| |
Giới-Thiệu “Lược
Khảo Vấn Đề Chữ Nôm Của Cụ TRẦN VĂN GIÁP
______ Nguyễn Ngọc Bích
Mới đây, báo Ngày Nay ở Minnesota có in ra
cuốn Lược khảo vấn đề chữ Nôm do cụ Trần Văn Giáp (1902-1973), một nhà
nghiên cứu Hán-Nôm thuộc vào hạng xuất sắc ở nước ta, biên soạn. Từ năm
14 tuổi (1916), cậu bé Trần Văn Giáp đă đi dự kỳ thi Hương ở trường Nam (tức
Nam-định). Năm 18 tuổi đă vào làm việc ở Viễn Đông Bác Cổ (tức viện
nghiên cứu nổi tiếng về Á-đông-học ở nước ta lúc bấy giờ, Ecole française
d-Extrême-Orient). Năm 1927 sang Pháp theo học tại Ecole pratique des
Hautes études, theo viện Cao-học Hán-học. Hai luận-án ông soạn trong
thời-gian ở Pháp là “Các thư-tịch-chí của Lê Quư Đôn và Phan Huy Chú”
(“Les chapitres bibliographiques de Le Qui Don et Phan Huy Chu,” có in
trong BSEI ở Sài-g̣n năm 1938) và “Phật-giáo Việt Nam từ nguồn gốc đến thế
kỷ XIII” (“Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIè siècle,” sau in
trong BEFEO, tập 32, Hà-nội: 1932). Về nước năm 1932, cụ trở lại làm việc
tại Viện Viễn Đông Bác Cổ, và từ đó cụ không ngừng đóng góp vào học-thuật
Việt Nam với nhiều tác-phẩm vĩ đại trong đó ta có thể kể hai bộ Lược
truyện các tác gia Việt Nam (Hà-nội, 1962-1972) [“tác gia” không có dấu
hỏi, không phải “tác giả”] và T́m hiểu kho sách Hán-Nôm (Hà-nội,
1984-1990) mà không hiểu v́ lư-do nào, bộ sau đă không được ghi trong phần
“Thư mục Trần Văn Giáp” (trang XI-XII) ở đầu sách Lược khảo vấn đề chữ Nôm.
Cũng như nhiều gia-đ́nh Việt Nam, cụ Trần Văn
Giáp đă đi theo Việt Minh và ở lại miền Bắc trong khi các con cụ lại t́m
đường vào Nam. Năm 1975, khi CS xâm-chiếm miền Nam, mấy người con bị kẹt
lại Sài-g̣n vẫn không có cơ-hội gặp lại cụ v́ tiếc thay, cụ đă ra đi từ
cuối năm 1973. Việc in sách của cụ ở hải-ngoại lần này là một việc làm
báo hiếu của mấy người con, chủ-yếu là của G.S. Trần Văn Đĩnh (dấu ngă chứ
không phải dấu hỏi) hiện cũng ở Minnesota, khi cách đây ít năm ông có về
Hà-nội để lấy được bản thảo mang sang Mỹ.
Việc in sách ở hải-ngoại mà lại c̣n chua thêm
chữ Hán, chữ Nôm là một việc làm rất nhiêu khê và chúng ta, những người
đọc (hay ít nhất cũng có cá-nhân tôi), rất biết ơn G.S. Lê Văn Đặng ở
Seattle, Washington, khi ông đă thể theo lời yêu-cầu của G.S. Nguyễn Đ́nh
Ḥa (trước khi ông Ḥa ra đi cách đây gần hai năm) nhận lời “thực-hiện
văn-bản” cho cuốn sách. Kết-quả là một cuốn sách không những giá rất phải
chăng (có 12 Mỹ-kim một cuốn) mà chữ Hán, chữ Nôm trong sách in rất rơ
ràng không mờ hay mất nét như trong một số sách in có chua loại chữ này ở
trong nước.
Nội-dung sách
Đi vào nội-dung, ta sẽ thấy cuốn sách chủ-yếu
được chia thành hai phần, một phần nói về chữ Nôm và một phần trích văn
thơ Nôm.
Phần I gồm 4 chương cả thảy:
- Chương mở
đầu “giới thiệu” chung về cuốn sách
- Chương 1
nói về “Nguồn gốc chữ Nôm”
- Chương 2 đi
vào “Cách cấu tạo của chữ Nôm”
- Chương 3 mở
rộng đề-tài ra thành “Chữ Nôm và văn học Việt Nam.”
Phần II th́ gồm 3 chương (4 tới 6) được chia
thành tất cả là 10 phụ-lục, với mỗi phụ-lục gồm một số bài văn thơ Nôm, có
thể coi như là bài đọc. Có bài th́ kèm theo chữ Hán hay chữ Nôm, song
phần lớn không có bản chữ Hán hay chữ Nôm đi kèm. Có thể dụng-ư của
tác-giả (cụ Trần Văn Giáp) là sẽ cung-cấp đầy đủ các bản văn Hán-Nôm này
nhưng rồi cụ mất sớm nên ư-định này đă không thực-hiện được.
Một số nhận-định đă hơi cũ
Thật vậy, Chương 1 là lấy lại từ một bài báo
cụ hoàn-tất từ 25 tháng 2 năm 1969, cách đây đă 33 năm, và có in trong
Nghiên cứu lịch sử số 127 (tháng 10-1969), trang 7 đến 25. Ngay từ thuở
ấy, một vài nhận xét của cụ, tỷ-dụ như ba chữ “Minh giám bản” trên đầu
sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa mà cụ hiểu là “Ván khắc in [theo bản] đă
được xét từ đời Minh,” đă có người không đồng-ư (xem bài của Hoàng Thúc
Trâm trong Nghiên cứu lịch sử số 140, tháng 9-10, 1971). Tuy-nhiên, trong
sách mới in th́ bài viết có được khai triển hơn và đặc-biệt là có chua chữ
Hán, chữ Nôm đi ngay theo mỗi chữ hay câu cần được viết sang loại chữ này
để minh-họa hay làm rơ điều đang được nói đến. (Trong bài báo in ra năm
1969 th́ những chữ chua này được in thành một bảng ở cuối bài, trang 25,
và có chỗ cũng không rơ lắm.)
Chương 2, Chương 3 hoàn-tất vào ngày 7 tháng
11 năm 1970 th́ h́nh như chưa được công-bố ở bất cứ đâu, cho đến khi có
cuốn sách này ra đời. Do vậy nên đối với một người đọc như tôi th́ đây là
phần mới mẻ do quyển sách mang lại. Chương 2, “Cách cấu tạo của chữ Nôm,”
có lẽ cũng không đi xa hơn sách Việt Nam văn-học sử-yếu của Dương Quảng
Hàm bao xa dù như sách của cụ Dương đă ra từ năm 1942, gần 30 năm trước đó
nữa và cách chúng ta là đúng 60 năm. Tuy-nhiên, phần kết-luận của Chương
2 này đáng chú ư v́ nó tóm lược quan-niệm của cụ Trần Văn Giáp về chữ Nôm:
“Chính v́ những lư do phức tạp, không có qui củ nhất định trong việc cấu
tạo chữ như nói trên, thành ra chữ Nôm, tuy người nào cũng thấy tiện, đă
sử dụng trong một thời gian khá lâu mà vẫn không phổ biến và phát triển
mạnh... Phần sơ bộ nghiên cứu về sự cấu tạo của chữ Nôm trên đây, cũng
lại có thể chứng minh thêm cho nguồn gốc chữ Nôm có từ lâu. Nó đă nói lên
sự h́nh thành của chữ Nôm manh nha từ thời Hán, hồi mấy thế kỷ đầu [của
công-nguyên], tới nay cũng đă có đến trên dưới hai ngàn năm.”
Như vậy, thuyết của cụ Trần Văn Giáp, nhắc
lại ư-kiến của Văn-đa cư-sĩ Nguyễn Văn San ghi trong sách Đại Nam quốc-ngữ
(làm ra khoảng năm 1880), cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp (187-226
sau công-nguyên, trang 16 trong sách ghi “487-326” là sai) thành ra là cái
thuyết đ̣i về cho chữ Nôm một nguồn gốc xa xôi nhất, “đă có đến trên dưới
hai ngàn năm.” Theo tác-giả Nguyễn Văn San, khi Sĩ-vương (tức Sĩ Nhiếp
đời Hậu-Hán) phải dịch chữ “thư cưu” trong bài “Quan thư” tức bài đầu tiên
trong Thi-kinh Trung-hoa hay dịch chữ “dương-đào” (quả khế) sang tiếng
Việt để dạy chữ Hán cho người Việt thời bấy giờ, ông chẳng biết mấy thứ đó
tiếng Việt gọi là ǵ. Có lẽ v́ thế mà ông phải nghĩ ra cách ghi lại tiếng
Việt, tỷ-dụ “khế,” bằng một chữ Hán với âm tương-tự. Thế là nguồn gốc của
chữ Nôm.
Tuy-nhiên, chính cụ Trần Văn Giáp cũng phải
công-nhận là khảo-cổ-học đă không t́m ra được bao nhiêu di-vật từ thời Sĩ
Nhiếp (cuối thế-kỷ II và đầu thế-kỷ III) đến khoảng 1000 năm sau đó làm
chứng cho giả-thiết là chữ Nôm đă có từ thời xa xôi kia. Thật ra là không
t́m được ra ǵ cả! Cụ viết nơi trang 58: “Qua các sách vở giấy tờ khác về
Việt Nam và của Việt Nam xưa kia, qua các cuộc khai quật khảo cổ gần đây,
có t́m thấy nhiều mộ cổ đời Hán, mộ cổ đời Đường, v.v... nhưng trong đám
di vật ấy cũng chưa thấy có dấu tích ǵ về chữ Nôm.”
Do vậy nên có lẽ chúng ta cũng không nên hồ
hởi quá về thuyết chữ Nôm đă có “trên dưới hai ngàn năm nay.”
Mấy hướng mới về nghiên cứu chữ Nôm
1. T́m về văn-bản cũ
V́ cụ muốn tin như vậy nên cụ Trần Văn Giáp
đă phải cố gắn tác-phẩm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (mà cụ đồng-ư là bản in
ta hiện c̣n là một bản in sau này của thế-kỷ XVIII) vào với một hai
tác-phẩm mà người ta ngờ là có thể có được từ thời Sĩ Nhiếp hay ít nhất
cũng “có lẽ từ đời Hán c̣n truyền lại” như Chỉ nam phẩm vựng và sách Chỉ
nam song tự. Song đây cũng chỉ là ức-đoán mà thôi, khi cụ cho rằng cuốn
trên là “dựa theo các sách cũ” như hai quyển sau này “mà làm lại và ghi
thêm nhiều chữ khác” (NCLS 127, trang 19), và ta không c̣n hai quyển sau
này để mà biết nội-dung nó ra sao và sự ức-đoán của cụ có bao nhiêu phần
là sự thật.
Theo cuốn sách mới in ra của cụ th́ cụ Trần
Văn Giáp cho rằng có những tác-phẩm sau đây để giúp ta dựng lại một cách
chắc chắn lối viết Nôm cổ của ta qua các thời-đại (xem các trang 22-33):
- Cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của sư
Pháp Tính (mà có chỗ, trang 32, cụ ghi là “trước thế kỷ thứ XVII” song có
nơi, trang 22, cụ lại nói là “một bộ tự điển Hán Việt làm ở Việt Nam từ
trước thế kỷ XV”). Dầu sao, dưới con mắt cụ, đây cũng là bộ tự-điển cổ
nhất của tiếng Việt, theo cụ là có trước cả từ-điển Alexandre de Rhodes in
ra ở Roma năm 1651.
- Cuốn Tự học toản yếu (hay c̣n gọi là Tam
thiên tự giải âm, tức “Ba ngh́n chữ [Hán] giải sang quốc-âm [tức Nôm]”)
của Ngô Thời Nhiệm (1746-1803), nghĩa là gần như chắc chắn làm ra trong
thế-kỷ XVIII.
- Cuốn Chỉ nam bị loại mà theo cụ là “có
người giọn [= dọn] lại [từ] bộ Chỉ nam ngọc âm cũ, và giải nghĩa gọn gàng
thành bộ Chỉ nam bị loại. Bộ này chưa được đem in, chỉ truyền lại bằng
bản sao chép. C̣n tác giả, chắc cũng là một vị sư, v́ thấy chú ư đến danh
từ Phật giáo, nhất là Phật giáo Việt Nam, như An nam tứ khí v.v.” (trang
23). Về thời-điểm sách này được soạn ra, cụ phân vân giữa thế-kỷ XVIII
(trang 33) và “khoảng mười năm đầu thế kỷ XIX” (trang 23).
- Cuốn Nhật dụng thường đàm của Phạm Đ́nh
Hổ (1768-1839) làm ra “khoảng cuối đời Minh Mạng” (trị v́ 1820-1840), song
lại có sách ghi là năm 1827 (xem T́m hiểu kho sách Hán-Nôm, Tập II, trang
18).
- Cuốn Thiên tự văn tác-giả vô danh (“thế
kỷ XIX”).
- Cuốn Thiền gia phạn số của Phước-điền
ḥa-thượng, tên An Thiền, soạn vào năm 1845 (Ất-tỵ, Thiệu Trị thứ 5).
- Cuốn Đại Nam quốc ngữ của Hải-châu-tử
[Nguyễn Văn San] sống dưới đời Tự Đức (trị v́ 1848-1883).
- Cuốn Nam phương danh vật bị khảo của Đặng
Xuân Bảng (sinh 1828-sau 1901).
- Cuốn Tự học giải nghĩa ca của vua Tự Đức.
Theo cụ, nếu ta nghiên cứu được đầy đủ 9 bộ
sách trên đây, ta sẽ có được bộ dạng đích-xác của chữ Nôm Việt Nam ít nhất
qua ba thế-kỷ, từ thế-kỷ XVII đến thế-kỷ XIX, nếu không muốn nói là sớm
hơn (v́ theo cụ cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa có thể phản ánh chữ Nôm
“từ trước thế kỷ XV” nữa).
Song thực-sự, bằng-chứng về chữ Nôm ta c̣n có
từ trước đó nữa. Chính theo cụ Trần Văn Giáp, ta đă có những mốc về chữ
Nôm như sau:
Thế-kỷ VIII - Phùng Hưng dấy lên làm vua vào
năm 791, được nhân-dân tặng cho danh-hiệu “Bố Cái Đại Vương.” “Bố Cái”
không phải là tiếng Hán mà là tiếng Nôm. (Về ư nghĩa của hai chữ “Bố Cái”
th́ một thuyết đă theo sách Quang mục mà cho rằng “Bố” là Cha, “Cái” là
Mẹ, song sau này cũng có người cho rằng “Bố Cái” nghĩa là “Vua Lớn”
tương-đương với chữ “Đại-vương.”)
Thế-kỷ X - Đinh Tiên-hoàng đặt tên nước là
Đại Cồ Việt vào năm 968, tên chính-thức của nước ta đến năm 1054. “Cồ”
tiếng Nôm có nghĩa là Lớn (so sánh “gà cồ”) và như vậy, cách nói “Đại Cồ”
thành hơi giống cách nói “Bố Cái Đại Vương.” Trong một luận-văn, nhà
học-giả uyên bác Nguyễn Khắc Kham đưa ra giả-thiết cho rằng chữ “Cồ” ở đây
có thể có đồng-nghĩa với chữ “Cồ Đàm” (Gotama Buddha), và như vậy “Đại Cồ
Việt” có nghĩa là “nước Đại Việt Phật-giáo.” (“Đại Cồ Việt Revisited,”
Vietnam Culture IV(4), New York, Winter 1985, trang 162-170; “Đại Cồ Việt
(A Revised Version),” The Journal - Institute of Asian Studies 10,
March 1989, S’ka University, Tokyo, trangau này có in lại trong Đại Học
Mission Viejo, CA, Tháng 7-1991, trang 125-153).
Thế-kỷ XI – Ông Trần Huy Bá, trong báo Tổ
Quốc số 3 năm 1963, có giới thiệu một cái chuông đồng của chùa Vân-bản
ở Đồ-sơn, mới được vớt lên từ dưới biển vào năm 1958, mà niên-đại đúc có
thể là vào năm 1076 đời Lư Nhân-tông (trị v́ 1072-1127) trên đó có khắc
hai chữ “Ông Hà” là tên người và là tên chữ Nôm, chứ không phải chữ Hán.
(Theo ông Bá th́ có tới ba chữ Nôm là “xứ Ông Hà” nhưng cụ Đào Duy Anh
kiểm lại th́ chỉ thấy có hai chữ “Ông Hà” mà thôi. Ông Nguyễn Đ́nh Chiến
trong Khảo cổ học số 1-1980 th́ lại cho chuông chùa Vân-bản đúc vào khoảng
1288-1304.)
Thế-kỷ XII - Bia mộ Lê Phụng Thánh, dựng năm
1173 (niên-hiệu Chính-long Bảo-ứng 11) ở chùa Hương-nộn, Phú-thọ (ngày nay
là Vĩnh-phú), có sáu chữ Nôm: “đầu đ́nh, cửa ngơ, bến sông.” (Trần Xuân
Ngọc Lan và Cung Văn Lược trong Ngôn ngữ 29, tháng 9-1976)
Thế-kỷ XIII - Bia chùa Tháp-miếu, huyện
Yên-lăng, tỉnh Vĩnh-phú, đề đầu năm 1210 đời Lư Cao-tông (trị v́
1176-1210), theo cụ Đào Duy Anh, “là chứng tích xưa có nhiều chữ Nôm hơn
nữa,” khoảng 13 chữ chắc chắn là Nôm (như “bơi, đồng, đường, dậu, chài,
nhe, chạy, phướn, thằng, phao v.v.”) chưa kể những chữ là Hán nhưng dùng
theo ngữ-pháp Việt. (Chữ Nôm: Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Hà-nội,
1975, trang 14-18)
Sau đó, cụ Đào đưa ra một số tác-phẩm Nôm từ
đời Trần (1225-1400), nghĩa là chắc chắn có trước sách Chỉ nam ngọc âm
giải nghĩa là cuốn sách đầu tiên mà cụ Trần Văn Giáp nhắc đến ở trên:
- Hai bài của Trần Nhân-tông (trị v́
1279-1293), gồm một bài phú (“Cư trần lạc đạo phú”) và một bài ca “Đắc thú
lâm tuyền thành đạo.”
- Một bài phú
“Vịnh Hoa-yên-tự” củaTrúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang (1254-1334). (Nhân
nói đến nhà thơ và thiền-sư Huyền Quang, tưởng cũng nên nhắc là nàng Điểm
Bích có bài thơ Nôm ghẹo ông c̣n lại đến ngày nay. Xem TV Giáp 2002,
trang 63.)
- Một bài phú
trạng-nguyên Mạc Đĩnh Chi (1280-1350) chết vào âm-phủ bảy ngày, thấy
Địa-ngục rồi sống lại, làm để dạy con. (Bốn bài trên đây được chép trong
sách cũ Thiền-tông bổn-hạnh).
Từ năm 1941, cụ Hoàng Xuân Hăn đă công-bố
trong Khai trí tiến đức tập san số 2 và 3 mấy bài thơ Nôm đời Hậu-Trần
được gom trong Nghĩa-sĩ-truyện: một bài của vua Trùng Quang (1409-1413)
tặng Nguyễn Biểu khi lĩnh mạng đi sứ, bài họa lại và sau đó là bài thơ bữa
tiệc “Đầu người” của Nguyễn Biểu khi bị giặc làm áp-lực, bài tế Nguyễn
Biểu của vua Trùng Quang và bài tụng chí-khí của Nguyễn Biểu do sư chùa
Yên-quốc làm ra.
Cũng khoảng Hậu-Trần Lê-sơ, ta c̣n có một
tác-phẩm rất quư-giá do G.S. Tạ Trọng Hiệp ở Pháp t́m ra, sau có tặng Viện
Hán-Nôm ở Hà-nội một phiên-bản, đó là cuốn nhan-đề Phật thuyết đại báo phụ
mẫu ân trọng kinh (Xem bài của Nguyễn Ngọc San trong Ngôn ngữ số 3 năm
1982, trang 34-41. G.S. Lê Hữu Mục ở Canada cũng đă đọc kinh này, cho
rằng Nguyễn Trăi có thể là tác-giả cuốn kinh mà ông dịch thành “Kinh Cả
Blả Ơn Áng Ná Cực Nặng.” Xem Quê Mẹ, Paris, từ số 134 trở đi)
.Sang đến thời Lê-sơ th́ hiển-nhiên, ta có
Quốc-âm thi-tập của Nguyễn Trăi (1380-1442) gồm hơn 250 bài thơ Nôm. Cuối
thế-kỷ, ta có thơ Nôm Hồng-đức quốc-âm thi-tập (thời Lê Thánh-tông, trị v́
1460-1497) và thế-kỷ sau ta có Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với những lời
sấm kư bằng chữ Nôm và Bạch-vân-am quốc-âm thi-tập. Sau Nguyễn Trăi và
trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta c̣n có Vũ Quỳnh hiệu-đính và Kiều Phú san-định
sách Lĩnh-nam chích-quái của Trần Thế Pháp (không rơ thời nào), trong đó
truyện “Hà Ô Lôi” cũng có mấy bài thơ Nôm.
Tóm lại, văn thơ Nôm trước thế-kỷ XVII mà c̣n
truyền đến ngày nay “trong văn-bản đàng-hoàng” cũng không phải là hiếm.
Ta chỉ cần khai thác khoảng gần 1000 những bài này, đa-số là thơ nhưng
cũng có một cuốn kinh, dăm bài phú và một số văn bia, là ta có được một
khái-niệm rất rơ ràng về chữ Nôm (và tiếng Nôm) cổ trước từ-điển Alexandre
de Rhodes và Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
2. Định tuổi chữ Nôm từ cách đọc Hán-Việt
Chữ Nôm, để viết được đầy đủ tất cả lời nói
của người Việt xưa, hiển-nhiên không thể chỉ gồm toàn những chữ thuần-Nôm
(nghĩa là gốc không phải mượn từ chữ Hán). Trong tiếng nói hàng ngày thời
Nguyễn Trăi, chẳng hạn, cũng như trong tiếng nói của chúng ta ngày hôm
nay, thế nào cũng có pha trộn, không ít th́ nhiều, chữ Hán mà đă được
Việt-hóa, chữ mà sau này ta gọi là Hán-Việt. V́ cách viết, cách cấu tạo
chữ Nôm, nhất là chữ Nôm ghép loại h́nh thanh (nghĩa là “một nửa chữ là
h́nh, một nửa chữ là thanh” theo cách mô-tả của Đào Duy Anh, hoặc cũng có
thể định nghĩa là mỗi chữ gồm hai thành-phần: một phần cho nghĩa “một cách
tổng-quát” gọi là “nghĩa-phù” và một phần chỉ âm, gọi là “âm-phù”), dựa
tất-yếu vào cách đọc của âm chữ Hán mà ta mượn nên khi suy được ra cách
đọc Hán-Việt của chữ ta mượn th́ ta cũng sẽ dễ dàng đoán ra được cách đọc
Nôm.
Tỷ-dụ, chữ năm trong lịch th́ tiếng Hán-Việt
là niên. Số năm trong tiếng Hán-Việt là ngũ. Để cấu-tạo chữ Nôm cho hai
chữ năm này trong tiếng Việt, các cụ xưa đă nghĩ ra cách “ghép” âm-phù nam
vào với chữ niên để nói lên ư trên và ghép nó vào với chữ ngũ để nói đến
số 5. Cách viết này có cái lợi là ta nh́n vào cách viết, biết liền là hai
chữ năm khác nhau, chứ không có thể lẫn lộn chúng như trong trường-hợp chữ
Quốc-ngữ.
Song tiếng Hán-Việt không phải là chỉ có độc
một cách đọc qua các giai-đoạn lịch-sử. Theo một qui-luật về ngữ-âm-học
lịch-sử (historical phonetics) th́ chữ nam trong tiếng Hán-Việt ngày nay
có lúc đă đọc là nôm. Chính v́ vậy mà chữ nôm trong tiếng Nôm, chữ Nôm
cũng viết với âm-phù /nam/, chữ nồm trong “gió nồm” cũng vậy: chữ nôm viết
/nam/ với bên cạnh là bộ “khẩu” (=miệng nói), tương-đương với cái gọi là
“nghĩa-phù”; chữ nồm viết /nam/ với bên trên là bộ “vũ” (=mưa, biểu-hiện
cho hiện-tượng thời-tiết). Nếu ta biết qui-luật ngữ-âm-học lịch-sử nói
trên, mà trong tiếng Anh gọi là “vowel shift” (= chuyển-hoán nguyên-âm),
th́ ta sẽ tính được ra ngay âm “ô” trong /nôm/ có trước âm “a” trong
/nam/. Như vậy, mặc dù ta không biết được đích-xác khi nào th́ âm /nôm/
đă chuyển thành /nam/ song ta vẫn có được một thời-biểu tương-đối
(relative chronology) để biết là chữ nôm trong tiếng Nôm, chữ Nôm và chữ
nồm trong “gió nồm” là có trước hai chữ năm trong tiếng Nôm: hai chữ trên
đă dùng cách đọc /nôm/ để ghi làm âm-phù trong khi hai chữ năm th́ đă dùng
cách đọc /nam/ (đến sau) để ghi làm âm-phù diễn-tả âm na ná là âm /năm/.
Chính v́ tin tưởng là nghiên cứu xong cách
đọc Hán-Việt theo ḍng lịch-sử, một chuyện mà các nghiên cứu rất đa dạng
và tiến-bộ trong ngữ-âm-học lịch-sử Trung-hoa có thể giúp ta tạo dựng lại
một cách khá chính-xác, mà một số nhà học-giả ở trong nước đă xoay ra
nghiên cứu cách đọc Hán-Việt để định tuổi của một số chữ Nôm. Về
phương-diện này, người có lẽ đóng góp được nhiều nhất là cố-học-giả Nguyễn
Tài Cẩn, một nhà ngôn-ngữ-học huấn luyện ở Nga, với cuốn Nguồn gốc và quá
tŕnh h́nh thành cách đọc Hán-Việt của ông do nhà xuất bản Khoa học xă hội
in ra năm 1979. Quyển này là khai triển từ những bài của ông viết từ
trước như “Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kỳ xuất hiện của chữ
Nôm” (Ngôn ngữ 7, tháng 3-1971) và “Một cứ liệu mới về ngữ âm lịch sử: bản
Cao thượng Ngọc hoàng bổn hạnh tập kinh âm thích.” (Ngôn ngữ 11, tháng
3-1972). Đây là một khảo-hướng mang đầy hứa hẹn nên sau một thời-gian,
ông Nguyễn Tài Cẩn đă dám khẳng-định trong sách viết chung với vợ, cũng là
một nhà ngôn-ngữ-học lịch-sử người Nga, bà N.V. Xtankêvich là “nh́n chung,
hệ thống ngữ âm của cách đọc Hán-Việt phản ánh hệ thống ngữ âm của tiếng
Hán khoảng Đường-Tống,” nghĩa là khoảng thế-kỷ X (Một số vấn đề về chữ
Nôm, Hà-nội, 1985, trang 104). Điều này ủng-hộ cho quan-điểm của một số
học-giả đi trước: “Theo các nhà Hán ngữ học, lối đọc Hán-Việt của chúng ta
ngày nay chính là một lối phát âm bắt nguồn từ cách đọc các chữ Hán trong
khoảng Đường-Tống. H. Ma-xpê-rô, trong cuốn Khảo sát về ngữ âm lịch sử
tiếng Việt, đă phát biểu: “Chính xuất phát từ tiếng Hán thế kỷ thứ 9, thứ
10 mà sản sinh ra tiếng Hán-Việt.” Giáo sư Vương Lực [ở Trung-quốc],
trong Hán ngữ sử luận văn tập, cũng khẳng định: “Đời Đường, ở Việt Nam mở
trường, bắt học chữ Hán, học được một cách rất có hệ thống... Tiếng
Hán-Việt chính sản sinh ra từ thời kỳ đó.” (như trên, trang 88)
V́ nghiên cứu về ngữ-âm-học lịch-sử (dựa trên
những sách như Thiết-vận, Quảng-vận và Tập-vận của Trung-hoa) đă cho phép
ông khẳng-định điều trên nên ông cũng dứt khoát bác bỏ thuyết của Nguyễn
Văn San và cụ Trần Văn Giáp: “Thành thử, qua các cứ liệu ngữ âm lịch sử
hói trên, dầu muốn dựa vào tài liệu nào, cuối cùng chúng ta cũng phải đi
đến một ư nghĩ: khó ḷng mà chấp nhận được giả thuyết cho rằng chữ Nôm đă
h́nh thành trước hay ngay từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ 2 - 3).” (như trên,
trang 103-104)
Tiếp nối cách suy tư và khảo-hướng của Nguyễn
Tài Cẩn, ông Lê Văn Quán trong cuốn Nghiên cứu về chữ Nôm (Hà-nội, 1981)
có nguyên một chương bàn về “Thời kỳ xuất hiện chữ Nôm” duyệt lại một số
giả-thuyết (về âm đầu, về nguyên-âm) cũng đến cùng kết-luận (trang 69):
Căn cứ vào các tài liệu về ngữ âm lịch sử
giữa tiếng Hán và tiếng Việt hay căn cứ vào các cứ liệu lịch sử chúng ta
chỉ có thể đi đến nhất trí: Chữ Nôm của chúng ta hiện có, một thứ chữ xây
dựng trên chất liệu chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, không thể xuất hiện ở
thời Sĩ Nhiếp (tức là cuối thế kỷ thứ II - đầu thế kỷ thứ III).
Chữ Nôm chỉ xuất hiện khi âm Hán-Việt đă được
h́nh thành ở Việt Nam, lúc nước nhà đang chuyển ḿnh sang thời kỳ độc lập,
tự chủ tức là khoảng thế kỷ thứ VIII-IX.
Tuy nói thế rồi song ông Lê Văn Quán lại cũng
công-nhận là có một số trường-hợp mà chữ Nôm của ta lại “giữ dấu vết âm
đầu Hán cổ” (trang 109-112) cũng như là có “những vần c̣n giữ dấu vết âm
Việt cổ” (trang 118-124), nghĩa là có thể có từ đời Hán chứ không phải chỉ
mới có sau này, thế-kỷ thứ VIII thứ IX mà thôi. Thành thử về vấn-đề nguồn
gốc chữ Nôm, nếu trong nước giờ như có một sự đồng-thuận là nó không thể
trở về trước quá thế-kỷ thứ IX (theo Nguyễn Tài Cẩn) hay thế-kỷ thứ VIII
(theo Lê Văn Quán), th́ thực ra vẫn có một số hiện-tượng chữ Nôm phản ánh
một t́nh-trạng ngữ-âm có trước thế-kỷ VIII. Do đó nên ta vẫn c̣n cần phải
xét lại sự đồng-thuận trên đây.
Sách của Lê Văn Quán cũng c̣n nghiên cứu khá
tường-tận một số từ-ngữ ở trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa để cho rằng
trên cơ-sở một số cứ-liệu mà ông tŕnh bầy (nhất là về tên một số thứ
thuốc, chỉ có từ thời Lư Thời-trân bên Tàu (thế-kỷ XVI) với sách Bản thảo
cương mục) th́ “chúng ta có thể nhất trí rằng: Sách Chỉ nam ngọc âm giải
nghĩa phải xuất hiện sau thế kỷ XVI.” (trang 152) Bên cạnh đó, ông Quán
c̣n giới-thiệu một cuốn sách thuốc, Thập tam phương gia giảm tương-truyền
là của Tuệ Tĩnh (có nguồn tin cho là người đời Trần, có nguồn tin khác lại
bảo thuộc đời Lê), mà ông cho là cũng thuộc về thế-kỷ XVII chứ không thể
sớm hơn, cũng v́ tên của những vị thuốc ghi trong đó là những tên chỉ có
từ thế-kỷ XVI ở bên Tàu. Tuy-nhiên, sách vẫn đủ xưa để cho ta có thể dùng
mà nghiên cứu chữ Nôm khoảng thế-kỷ XVII, tương-đương với tiếng Việt phản
ánh trong từ-điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes.
Để kết-luận
Cuốn sách mới in ra ở hải-ngoại của cụ Trần
Văn Giáp, ngoài việc làm báo hiếu của G.S. Trần Văn Đĩnh, tuy có hơi xưa
(viết đă trên 30 năm) song vẫn là một đóng góp rất đáng trân trọng và cần
có, phải có đối với ai có ḷng với tiếng nước nhà và lịch-sử tiếng Việt,
lịch-sử chữ Nôm. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về chữ Nôm mà xuất bản ở
hải-ngoại (trừ một cuốn tự-điển chữ Nôm, cuốn Giúp đọc Nôm và Hán-Việt của
Linh-mục Trần Văn Kiệm, in ra năm 1998). Trước đây chỉ có những bài báo
hay hay bài khảo-luận, nghiên cứu về chữ Nôm như bài rất giá trị của G.S.
Nguyễn Đ́nh Ḥa lược-duyệt tất cả những công-tŕnh nghiên cứu chữ Nôm của
miền Nam (như của các cụ Nguyễn Khắc Kham, Bửu Cầm, Trần Kinh-Ḥa, tự-điển
chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Nguyễn Quang Xỹ) cũng như miền Bắc, ở trong
nước cũng như ở ngoài nước (không chỉ ở Pháp mà c̣n ở cả Nhật) trong một
tài-liệu viết cẩn trọng do Academia Sinica ở Đài-loan in ra năm 1990, tập
Graphemic Borrowings from Chinese: The Case of Chữ Nôm – Vietnam’s Demotic
Script (“Mượn chữ viết từ chữ Hán: Trường-hợp chữ Nôm, chữ viết b́nh-dân
của Việt-nam”). G.S. Nguyễn Đ́nh Ḥa giờ đă nằm xuống nhưng chắc ông phải
hài ḷng và mỉm cười nơi chín suối khi biết là cái đam mê nghiên cứu ngôn
ngữ và văn-hóa nước nhà của ông vẫn có người tiếp tay và tiếp nối, nhất là
trong khung cảnh thật khó khăn (nh́n về mặt nghiên cứu Hán-Nôm) của cuộc
sống đa đoan ở hải-ngoại.
|
|