H́nh
Thành & Quá Tŕnh Sáng Tác Chữ Nôm
Vơ Thư Tịnh, Paris
I - H́nh thành chữ nôm
Tự lai, ở Việt Nam thấy có ba thứ chữ viết :
1 - Chữ Hán (chữ của dân Hán) c̣n gọi
là chữ Nho (chữ của các nho sĩ) là chữ viết của người Trung-hoa,
mà chính quyền đô hộ Tàu cưỡng nhập vào nước ta, để dùng làm văn tự
chính thức. Về sau, trong thời gian gần một ngh́n năm tự chủ (938-1884)
và cả giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc (1884-1917), các vua ta vẫn tiếp
tục dùng chữ Hán làm văn tự chính thức quốc gia. Lúc đầu ta đọc chữ Hán
theo giọng người Tàu đời Đường ở thế kỷ thứ X, rồi dần dần giọng đọc ấy
bị Việt hóa hẳn đi, trong lúc đó giọng đọc người Trung-hoa hiện nay lại
biến đổi rất nhiều, nên hai bên không c̣n hiểu nhau được nữa, chỉ dùng
bút đàm để giao dịch mà thôi
2 - Chữ Nôm là chữ viết do các nho sĩ
ta, ở thế kỷ XIII, dựa
theo phép lục thư (sáu phép cấu tạo chữ) của Trung-hoa, mà chế ra một
thứ chữ mới (gọi là chữ nôm = nam) để phiên âm tiếng Việt. Người Hoa đọc
chữ nôm không hiểu được.
3 - Chữ quốc ngữ do các giáo sĩ Thiên
Chúa giáo Pháp, Ư, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha đến
truyền đạo ở nước ta vào khoản thế kỷ XVIII, dùng mẫu tự la-tinh phiên
âm ngôn ngữ Việt Nam để tiện bề ghi chép kinh thánh. Rồi đến 1917, chính
quyền đô hộ Pháp dùng chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán làm văn tự chinh
thức cho nước ta.
Như vậy, chữ Hán
chỉ dùng để ghi chép ngôn ngữ dân Hán, là một ngoại ngữ, c̣n chữ nôm và
chữ quốc ngữ dùng để ghi chép ngôn ngữ Việt Nam.
Chữ nôm và chữ quốc ngữ mới thật là văn tự quốc gia của nước ta. V́ theo
định nghĩa cổ điển, "một ngôn ngữ đúng với danh vị ấy, là một hệ thống
những tiếng có những nghĩa được một đoàn thể, một sắc dân qui định, chấp
nhận, khi nói ra th́ tất cả những người trong đoàn thể, trong sắc dân ấy
đều hiểu được" (Février).
A - Phép
cấu tạo chữ của người Hoa
Muốn hiểu rơ sự h́nh thành chữ nôm, tưởng nên biết sơ qua phép lục thư
hay sáu phép cấu tạo chữ của văn tự Trung-hoa. Nguyên tắc căn bản của
phép lục thư đại khái là :
a - Dùng h́nh vẽ tượng trưng một số sự vật cụ thể
hay trừu tượng, để tạo thành một số chữ căn bản
b - rồi ghép các chữ căn bản ấy lại
c - hoặc biến đổi các nét vẽ các chữ căn bản ấy
d - hoặc biến đổi giọng đọc (thanh) của các chữ căn bản ấy để tạo
thành tất cả các chữ khác. Dùng h́nh vẽ để tạo một số chữ căn bản :
1 - Phép tượng h́nh
:
Dùng h́nh vẽ tượng trưng một vật cụ thể, như vẽ ba chóp núi tượng trưng
"ḥn núi", người Hoa đọc là "shan" (núi) ; vẽ 1 gạch ngang, một sổ
thẳng, hai vệch xuống hai bên, tượng trưng một cây có cành ngang, rễ
dọc, Hoa đọc là "mu" (cây).
2 - Phép chỉ sự -
Dùng h́nh vẽ để chỉ những sự việc trừu tượng. Như dùng một gạch ngang
làm mốc, một sổ thẳng phía trên với một chấm dính vào, chỉ đây là phía
trên, người Hoa đọc là "shang" (trên) ; vẽ một gạch ngang làm mốc, một
sổ phía dưới với một chấm nhỏ dính vào, chỉ đây là phía dưới, người Hoa
đọc là "xia" (dưới) :
shan (núi) mu (cây) shang (trên) xia (dưới)
Ghép hai chữ căn bản lại để tạo chữ mới
3 - Phép hội ư -
Ghép hai chữ, ư của hai chữ ấy hộp lại gợi ra một ư mới. Thí dụ ghép :
"kou " + "niao" = "ming" "jin" + "lỉng" = linh
(miệng) + (chim) = (kêu)
linh (chuông)
chữ "kou" (miệng) với chữ"niao" (chim) tạo thành
chữ Hán "ming" (kêu) (chim mở miệng gợi ra ư "kêu")
4 - Phép tượng thanh -
Ghép hai chữ : một phần chỉ âm và một phần chỉ ư.
Thí dụ ghép một chữ có âm "lỉng", với chữ "jin" chỉ ư (vàng, kim khí),
tạo thành một chữ mới người Hoa đọc là "ling" (cái chuông) gợi ư> chuông
là một vật phát âm đọc là "ling" và làm bằng kim khí). kou + niao = ming
(kêu) jin + lỉnh = linh (chuông) ( Biến đổi nét vẽ hay dấu giọng của
một chữ căn bản để tạo chữ mới
5 - Phép chuyển chú -
Biến đổi nét vẽ (thêm, bớt hay dời chỗ nét vẽ) của một chữ đă có sẵn, để
tạo thành một chữ mới. Ví dụ chữ "xiao" (nhỏ), nếu thêm một phảy tréo
phía dưới, sẽ thành chữ "shao" (ít).
"xiao" (nhỏ) "shao" (ít). Xiang (với nhau)
6 - Phép giả tá -
Mượn một chữ có sẵn, rồi biến đổi dấu giọng (thanh) của chữ ấy để tạo
thành một chữ mới. Ví dụ chữ "xiáng" (h́nh dáng) bỏ dấu đi sẽ thành chữ
"xiang" (với nhau).Xiao (nhỏ) Shao (ít) Xiáng (h́nh) Xiang (với
nhau)
B - Phép
cấu tạo chữ nôm
Các nho sĩ ta ngày xưa đă dựa theo các phép trong lục thư của Trung Hoa
trên đây, để sáng chế ra chữ nôm, như :
a - Phép hội ư -
Ghép hai chữ Hán với nhau, nghĩa của hai chữ ấy hội lại, gợi ra một ư
mới. Chẳng hạn như ghép chữ Hán "nhân" (người) với chữ Hán "thượng" (ở
trên) tạo thành một chữ nôm "trùm", nghĩa Việt là "người đứng đầu một
nhóm" như "trùm xóm", "trùm đĩ ", v.v... ư được gợi ra : đó là người có
địa vị ở trên những người khác
nhân (H : người) + thượng (H : ở trên ) = trùm (V. : trùm)
b - Phép hài
(tượng) thanh
Ghép hai chữ Hán lại với nhau : l chử chỉ âm, một chữ chỉ ư. Chẳng hạn
ghép chữ Hán "thổ (đất) chỉ ư, với một chữ Hán có âm là "cát"(may mắn),
tạo thành một chữ nôm đọc là "cát" (tiếng Việt : phát âm "cát", ư chỉ
vật thuộc về một loại đất) ...
bộ thổ (H : đất) + cát (H : may mắn) = cát (V : đất cát)
c - Phép giả tá -
(giả tá : mượn) mượn chữ Hán để biến thành chữ Việt, bằng
4 cách :
1 - Mượn nguyên
những chữ Hán đă được Việt hóa(mà ta gọi là chữ Hán Việt), tỉ
như các chữ : chủ tọa, đại lộ, minh bạch, toán học v.v... Ta chép y chữ
Hán, rồi đọc theo giọng Hán đời Đường đă Việt hóa :
chủ tọa đại lộ minh bạch toán
học
2 - Mượn những chữ
Hán đồng âm dị nghĩa với tiếng Việt.
Chẳng hạn như mượn chữ Hán có âm là "chi" (nghĩa là : của, như trong
"dân chi phụ mẫu" : cha mẹ của dân"...) để phiên âm tiếng Việt "chi" (có
nghĩa là : "ǵ ?" như trong "anh nói chi ?") ;
"chi" "qua "
mượn chữ Hán có âm là "qua" (nghĩa là cái mác, một
binh khí thời xưa) để phiên âm tiếng Việt "qua" (có nghĩa là : đi
ngang). chi (H : của) chi (V : ǵ ?) qua (H : mác) qua (V : đi)
3 - Mượn một chữ
Hán có âm tương tự với âm của tiếng Việt rồi đọc trại đi để
dùng làm một từ tiếng Việt. Chẳng hạn như mượn chữ Hán "biệt" (nghĩa là
: rời cách riêng ra) để ghi âm tiếng Việt "biết" (nghĩa là : nhận thấy
rơ) ; mượn chữ Hán "nữ" (nghĩa là : đàn bà) để ghi âm tiếng Việt "nữa"
(nghĩa là : chưa hết)
biệt (H : rời) biết (V : rơ) nữ (H : gái) nữa(V : chưa hết)
4 - Mượn một chữ
Hán, nhưng không đọc theo âm Hán, mà dịch nghĩa ra tiếng Việt để
phát âm. Tỉ dụ viết chữ mà người Hoa đọc là "kỷ" (ghế), ta dịch thẳng ra
tiếng Việt để đọc "ghế" ; viết phần trên của chữ mà người Hoa đọc là
"vi" (làm), ta dịch thẳng ra tiếng Việt để đọc "làm".
Kỷ (H : ghế) Ghế (V : ghế) Vi (H : làm) làm (V : làm)
d -
Phép chuyển chú
- Biến đổi (thêm, bớt, hay dời chỗ) nét vẽ của một chữ có sẵn, để tạo
thêm một chữ mới. Ngày xưa, người ta thường thêm vào bên cạnh một chữ
Hán có âm tương tự với âm của một tiếng Việt (nhưng khác nghĩa) một
trong những dấu đặc biệt gọi là dấu cá , , dấu nhấp nháy ,
hay một dấu giống như chữ "khẩu" mà thu nhỏ lại, để biến chữ Hán ấy
thành ra một chữ nôm, rồi phát âm trại đi cho đúng với giọng và nghĩa
của tiếng Việt,
"lộ" (đường đi) "la" (cái màn)
(1) tỉ dụ như chữ
Hán "lộ" (đường đi),
có thêm dấu cá sẽ thành một chữ nôm, đọc là "lọ" (cái b́nh nhỏ) ; chữ
Hán "la" (cái màn) có
thêm dấu "chữ khẩu nhỏ" bên cạnh, sẽ thành một chữ nôm, đọc là "ra" (đi
ra). lộ (H : đường)> lọ (V : b́nh) H (la : màn)>ra (V : đi) *
Tóm lại, chữ nôm phần lớn đều được h́nh thành theo phép giả tá,
căn bản là mượn những chữ Hán đồng âm dị nghĩa (homophone) biến chế hoặc
đọc trại đi để phiên âm tiếng Việt. Nhưng trong tiếng Việt không có
nhiều tiếng "đồng âm dị nghĩa" hẳn với tiếng Hán, nên phải mượn những
tiếng Hán có âm gần giống với âm tiếng Việt mà cấu thành.
Ngày xưa lại không có một cơ quan nào lo việc thống nhất cách viết chữ
nôm, nên có t́nh trạng cùng mượn một chữ Hán mà mỗi người, mỗi nơi đọc
trại đi một cách, hoặc cấu tạo chữ nôm một cách khác nhau.
Bất tiện thứ hai là muốn đọc chữ nôm phải học qua chữ Hán. Cũng
như chữ Hán, chữ nôm học chữ nào, nhớ chữ ấy, không có "mẫu tự" hay "chữ
cái" để rắp vần như ở chữ quốc ngữ, thành ra phải nhớ thuộc ḷng đến
hàng trăm trăm chữ. Như thế học chữ nôm phải tốn công, tốn th́ giờ.
Song chữ nôm cũng có cái lợi là ở một số chữ, nhờ các "phần chỉ ư" mà có
thể phân biệt được các từ đồng âm dị nghĩa. Ví dụ, chữ "năm" ở quốc ngữ
chẳng hạn, gồm có ba chữ cái N-Ă-M, viết riêng rẻ không ai rơ được đó là
"năm tháng" hay là "số 5". C̣n ở chữ nôm, v́ hai chữ "năm" viết khác
nhau :
1 - Phần chỉ ư : "niên" (12 tháng) + phần chỉ âm : "nam" (phía nam) dùng
phát âm> "Năm"
2)- Phần chỉ ư : "ngũ" (số 5) + phần chỉ âm : "nam" (phía nam) dùng phát
âm> "năm" Nên người đọc biết ngay chữ "năm" trên" chỉ thời gian 12
tháng, c̣n chữ "năm" dưới chỉ số 5. Trong nhiều trường hợp khác,
cũng nhờ các "phần chỉ ư" trong chữ nôm mà ta có thể phân biệt các "phụ
âm đầu chữ" như "d và g" (bà d́, cái ǵ ; dă tâm, giả định...) hay các
"phụ âm cuối chữ" như "n và ng" (đan áo, đang khi), "c và t" (các
người, cát bụi)..
II- Quá tŕnh tiến triển văn nôm
Chưa ai biết được chữ nôm đă được h́nh thành vào lúc nào ? Do ai sáng
chế ra ? Trước đây, theo B.E.F.E.O. (Nội san Trường Viễn Đông Bác Cổ
Pháp) quyển XII, số 1, H. Maspéro đă t́m được trên núi Dục Thúy (Ninh
B́nh) một tấm bia khắc năm 1343, dưới đời Trần Dụ Tông, có ghi hai mươi
chữ nôm. Nhưng hiện nay không t́m ra được tấm bia ấy.
Năm 1970, Đào Duy Anh cho biết trong một tấm bia khác, khắc năm 1210
dưới đời Lư Cao Tông, hiện ở tại chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lăng,tỉnh
Phúc Yên (Vĩnh Phúc ngày nay) có ghi 21 chữ nôm về tên người cúng ruộng
cho chùa, và các tên làng, sông, núi giới hạn ruộng. (2)
Ngoài ra, theo Khâm định Việt sử thông giám, Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên)
vào đầu thế kỷ XIII, đă dùng chữ nôm làm bài "Văn tế cá sấu". Sau đó,
Nguyễn Sĩ Cố (hạ bán thế kỷ XIII) Chu văn An (thế kỷ XIV) đều có sáng
tác bằng chữ nôm. (Song các tác phẩm ấy hiện bị thất lạc).
Có người cho rằng các truyện bằng thơ viết bằng chữ nôm, như Trê Cóc,
Trinh thử ... cũng được sáng tác vào các thời kỳ nầy. Tuy nhiên, xét về
h́nh thức, có những chi tiết chứng tỏ rằng các tác phẩm nầy thuộc về các
thế kỷ sau.( Đời Lê và sự phát triển văn nôm Đến thế kỷ XV văn chữ
nôm mới bắt đầu được h́nh thành với Hồng Đức quốc âm thi tập và nhất là
với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trăi. Hiện nay, Quốc âm thi tập là tập
thơ chữ nôm cổ nhất c̣n lưu lại đến ngày nay. Với lời văn giản dị và tự
nhiên, những bài thơ trong tập nầy nói lên được ḷng thiết tha yêu nước,
nỗi ghê tởm chán chường của tác giả trước cảnh tham nhũng của bọn quan
lại đương thời, và ḷng khắng khít với cuộc sống thanh đạm xa rời thế
tục.
Phải đợi đến thế kỷ XVI, chữ nôm mới có những tiến triễn rơ ràng về
phương diện h́nh thức cũng như về nội dung. Nhà văn chữ nôm nổi tiếng
nhất ở thời kỳ nầy là Nguyễn Bînh Khiêm c̣n gọi là Trạng Tŕnh. Tập thơ
Bạch Vân quốc ngữ thi tập của ông đă thăng hoa cuộc sống nhàn nhă, cô
tịch, sự giao cảm với thiên nhiên, và bộc lộ nỗi ḷng hối tiếc v́ đă
không có thể phụng sự đất nước đắc lực hơn, theo như sở nguyện b́nh sinh
của ḿnh. Vào thế kỷ XVIII, văn chương chữ nôm đă tiếp tục tiến
triễn khả quan trong nhiều thể loại : thơ, ca ngâm, nhất là truyện dài
bằng văn vần. Về thơ đặc biệt có hai nữ thi sĩ có tài là Đoàn thị Điểm
người (mà được cho là) đă diễn dịch bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
viết bằng chữ Hán, ra thơ song thất lục bát bằng chữ nôm, và Hồ Xuân
Hương, với những bài thơ dí dỏm, rạo rực dục t́nh, đă tả chân những
nhục cảm, nhục thể qua lối "lời thanh giảng tục". Cũng ở thời
gian nầy, ta thấy xuất hiện dồn dập đủ các loại ngụ ngôn, ca dao, truyện
kể dân gian, truyện tiếu lâm phúng thế, như truyện Trạng Quỳnh, Trạng
Lợn, Tú Xuất, Ba Giai ... nguyên ở thể "truyền khẩu" nhưng về sau được
ghi lại bằng chữ nôm, nhưng không rơ các người ghi lại ấy là những ai ?
1 - Lê
mạt - Nguyễn : sơ thời cực thịnh của văn nôm
Cuối đời nhà Lê và đầu nhà Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII - đầu
thế kỷ XIX) là thời cực thịnh của văn nôm với những truyện thơ nổi tiếng
như Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, và Nguyễn Thiện nhuận sắc, Đoạn Trường
Tân Thanh của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều ; Bích
Câu ḱ ngộ (vô danh), Phan Trần (vô danh), Nhị độ Mai (vô danh), Quân
trung đối (3) (Chu Kiều, em ruột của Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn
Đ́nh Chiểu) ...
Đoạn Trường Tân Thanh (truyện Kiều) là một tuyệt tác được phổ biến rộng
răi nhất của văn học Việt Nam : lời thơ nhẹ nhàng, thanh nhă, tâm lư sâu
sắc, phản ảnh sống động cả một xă hội thối nát nhiễu nhương của buổi
giao thời. Ba mối t́nh của Kiều, (t́nh thơ mộng với người yêu Kim Trọng,
t́nh chăn gối với người chồng họ Thúc, t́nh tri kỷ với người hùng Từ
Hải), là ba thành tố chính yếu "cần thiết và đầy đủ", bất khả phân ly,
để xây dựng hạnh phúc vợ chồng. Kiều đă được hưởng đủ cả ba, nhưng cái
trớ trêu bi đát của định mệnh là ba mối t́nh ấy lại bị tách rời ra ở ba
đối tượng khác nhau, trong thời gian và không gian khác nhau : ba "phút
huy hoàng rồi chợt tắt", xen kẻ với những cảnh "đau khổ nhục nhă" trong
lầu xanh ! Phần đông độc giả xưa nay, đă t́m thấy trong truyện Kiều một
phản ảnh tương tự với những t́nh tự định mệnh oái ăm của chính ḿnh...
để cùng than khóc cho người xưa, cũng như ngậm ngùi đau xót cho bản
thân. V́ thế mà truyện Kiều đă được nhiều người say mê và sẽ c̣n say mê
măi măi chăng ? Đoạn Trường Tân Thanh là kết tinh ḱ diệu của văn nôm,
từ thể "nói lối", "lục bát tự do" của thi ca b́nh dân, biến hóa thành
thể "lục bát" bác học hóa mà ta quen gọi là "lục bát chính thức".
Và nếu Nguyễn Du mượn truyện t́nh dở dang giữa Kiều và Kim Trọng mà giải
bày nỗi khổ tâm của một cựu thần nhà Lê phải ra làm việc với nhà Nguyễn,
th́ em ruột ông là Chu Kiều hẳn cũng mượn truyện t́nh chung thủy giữa La
Thành và Đậu Tuyến Nương, mà phát huy ḷng trung thành của ḿnh đối với
nhà Lê, để gián tiếp chống lại anh ḿnh là Nguyễn Du chăng ?
Ở tiền bán thế kỷ XIX, một thể loại mới, "ca trù" (hát nói), (do các nhà
nho viết lời ca, đưa cho các cô đào hát để thưởng thức), đă được Nguyễn
Công Trứ và Cao Bá Quát cải chế hoàn hảo. Nguyễn Công Trứ, một nhà
thơ vừa là một vị quan văn vơ toàn tài, đă từng lănh chức thượng thư,
hay đại tướng, cũng như đă từng bị giáng xuống tri huyện hay lính thú ở
biên cương. Cho nên các bài ca trù của ông thường chứa đựng những t́nh
tự tương phản nhau : hăng hái làm việc phi thường lưu danh hậu thế, mà
vẫn khao khát thoát ra cuộc đời để hưởng thú an nhàn, tha thiết với công
danh mà vẫn không ch́m đắm trong lợi danh, sống theo đạo lư cương thường
mà vẫn t́m mọi cách hưởng thụ cuộc đời.
Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát đều dựa vào Nho giáo mà hành động, một
bên theo tinh thần tôn quân, một bên hướng về tinh thần "cách mệnh Thang
Vơ", một danh từ mà sử gia Trung Hoa Tư-mă Thiên, đă dùng để chỉ việc
vua Thang diệt vua Kiệt tàn bạo, vua Văn diệt vua Trụ hoang dâm, v́ theo
Nho giáo Vua là người được Trời giao cho sứ mệnh lo cho dân no ấm, yên
lành, nếu Vua nào tàn ác, vô đạo làm cho dân đói khổ, lầm than, th́ Trời
cách (hủy bỏ) cái sứ mệnh ấy mà giao lại cho người khác hiền đức hơn. Do
đó có từ "cách mệnh" mà ta dịch là "révolution".(a) Nếu Nguyễn Công
Trứ chấp nhận cuộc đời với tất cả những nghịch cảnh, cho rằng "thiên
hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức" (luật Trời vận hành một cách
cứng rắn, người quân tử phải dựa vào đấy mà tự sức tranh đấu không
ngừng) th́ Cao Bá Quát thường hay chán nản trước cuộc đời ngắn ngủi :
"Ba vạn sáu ngh́n
ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực
cười
"Thôi công đông chuốc lấy sự đời
..."
"Làm chi cho mệt một đời ! ..."
Phải chăng v́ trước cái cái ngắn ngủi của cuộc đời,
cái bất lực của con người bất uất hận với mọi áp bức, bất công của chế
độ, mà trong các bài ca trù toàn bích của Cao Bá Quát đă tràn đầy những
nỗi chán chường, thê lương, năo nuột ... Cũng trong thời "hoàng kim"
của văn nôm nầy, phải kể đến bà huyện Thanh Quan, một nữ thi sĩ có những
bài Đường thi trang nhă, giọng buồn một nổi hoài Lê nhẹ nhàng kín đáo.
2 - Thời
suy vong của văn nôm
Năm 1888, Pháp quyết tâm xâm chiếm nước ta. Trước binh lực tối tân,
Triều đ́nh chủ trương ḥa hoăn, nhượng bộ, dần dần đi đến đầu hàng.
Trong lúc đó nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục chống lại, cuộc kháng chiến
kéo dài suốt trên bốn mươi năm, do các nho sĩ và cũng do các vua như Hàm
Nghi, Duy Tân khởi xướng lănh đạo (thất bại, bị chính quyền thuộc địa
Pháp truất phế và lưu đày).
Trong thời kỳ nầy, hầu hết các tác phẩm văn nôm đều tràn ngập tinh thần
bất khuất và quyết chiến chống ngoại xâm của sĩ, dân Việt Nam chúng ta.
Các nhà văn thơ không chủ trương sáng tác "nghệ thuật v́ nghệ thuật".
Văn thơ lúc nầy chỉ là một hương tiện để kêu gọi ḷng yêu nước thương
ṇi, ḷng hi sinh tranh đấu cho độc lập của đất nước. Trong số những nhà
văn thơ đương thời, đáng kể nhất là Nguyễn Đ́nh Chiểu.
Nguyễn Đ́nh Chiểu là một nhà văn người miền Nam đă từng chứng kiến, từ
đầu cho đến cuối, đến năm 1888, là năm ông qua đời, bao cảnh đau thương
thê thảm của dân gian, qua những các cuộc gây hấn, giao tranh của quân
Pháp mưu đồ xâm chiếm nước ta. Ông là gương mẫu một nhà Nho yêu nước,
suốt đời tận tụy dùng ng̣i bút tranh đấu bảo vệ cho Tổ Quốc Việt Nam,
cho cái Đạo của thánh hiền đang bị lâm nguy.
Ông viết nhiều văn nôm, như truyện Lục Vân Tiên, thể thơ lục bát, mà vai
chính là một chàng trai hào hùng, mặc dầu gặp bao hiểm nguy ngang trái,
vẫn giữ vững đạo đức sĩ khí nho phong. Như trường ca Dương Từ - Hà Mậu,
động viên ḷng ái quốc và đạo Nho, bài bác những tôn giáo ngoại lai một
cách hùng hồn ; Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giồi,Văn tế Trương Công Định, than
khóc thống thiết các chiến sĩ đă hi sinh cho chính nghĩa, cho kháng
chiến.
Khi người Pháp đă đặt được cơ sở cai trị ở nước ta, th́ cơ cấu xă hội
Việt Nam cũng bắt đầu bị xáo trộn đến tận gốc rễ. Một "giai cấp mới"
xuất hiện. Một "lớp người đầu hàng và ra làm tay sai cho quân xâm lăng"
và nhờ đó chúng có tiền của, địa vị hơn trước, như bọn quan lại, nha
thuộc, bồi bếp, trưởng giả thị thành, chức sắc hương thôn...
Trong khi nhiều người khác, như các Nho sĩ, nhất định không cọng tác với
chính quyền thực dân, cam ḷng sống cảnh thanh bần để giữ tṛn khí tiết.
Cảm thấy bất lực trước bạo lực của quân thù, họ chỉ biết dùng thơ văn
"trào phúng", chế diễu thói đời, chế diễu bọn người vô liêm sỉ kia, đồng
thời cũng tự chế diễu cái bất lực hư hèn của bản thân, và đă phá uy thế
của quân thống trị, của bọn tay sai của chúng, cho hả hơi, hả giận !
Trào phúng vốn là một khí giới sắc bén của kẻ yếu để chống trả với những
kẻ lớn mạnh hơn ḿnh. V́ " đối với những hỗn xược, xă hội trả lời bằng
tiếng cười, là một hỗn xược c̣n lớn mạnh hơn nữa... Cái cười trước hết
là một phương tiện để trừng phạt. Cười lên cốt để sỉ nhục ... " (4)
Trong số các nhà văn phúng thế đương thời ấy, đáng kể nhất có Nguyễn
Khuyến và Trần Tế Xương hay Tú Xương. Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên(b)
, làm quan đến chức Tổng Đốc ba tỉnh Sơn- Hưng-Tuyên (c) .
Năm 1885, sau khi quân Pháp đánh chiếm Bắc Hà, Hà Nội hai lần thất thủ,
triều đ́nh Huế kư hiệp ước nhận quyền bảo hộ của Pháp, ông đau buồn cho
quốc sự, lấy cớ bị đau mắt nặng, cáo quan về hưu. Người Pháp mời ông ra
làm lại Tổng Đốc, ông nhất định từ chối. Về làng, ẩn cư, ông sáng tác
nhiều bài thơ trào lộng phúng thế, tiếng cười nhẹ nhàng, trang nhă nhưng
không kém phần mỉa mai cay độc. Nhưng sau những tiếng cười diễu, vọng
lại bao niềm tủi hận buồn đau.
Nguyễn Khuyến c̣n là một nhà thơ trữ t́nh, yêu mến thiên nhiên, một thi
sĩ của mùa thu với chiếc thuyền con trên ao lạnh, với bầu trời mây lơ
lửng, với đôi tiếng ngổng nước nào trên từng trời cao thẳm... Nguyễn
Khuyến cũng là một nhà thơ của t́nh bạn khắng khít "đối diện đàm tâm"
theo lối các nhà Nho ngày xưa, của t́nh thương xót cho đồng bào trong
những lúc thiên tai thủy nạn ! Giọng thơ của ông chân thành, tế nhị,
trang trọng, thuần túy Việt Nam.
Ông thường tự trách : bao nhiêu văn bằng, bao nhiêu học vấn, bao nhiêu
quyền cao chức trọng của ông cũng không ích lợi cho nhân dân tổ quốc lúc
lâm nguy ! Mà bất lực, đành khoanh tay nh́n cảnh nước mất, nhà tan, đồng
bào điêu linh, đau khổ ! Trần Tế Xương là một nhà thơ b́nh dân. Ông
thi hương mấy lần đều bị hỏng, chỉ được mỗi một chứng chỉ tú tài (d) ,
nên gọi là Tú Xương. Cũng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương đă viết nhiều bài
thơ nôm phúng thế, chế diễu thói đời lố lăng của một xă hội bị phân hóa
ở buổi giao thời, của một giai cấp xu thời vô liêm sỉ mới xuất hiện, và
cũng để tự cười cái thân phận lỡ thời lỡ vận, nghèo túng của ḿnh. Nếu
cái cười của Nguyễn Khuyến kín đáo, thanh nhă, rộng lượng của một bậc
hiển nho bất đắc ư, th́ cái cười của Trần Tế Xương là cái cười trắng
trợn, đầy hằn học của một nhà nho bất đắc chí, trước viễn tượng "vợ lăm
le ở vú, con tấp tểnh đi bồi". Tú Xương không làm thơ văn chữ Hán, chỉ
sáng tác bằng chữ nôm. Thơ ông vừa viết ra là được phổ biến rộng răi,
nhanh chóng khắp nơi. Ông qua đời vào năm 1907.
Với cái chết của nhà Nho cuối cùng nầy, quá tŕnh sáng tác văn nôm đă
cáo chung. Văn nôm nhường chỗ cho văn quốc ngữ. Thế hệ Nho sĩ ảnh hưởng
Khổng Mạnh Trung-hoa nhường chỗ cho thế hệ trẻ ảnh hưởng văn hóa Âu
Tây.*
Tóm lại, trong thời gian trên 400 năm, quá tŕnh diễn tiến văn nôm đă
thực hiện tiếp cận song hành với quá tŕnh diễn tiến của ngôn ngữ Việt.
Văn Việt từ thời Nguyễn Trăi ở thế kỷ XV đến văn Việt thời Nguyễn Du đă
tiến một bước vô cùng trọng đại. Khởi đầu, chữ nôm được h́nh thành do
những sáng chế của một số Nho sĩ riêng rẻ, thúc đẩy bởi nhu cầu diễn tả
t́nh ư, cảm xúc của con người Việt, muốn có một chữ viết riêng để ghi
lại những t́nh tự, nguyện vọng của người dân Việt nhằm hoàn thành cho
được nền độc lập quốc gia. Đây là một phản ứng của cả toàn dân Việt Nam
để đấu tranh thoát ra cho khỏi nền thống trị của văn hóa ngoại lai từ
phương Bắc cưỡng nhập vào nước đă bao nhiêu thế kỷ.
Đầu thế kỷ XVII, Trần Anh Tông ra lệnh cho các quan ở địa phương phải
dịch những công văn chữ Hán ra chữ nôm để phổ biên cho dân gian được
thông hiểu.
Năm 1395, Hồ Quí Ly dịch thiên Vô Dật trong Kinh Thư ra chữ nôm để dạy
vua Trần Thuận Tông, ngụ ư khuyên kẻ làm vua chúa không nên nhàn rổi, và
năm 1396, làm ra sách Thi Nghĩa (nghĩa của Kinh Thi) bằng chữ nôm, sai
nữ sử đem dạy hậu, phi và cung nhân của Thuận Tông. Hồ Quí Ly thích
sáng tác bằng chữ nôm, nhưng chưa lấy chữ nôm làm văn tự chính thức,
Nguyễn Huệ mới là nhà vua đă ra lệnh mọi người phải dùng chữ nôm như là
văn tự quốc gia, trong các giấy tờ quốc gia như chiếu, biểu, công văn,
văn tế... và trong các khóa thi bắt buộc thí sinh phải làm thơ phú bằng
chữ nôm.
Tương truyền, Nguyễn Huệ đă tuyên bố rằng : "Người nước Nam phải dùng
tiếng nước Nam, phải có văn chương đặc biệt nước Nam để gây tinh thần
nước Nam, không cần đi mượn tiếng, mượn chữ nuớc Tàu". Ông đă ra lệnh
cho La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp "diễn dịch các sách tiểu học, Tứ Thư, và
giải thích ba kinh Thi, Thơ, Dịch theo kinh văn mà lấy từng chữ, từng
câu, diễn ra quốc âm". Đến đầu thế kỷ XIX (5), Nguyễn Trường Tộ, một
sinh viên Việt đă từng du học tại Rome và Paris, lúc về nước đă dâng lên
Tự Đức bản điều trần "Tế cấp bát điều" (để ngày 20 tháng 10 năm Tự Đức
thứ 20 - 1807), trong điều 4, khoản 5, đă đề nghị dùng chữ nôm làm quốc
tự thay thế chữ Hán, lập hội đồng cải cách và thống nhất cách viết chữ
nôm, cho soạn tự điển chữ nôm dùng trong các cơ quan chính quyền và
trong trường học. Nhưng một phần v́ bận rộn về những thất trận liên tiếp
trong công cuộc chống Pháp xâm lăng, một phần v́ triều thần thủ cựu
chống lại mọi đổi mới, nên chương tŕnh canh tân văn tự do Nguyễn Trường
Tộ đề xướng bị bỏ rơi.
Hiện nay nhiều người quên rằng đa số các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của
nước ta đă viết bằng chữ nôm. Nhờ có chữ nôm mà ta có được một kho tàng
đầy những tuyệt tác văn chương đáng cho dân tộc chúng ta hảnh diện, tự
hào : từ những truyện thơ như Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Hoa
Tiên của Nguyễn Huy Tự, những ngâm khúc như Chinh phụ ngâm của Đoàn thị
Điểm, Cung oán ngâm khúc của Ôn như hầu, những bài ca trù của Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, cho đến những bài thơ của Bà huyện Thanh Quan, Hồ
Xuân Hương, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, để chỉ kể
những tác giả nổi tiếng nhất mà thôi. Nhưng v́ ngày nay không mấy ai đọc
được chữ nôm, nên phải phiên âm các tác phẩm ấy ra chữ quốc ngữ cho sinh
viên học ở các trường, và phổ biến trong sách báo cho mọi người trong
nước đọc. Chính nhờ chữ nôm mà tiếng Việt đă được trưởng thành, tinh
vi, phong phú, và biến thành một công cụ , một trợ lực truyền thong đác
lực cho các nhà văn , nhà thơ, cho các học giả chữ quốc ngữ vào đầu
thế kỷ XX.
Tài liệu :
(1) - Nguyễn Tá Nhí, Lối đánh dấu cá trong chữ nôm, in “Tạp chí Hán
Nôm”, số 1 - 2, 1987, trang35-38.
(2) - Đào Duy Anh, Chữ Nôm, Nguồn gốc, Cấu tạo, Diễn Biến, Nxb Khoa
học-Xă hội, Paris, 1979, trang 14..
(3) - Chu Kiều (em ruột Nguyễn Du), Quân Trung Đối, Nxb Sudestasie,
Paris, 1995, "Lời nói đầu" của Vơ Thu Tịnh, trang 15-19..
(4) - Henri Bergson, Le Rire, Ed. France Loisirs, Paris, 1940, trang
128, 129 (A ces impertinences, la société réplique par le rire, qui est
une impertinence plus forte encore... Le rire est avant tout une
correction. Fait pour humilier).
(5) - Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận, Hội Văn Hóa hải ngoại, Paris,
1989, q 5, Bài chiếu bằng chữ nôm của vua Quang Trung gửi cho Nguyễn
Thiệp (La Sơn phu tử) về việc dịch sách, ngày mồng một tháng 6, năm
Quang Trung năm thứ 5, khoảng tháng 7/1792), trang 870,
(a) Thật ra "cách mệnh" theo sử gia Tàu ngày xưa chỉ là một cuộc đảo
chính, truất phế một bạo quân để đưa một minh quân lên thay thế, tiếp
tục sứ mệnh của Trời giao phó cho để làm cho dân an vui, no ấm.
(b) Tam nguyên = ba lần đỗ đầu : thủ khoa thi hương, thủ khoa thi hội,
thủ khoa thi đ́nh
(c) Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quan.
(d) Tú tài = ngày xưa thi hương đỗ, được bằng cử nhân, ra làm quan.
Nhưng thí sinh nào tuy bị hỏng mà có điểm cao suưt soát với điểm tiêu
chuẩn để đỗ, th́ được gọi là tú tài. Chính quyền có giấy báo về làng để
được sắp vào hạng "sĩ tử" (có học vấn) không bị sai cắt trong những dịch
vụ như hạng thường dân. Có trường hợp thí sinh nào "suưt" đỗ cử nhân đôi
ba lần như thế, th́ được gọi là "tú hai", "tú ba"...."tú năm" v.v...
Vơ Thu Tịnh, Marburg,
1997-1998