Trong gây ra những cuộc chiến tranh thảm khốc lấy con
sông Gianh làm ranh giới. Rồi biết bao nhiêu cuộc nổi dậy của đám dân bị áp
bức bị triều đ́nh phong kiến cho quan quân đi đánh dẹp. Nguyên nhân của
chiến tranh vẫn là do tham vọng của con người. Sự thực lịch sử đă chứng minh
điều đó. Thế nhưng, dưới mắt nh́n của người dân thấp cổ bé miệng, họ không
dám quy trách cho bất cứ một thế lực nào của con người. Họ không muốn mang
cái vạ tày đ́nh vào thân như tù đày, thậm chí đến mất cả sinh mạng. Thế nên,
họ chỉ c̣n biết đổ riệt cho ông Trời, một thế lực siêu nhiên đă có thể sinh
họa tác phúc cho con người :
Trời ơi sanh giặc làm chi,
Cho chồng tôi phải ra đi chiến
trường !
Hay: Quả bồ ḥn bổ ra xanh ngắt,
Hỏi ông trời sanh giặc làm chi ?
*
* *
Trên đây là những nét phác thảo về chân
dung của người chiến binh thời xưa qua những vần ca dao c̣n lưu lại trong
dân gian. Chắc chắn đây là bức chân dung không hoàn hảo, tuy nhiên, dù có
không hoàn hảo, bức chân dung của người chiến binh đó cũng đă để lại trong
tâm khảm người dân Việt những t́nh cảm thương yêu nồng nàn và ḷng biết ơn
sâu sắc, bởi v́, qua hơn bốn ngàn năm làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước, hàng ngũ
chiến binh đó đă phải hy sinh bao nhiêu máu xương để tài bồi cho nền Độc Lập
của Tổ Quốc Việt Nam.
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
Ghi chú:
(1) Việt Nam Sử Lược I, tr. 14, Trần Trọng Kim
(2) Việt Nam Sử Lược II, tr. 272
(3) Việt Sử Toàn Thư, tr. 556, Phạm Văn Sơn
(4) Hải Ngoại Kỷ Sự, trích lại từ Văn Học Nam Hà
của Nguyễn Văn Sâm, tr.
(5) Việt Sử Xứ Đàng Trong, tr. 469, Phan Khoang
(6) Việt Sử Toàn Thư, tr. 492
(7) Việt Nam Sử Lược II, tr. 114
(8) Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, tr. 159, Đào Duy
Anh
(9) Việt Sử Toàn Thư, tr. 405
|
|