| |
Chữ Nôm Và Cổ Văn Việt Nam
Diệu Tần
Chữ Nôm xuất hiện
Các cụ ta gọi là chữ Nôm, có nghĩa là chữ của người phía Nam, khác với chữ ở
phía Bắc, chữ Hán của Trung Quốc, tương tự như gọi thuốc herbal của Trung Quốc
là thuốc Bắc, gọi thuốc cổ truyền Việt là thuốc Nam. Cũng từ nôm có nghĩa là đơn
giản, dễ hiểu, thực thà, rơ ràng trong tính từ nôm nạ
Đă có nhiều lập luận bác bỏ hẳn giả thiết dẫn đến việc đặt ra chữ Nôm:
Ông Nguyễn Thuyên, sau được vua nhà Trần đổi họ là Hàn, có ư so sánh với Hàn Dũ,
nhân chuyện làm văn tếu đọc lên để đuổi được cá sấu đị Nguyễn Thuyên chỉ là
người đầu tiên làm thơ theo luật Đường có đơn giản hóa đi chút ít, nên được gọi
là Hàn luật, chắc chắn ông không phải là người chế tác ra chữ Nôm.
C̣n lại giả thiết thứ nhất là do Sĩ Nhiếp thời Tam Quốc, một quan Trung Quốc cai
trị nước ta thời đó đặt ra (187 -226) để dạy người Việt học kinh sách Khổng giáo
cho maụ Ngoài ra cũng dùng để lập sổ đinh, như sổ hộ khẩu, để kiểm soát dân.
Muốn ghi tên những người có tên nôm na như Kèo, Cột, Bèo, Ổi, Mít.... chữ Hán
không có, phải có một thứ chữ thích ứng để diễn tả.
Giả thiết thứ hai là do giới tăng lữ, thày pháp đặt rạ Thời xưa uy thế của giới
thần quyền này khá mạnh khi đạo Phật chưa du nhập Việt Nam. Gặp những tên chủ
nhà như đă nêu trên, phải đặt ra thứ chữ mới đề viết vào sớ, điệp cúng báị
Liên hệ giữa Hán và Nôm
Điều khó khăn cho dân là nếu không đi học chữ Hán th́ không đọc, không viết được
chữ Nôm. Chữ Nôm chỉ là thứ chữ mượn từ h́nh dạng cho đến ngữ liệu của chữ Hán
để tiện dụng cho người Việt. Bởi chúng hiểu rằng tiếng Việt chúng ta có nhiều
thành tố vay mượn từ tiếng Mường, Thái, Mă Lai, Cam pu chia và Trung Quốc chứ
không phải hoàn toàn là dùng Hán - Việt. Trong văn viết chúng ta dùng nhiều từ
Hán - Việt, nhưng trong văn nói chúng ta ít dùng. Vậy những từ không phải gốc
Trung Quốc ta sẽ viết ra saỏ Đó là nguyên nhân chính tiền nhân ta đă giải quyết
là phải đặt ra một thứ chữ đáp ứng nhu cầu đó.
Mới đầu chỉ là những chữ Nôm lẻ tẻ, dùng để ghi tạm tên địa danh, tên người, tên
sản vật của ḿnh xen lẫn với chữ Hán, sau đó dần dần mới lập thành một hệ thống.
Thời gian h́nh thành không xác định được rơ là bao lâu, có thể là đă bắt nguồn
từ khi có Tây lịch.
Trí thức thời xưa, tức các thày đồ, học sinh, quan lại ta dịch từ Hán sang Nôm
và từ Nôm sang Hán được. Người Trung Quốc muốn học chữ Nôm của ta họ sẽ học rất
nhanh, v́ có một số chữ Nôm ta mượn nguyên chữ Hán, không thêm bớt ǵ cả. Tất
nhiên sau này học sinh học chữ Quốc ngữ (vần La tinh) không cần phải học chữ Hán
hay chữ Nôm, nhưng nếu nói tiếng mẹ đẻ và viết chữ quốc ngữ mà biết thêm chữ Hán
hoặc hiểu nghĩa từ Hán - Việt sẽ có tŕnh độ cao hơn, văn hoa hơn cũng như nhà
văn, nhà thơ nào có vốn chữ Hán, hay hiểu nghĩa Hán - Việt sẽ sáng tác theo phái
cổ điển sẽ chính xác hơn.
Nói chung chữ chân phương Hán tự, thoạt nh́n vào so với chữ Nôm cũng kiểu chân
phương, khó phân biệt được. Tuy nhiên, chữ Nôm không thành h́nh và phát triển
thành một hệ thống văn tự tạo âm, biểu ư cho tiếng Việt một cách nhanh chóng. Sự
chậm chạp ở đây không phải do khó kha (n về về việc tạo chữ mà điều kiện tiên
quyết là phải dành lại tự chủ, độc lập trước đă. Đến khi đó, nhu cầu dùng chữ
Nôm mới trở thành cấp thiết cho đời sống văn hóa và tinh thần chúng tạ
Như thế, khi đă được độc lập vững chắc, ư thức dân tộc đă mạnh mẽ hệ thống chữ
Nôm dần dần trở thành văn tự nghiêm chỉnh, các văn bản chữ Nôm mới dần dần xuất
hiện. Bản văn đuổi cá sấu và các tác phẩm khác của Hàn Thuyên đều bị thất truyền.
Những văn bản chữ Nôm từ nhà Trần c̣n lưu lại ngày nay là bài phú ca ngợi đời
sống tu Thiền như: Cư Trần lạc đạo phú; Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca; Vịnh Hoa
Yên tự phú) trong sách Thiền tông bản hạnh năm 1745.
Vai tṛ chữ Nôm không phải là xuất hiện để tranh giành vai tṛ của chữ Hán mà là
để cùng với chữ Hán phục vụ đời sống tinh thần, công việc hành chính và đào tạo
nhân tài cho người Việt rồị Khi chữ Nôm ra đời và dần dần được hoàn hảo th́ chữ
Hán đă hiện diện từ lâu đờị Đó không phải là do uy thế của chính chữ Hán mà là
do ưu thế của văn hóa Trung Quốc có sức lan rộng trong vùng Đông Á một vài nước
đă chủ động tiếp nhận như Hàn Quốc, Nhật Bản.
Trong lịch sử đă có hai vị vua là Hồ Quư Ly và Nguyễn Huệ rất chú trọng đến chữ
Nôm. Hồ Quư Ly đă cho viết sắc bằng chữ Nôm, chỉ thị các quan phải viết biểu tấu
bằng chữ Nôm và cho dịch Kinh Thi ra chữ Nôm. Nguyễn Huệ gốc b́nh dân cũng thực
hiện như nhà Hồ, lại c̣n tiến mạnh hơn nữa là ra lệnh cho các chánh chủ khảo các
kỳ thi phải ra đề thi bằng chữ Nôm.
1. Khả năng chữ Nôm
Chữ Nôm có khả năng ra sao để cùng chữ Hán chung sức gây dựng nên ngữ văn cổ
Việt Nam?
a- Có những khu vực mà chữ Hán tỏ ra yếu thế hoặc bất lực, phải nhường chỗ cho
chữ Nôm như các dân tộc khác, người Việt trước khi có chữ viết, đă có một kho
tàng văn hóa truyền khẩu súc tích, đa dạng. Đó là những câu chuyện kể, những câu
ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố, những lời ru, tiếng ḥ v.. ..Hẳn nhiên là để
ghi chép, sưu tầm, hiệu đính kho tàng văn hóa truyền khẩu này thích hợp nhất vẫn
là trực tiếp dùng dùng chữ Nôm. Sau đây là những sưu tầm viết bằng chữ Nôm như
quyển Ly hạng ca dao, ghi chép 256 bài ca dao, quyển Nam Quốc phương ngôn tục
ngữ bị lục, gồm 27 mục ghi các bài ca dao tục ngữ, câu đố; quyển Nam ca tân
truyện ghi lại các bài hát cổ theo các điệu ca ở Huế v. v.. ..và một số những vở
tuồng cổ, chèo cổ như Văn Duyên diễn hí; Trương Viên diễn ca; Lưu B́nh tṛ, v.
v.. ..
b- Viết chữ Nôm dưới h́nh thức văn vần xem như hiệu quả nhất, thích hợp nhất để
truyền bá, phổ biến tri thức đến dân chúng..
Đó là những bộ sách diễn ca (chuyển thành thơ) lịch sử như Việt sử diễn âm, thế
kỷ XVI; Thiên nam minh giám, đầu thế kỷ XV̀; Đại Nam quốc sử diễn ca, thế kỷ
XIX; v.v. ... Đa số dân chúng không biết chữ Hán và chữ Nôm v́ không đủ điều
kiện đi học, nhưng nhờ có những tác phẩm văn vần chữ nôm đó họ được nghe, măi
rồi thuộc ḷng từng đoạn có khi thuộc cả tác phẩm dài hàng ngàn câụ Cũng giống
như thế về sách chữ Nôm diễn ca, diễn âm về luật lệ như Hoàng Việt luật lệ toát
yếu diễn ca, về y học như Chẩn đậu diễn ca, v.v...
c- Chữ Nôm có vai tṛ nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ
mọi thời đều đă dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm,
người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất
c̣n lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trăi (1380 - 1420) sau đó là Bạch
vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585)
Điều đáng ghi nhận là với chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và
tiểu thuyết văn xuôi, c̣n với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thợ Sở trường và
thành công nhất vẫn là thơ ca trường thiên theo thể lục bát và song thất lục
bát.
Bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ
XIX văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết
đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748); Truyện Kiều (Đoạn
trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta c̣n các tên tuổi sáng giá
khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều,
Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đ́nh Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v.
..Chính nhờ ở những tác giả này tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán
và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm, để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói
và giàu sức diễn đạt.
2. Phối hợp với chữ Hán
Ngoài ra chữ Nôm không hoạt động đơn độc mà đă phối hợp với chữ Hán tạo nên
những tác phẩm, bổ túc nhau sáng tác và truyền bá văn hóạ Có thể nhận thấy điểm
này qua nhũng chi tiết sau đây:
a- Không kể những chữ Nôm lẻ tẻ có thể xuất hiện bất cứ trong tác phẩm chữ Hán,
văn bác học, khi cần thiết c̣n được dùng xen kẽ với chữ Hán để ghi chép những
điều đă có trong bài trước. Chữ Nôm cũng xuất hiện dùng để viết các câu đối,
hoành phi, bia đá chuông đồng ở đ́nh chùa miếu mạọ Có một thể loại thơ ca rất
được lớp nho sĩ ưa chuộng là bài hát nói (ca trù). Trong đó giữa những lời hát
thuần chữ Nôm có xen kẽ mấy câu rặt chữ Hán.
b- Chữ Nôm đă đắc lực trong việc phiên chuyển văn bản và phổ biến văn hóa phẩm.
Thí dụ:
Các kinh sách cổ điển của học thuyết Nho, đạo Lăo, đạo Phật, đạo Khổng, từ Hán
văn được dịch sang chữ Nôm theo hai cách: lược thuật theo ư và chuyển thành thơ
chữ Nôm như quyển Luận ngữ thích nghĩa ca diễn Nôm theo thể lục bát 20 thiên
trong quyển Luận ngữ. Hai là dịch thẳng từng câu Hán văn sang câu chữ Nôm như
quyển Thi Kinh giải âm dịch toàn bộ hơn 300 bài thơ trong Thi Kinh, một bộ kinh
trong Ngũ Kinh của Trung Quốc sang chữ Nôm (theo lệnh của Hồ Quư Ly, nhà Hồ)
Một số văn bản từ các ngôn ngữ Tây phương cũng được dịch sang văn xuôi chữ Nôm
như các bộ Các Thánh truyện (1650) do Jeromjimo Majorica soạn, với mục đích
truyền giáọ
Một số văn xuôi chữ Hán của tác giả Việt cũng được hậu sinh dịch sang văn xuôi
chữ Nôm theo lối dịch thẳng từng câụ Có thể kể đến bản giải âm đồn rằng của
Nguyễn Thế Nghi (thế kỷ XVII) trong bộ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ
XVI), và phần dịch chữ Nôm trong quyển Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục (thế kỷ
XVI).
Có một loạt sách giáo khoa, trong đó chữ Nôm dùng để giải nghĩa từ ngữ chữ Hán,
soạn ra theo thể thợ Dùng những bộ sách này, người học có thể vừa học được chữ
Hán vừa học được chữ chữ Nôm:
Chỉ nam Ngọc âm giải nghĩa thế kỷ XVII
Tam thiên tự giải âm Ngô th́ Sĩ thế kỷ XVII
Nhật dụng thường đàm Phạm đ́nh Hổ thế kỷ XVIII
Tự học giải nghĩa ca thời Tự Đức thế kỷ XIX
Đại Nam quốc ngữ Nguyễn văn San thế kỷ XIX v.v. .. ..
3. In thủ công
Chữ Hán và chữ Nôm dù được dùng riêng biệt hay phối hợp với nhau đều được viết
và in theo lối thủ công cổ truyền.
Viết tay bằng bút lông lên những mặt phẳng giấy, lụa, vải hoặc dùng đục, chạm
khắc lên các chất liệu cứng như gỗ, đá, kim khí để làm thành những bản văn trên
bia, biển, chuông. ..Dùng gỗ khắc ngược chữ để làm khuôn in hàng loạt lên giấy,
lụạ Nhờ vào lối in thủ công này mà các tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm được phổ biến
rộng, khuyến khích phát triển nền ngữ văn trong nhiều thế kỷ. Măi đến thập niên
đầu thế kỷ XX, nhiều nhà sách ở Hà Nội vẫn cho khắc ván in đi in lại nhiều lần
những tác phẩm Hán Nôm và vẫn có nhiều độc giả mua đọc.
4. Cách đọc chữ Hán-Việt
Có nhiều giả thiết về cách đọc chữ Hán - Việt. Theo B́nh Nguyên Lộc, th́ nguồn
gốc ở các ông thầy Trung Quôc từ Bắc Kinh qua dạy người Việt chữ Hanù, v́ âm Bắc
Kinh nghe gần giống với giọng đọc Hán - Việt. Giả thiết khác cho rằng những ông
thày đó là chỉ ở vùng Quảng Đông, Ouảng Tây đến thôị Theo nhiều tác giả khác cho
rằng người Việt chủ động dùng chữ Hán ngay từ thế kỷ X trở đi đă đọc theo cách
phát âm cuối đời Đường, đầu đời Tống. Sau đó dần dần chỉ có người Việt dạy chữ
Hán người Việt, đă rời bỏ cách phát âm nguyên thủy của nó để nghiêng dần về ngữ
âm tiếng thuần Việt.
Với cách phát âm này ngôn ngữ Trung Quốc trở thành quen thuộc với người Việt
Nam, do đó có cảm nghĩ dùng ngôn ngữ nước ngoài cũng bị quên đị
Từ đầu thế kỷ XX, các giáo sĩ Tây phương với mục đích truyền giáo đă chuyển âm
tiếng Việt để đặt ra chữ Quốc ngữ bằng vần La tinh. Chữ quốc ngữ đă thay thế hầu
hết vai tṛ của chữ Hán và chữ Nôm trong các lĩnh vực. Tuy vậy với tuổi thâm
niên của nền ngữ văn cổ Hán Nôm, công sức thể hiện và chuyên chở văn hóa cổ
truyền của hai thứ chữ này sẽ không bao giờ bị bỏ quên. Trong tâm hồn người
Việt, chữ Hán và chữ Nôm vẫn măi măi là nhịp cầu nối quá khứ với tương lai trong
đời sống văn hóa và tinh thần từ lớp trí thức đến giới b́nh dân.
Tài liệu tham khảo:
- Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 5 (43) 1999 Hà Nộị (trong đó có tham khảo soạn
phẩm của các tác giả Đào Duy Anh, Nguyển Tài Cẩn, Phan Huy Chú, Trần Văn Giáp,
Nguyễn Quang Hồng, Trần Nghĩa Ố François Gros và Ngô Đức Thọ)
- Nguốn gốc Mă lai của dân tộc Việt Nam, B́nh Nguyên Lộc, 1971, Xuân Thu tái
xuất bản
- Việt sử toàn thư, Phạm văn Sơn, 1960 Sài G̣n
- Kinh Thi Việt Nam Trương Tửu, Hàn Thuyên, Hà Nội
- Việt Nam Cổ văn học sử, Nguyễn Đổng Chi, năm 1993 Hà Nội
|