PHÉP NÓI VÀ VIẾT
HỎI NGÃ
Hồ Hữu Tường soạn
Phân nửa
người Việt Nam, từ Thanh Hóa trở ra, về phương diện hỏi, ngã, nói và viết
rất đúng, còn một phân nửa, từ Nghệ, Tịnh trở vào, nói không phân biệt hai
thanh này và viết rất lầm.
Sự trộn lộn hai thanh này thành một sẽ là một việc làm cho tiếng Việt
nghèo nàn thêm, vàlàm cho lắm câu thành tối nghĩạ Người có ý thức không ai
dám chủ trương một việc nông nổi như vậỵ Mà phân biệt hai thanh, khi nói
và viết, đối với người đàng trong, là một một vấn đề to: vấn đề hỏi ngã
Mấy năm nay,
đã có nhiều người nghiên cứu vấn đề này vàđưa ra một luật, mà chúng tôi
xin gọi là luật Nguyễn Đình, để nhắc nhở người đã nêu nó ra trước nhất.
Cái hay - và cũng là cái dở - của luật Nguyễn Đình là để cho người đã khá
giỏi tiếng Việt dùng được mà thôị Đối với kẻ thiếu học, thì công dụng của
nó rất ít.
Lại giá trị của luật ấy chỉ ở trong phạm vi chính tả. Người đàng trong,
dầu cho đã thạo rồi, cũng không sao nói đúng được.
Muốn giải quyết đến cội rễ vấn đề này, ta hãy nghĩ xem: tại sao người đàng
ngoài, dầu chẳng biết luật Nguyễn Đình, vẫn nói đúng va viết đúng hỏi ngã?
Ấy bởi vì từ thuở mới học nói, họ đã nghe chung quanh họ, hai thanh này
phân biệt rõ ràng. Vậy phương pháp của âm học, đối với mỗi người, và áp
dụng cho tất cả, sẽ thành phương pháo giải quyết được vấn đề đến triệt để.
Dầu ta có thạo thông lệ này, hay thông lệ nọ, mà ta nói vẫn sau, thì trẻ
em nghe ta nói sai, sẽ nói sai, ắt là vấn đề hãy còn mãị
Việc đánh dấu đúng, tuy là cần chỉ là gáo nước để tưới trận lửa to, làm
sao mà trừ đám cháy được? Còn nếu ta nhờ các thông lệ làm phương tiện
riêng để phân biệt hỏi, ngã, hầu nói đúng, thì thế hệ sau nghe ta nói đúng,
sẽ nói đúng. Rồi ít lâu, ở toàn cõi Việt Nam, sẽ không còn vấn đề nàỵ
Chúng tôi soạn tập sách vấn đề giải quyết vấn đề hỏi ngã. Khi ai nấy đã
nói đúng và viết đúng cả rồi, vấn đề sẽ không còn, sách sẽ hết cần, hóa
thành vô dụng. Nên lòng cầu nguyện là được một ngày gần đây, sách sẽ không
được dùng nữa, và chỉ dành cho những kẻ khảo cứu tài liệu lịch sử xem chơi
mà thôị
Paris, đầu
mùa hè 1950
TÍNH CÁCH ÂM HỌC CỦA HAI THANH HỎI NGÃ
1. Tiếng
Việt là tiếng có nhiều thanh, hơn cả tiếng Tàụ Những thanh này chia làm
hai loại: loại thanh thuần là loại thanh biến.
2. Thanh
thuần là những thanh có một tính cách đơn thuần, và giữ mãi tính cách ấy
từ đầu đến cuối:
- Những
tiếng luôn luôn giọng ngang nhau, mà ta thường viết không dấu
- Những
tiếng luôn luôn giọng cất cao lên, mà ta có thể viết không dấu hoặc phải
viết với dấus sắc
- Những
tiếng luôn luôn giọng kéo dài xuống, mà ta phải viết với dấu huyền
- Những
tiếng giọng rớt xuống rồi dừng liền, mà ta phải viết dấu nặng
Ở khắp
cõi Việt Nam, ai cũng nói được và tất nhiên, viết đúng bốn thanh thuần này
3. Những
thanh biến không giữ mãi một tính cách. Khi phát tiếng ra thì, ban đầu
theo tính cách này, rồi biến liền sang tính cách khác:
- Hoặc
mới phát ra, giọng đưa lên, rồi biến thành đưa xuống: ấy là những tiếng
phải đánh dấu hỏi
- Hoặc
mới phát ra, giọng cho xuống rồi biến thành đưa lên: ấy là những tiếng
phải đánh dấu ngã
Những
người từ Thanh Hoá trở ra, đều phân biệt được như vậỵ Bởi vì, khi nói, họ
để luồng hơi ra lâu, có thời giờ mà biến thanh rõ ràng được. Những người
từ Nghệ, Tịnh trở vào, đều nói không được. Bởi vì, khi nói, họ cho luồng
hơi qua mau quá,không có thời giờ mà biến thanh cho kịp.
4. Tuy
người đàng ngoài nói đúng hỏi, ngã, song không phải ở địa phương nào cũng
nói y như nhaụ
Ví dụ như
nói dấu hỏị Có nơi thì nói phần đưa giọng lên nhiều, phần đưa giọng lên
nhiều, phần đưa giọng xuống ít. Có nơi thì trái lại, đưa giọng lên ít, đưa
giọng xuống nhiềụ Vì vậy mà mỗi vùng có giọng đặc biệt của mình. Nhưng dầu
thế nào, vẫn theo đúng tuần tự lên xuống.
Còn như nói dấu ngã, thì cũng vậỵ Có nơi đưa giọng xuống nhiều, giọng lên
ít. Có nơi đưa giọng xuống ít, giọng lên nhiềụ Bởi thế mà mỗi vùng có đặc
biệt của mình. Nhưng dầu thế nào vẫn nói đúng theo tuần tự xuống lên.
Nói tóm lại, bất cứ giọng địa phương nào, hỏi ấy là lên rồi xuống và ngã
ấy là xuống rồi lên. Dựa vào thời gian làm thứ nguyên để lộ cách biến
chuyển của hai thanh ấy thế nào, chúng ta thấy hai thanh ấy biến theo hai
chiều nghịch nhau luôn.
5. Vậy,
muốn nói được rõ ràng hỏi, ngã, tất phải theo cho đủ hai điều kiện này
- Nói
cho luồng hơi ra vừa lâu, đủ thời giờ để ta chuyển thanh
- Phải
chuyển thanh đúng theo mỗi loại: gặp hỏi trước cho lên, rồi mới xuống;
gặp ngã trước cho xuống, rồi mới cất lên
Nếu theo
đúng như trên, thì nói, đọc hỏi ngã sẽ không còn khó khăn gì cả
HAI BỰC BỔNG, TRẦM
6. Sáu thanh
trước có thể sắp vào hai bực bổng, trầm tuỳ theo sự phát âm cao hay thấp
Vậy về mặt
tương đối, hỏi và ngã khác nhau, vì thuộc vào hai bực khác nhaụ Hỏi thuộc
về loại bổng. Ngã thuộc về loại trầm
7. Vậy ta
dựa vào độ cao thấp của mỗi tiếng làm thứ nguyên để ghi hai thanh hỏi, ngã,
chúng ta thấy rằng hai thanh ấy ở vào hai vị trí đối nhaụ
Hỏi là thanh cao, ở vào bực bổng
Ngã là thanh thấp, ở vào bực trầm
Ở nhiều địa
phương, có ngườinói hay kéo dàị Họ nói hỏi, mà kéo xuống nhiều quá, nghe
như xuống đến bực trầm. Hoặc họ nói ngã, mà kéo lên nhiều quá, nghe như
vượt lên bực bổng. Tuy vậy, phần căn bản vẫn ở đúng vị trí của nó.
8. Hai
phương diện nhận xét, hoặc do theo cách biến chuyển của mỗi thanh, hoặc do
theo bực cao thấp, có thể nào tương phản nhau chăng?
Không
Thanh hỏi ở
vào bực bổng và là một thanh biến. Đã cất giọng lên rồi mà phải biến, nếu
còn càng cất cao lên nữa, thì là thanh sắc, nên phải hạ giọng xuống mới ra
một giọng khác hơn là sắc.
Thanh ngã ở
vào bực trầm và là một thanh biến. Đã rớt giọng xuống rồi, mà phải biến,
nếu còn càng cho rớt nữa, thì lại là thanh nặng; nên phải cất giọng lên
lại mới ra một giọng khác hơn là nặng.
Vậy ở vào
bực trầm mà biến đi, thì phải theo tuần tự xuống lên
9. Xét hai
hiện tượng tên, ta thấy rằng cách biến của mỗi thanh tùy theo vị trí của
thanh nàỵ Vậy có thể lấy vị trí của thanh mà làm cái định nghĩa đầy đủ của
nó.
Thanh
hỏi là một thanh biến ở vào bực bổng
Thanh ngã là một thanh biến ở vào bực trầm
MUỐN NÓI ĐƯỢC HỎI, NGÃ
10. Sự phân
tích ở trước đã chỉ rằng hai thanh hỏi, ngã khác nhau như hai điệu nhạc.
Vì vậy mà muốn nói được hai thanh này, chúng ta phải tập như là tập hát
hai điệu nhạc khác nhaụ Và phép tập nói, được trình bày ở đây, cũng phỏng
theo phép tập hát.
11. Bắt đầu,
phải tập nghẹ Trẻ con ở đàng ngoài, vừa mới nhớm có trí khôn, là đã nghe
thật lâu, rồi mới bập bẹ vài lờị Và bởi chúng nó biết nghe phân biệt hỏi,
ngã, mà chúng nó nói được rõ ràng.
Người học hát cũng thế. Lỗ tai của họ đã quen một điệu hát, biết phân biệt
điệu hát của mình học, trong muôn điệu, thì mới có thể hát đúng được.
Khi ta tập nghe, tất nhiên phải nghe những người nói đúng, nhất là những
trẻ con đàng ngoài, vì tiếng nói của chúng nó trong trẻo hơn. Khi chúng nó
nói mau, mà ta phân biệt kịp được tiếng nào thanh hỏi, tiếng nào thanh ngã,
ấy là phần thứ nhất đã xong rồị
12. Kế đến
tập nóị Khi lỗ tai đã quen rồi, thì tất nhiên miệng nói theo ý được. Ban
đầu còn ngượng chút ít. Nhưng việc biến thanh không phải là khó, đối với
kẻ biết lên giọng xuống giọng. Nên cẩn thận nơi tuần tự trước sau, như đã
bày ở trước.
Cũng nên lấy tay mà vẽ trên không lằn cong mô tả sự lên giọng, xuống giọng,
giống như người chỉ huy cuộc hoà nhạc ra dấu vậỵ Cách thực tiễn này, nếu
được các nhà giáo áp dụng ở nhà trường, sẽ đem lại mau lẹ những thành tích
tốt đẹp.
13. Sau là
phải luôn luôn thực hành. Nói chuyện với người đàng ngoài phân biệt hỏi,
ngã đã đành, mà nói với ai cũng giữ cho nghiêm nhặt, chẳng cho saị Lại
cũng nên dùng mọi phương pháp để cho chung quanh mình, ai nấy đều nói phân
biệt hỏi, ngã. Ở nhà trường, các nhà giáo phải nghiêm khắc. Ở sân khấu,
các diễn giả phải thận trọng cách phát ngôn. Ở diễn đàn, mọi người phải
tập nói trúng.... Thì lần lần, phong trào lan rộng, sẽ lôi cuốn được số
đông theọ
14. Chừng ấy,
mỗi người đều nghe chung quanh mình phân biệt rõ ràng, sẽ xem việc nói cẩu
thả của mình như là một việc nới đớt. Rồi sẽ xấu hổ, tự chữạ Lại gặp hoàn
cảnh thuận tiện để chữa được vì có khác nào trẻ con ở đàng ngoài, đã nghe
mọi người nói phân biệt, ắt sẽ nói phân biệt dễ dàng.
Rồi một thế hệ sau, khi mỗi người đã phân biệt hẳn hoi rồi, thì tình trạng
ngày nay chỉ có ở đàng ngoài, sẽ được phổ cập toàn cõi Việt Nam. Vấn đề
hỏi ngã sẽ giải quyết xong rồi vậỵ
15. Nhưng
trước khi đến được tình trạng đẹp đẽ ấy, phải trải qua một hồi quá độ Ấy
là lúc mọi người biết cách nói và nói được, viết được hỏi, ngã, nhưng hãy
còn chưa thuần thục và tự nhiên được như người đàng ngoàị Gặp một tiếng,
thuộc về loại các thanh biến, không biết nó là thanh nào, hỏi hay là ngã.
Vậy làm sao mà nói đúng, viết đúng được? Nói cách khác, thì đâu là phương
pháp để phân biệt tiếng ấy có thanh hỏi hay ngã. Chúng ta sẽ có trả lời ở
phần sau nàỵ
LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC
TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGÃ
Phương
Pháp Tự Nhiên
16. Khi ta
biết cách nói rồi, muốn có thể phân biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngã,
thì nên theo phương pháp tự nhiên hơn hết, là học
Phương pháp này đã đem lại những công hiệu rõ ràng. Nhiều người ngoại
quốc, tuy nói tiếng Việt rất khó khăn, song đã chịu khó học cẩn thận rồi,
thì nói, viết rất đúng hỏi ngã. Nhiều người đàng trong, chịu khó học, cũng
nói được viết đúng như người đàng ngoàị
Mà bằng chứng đích xác hơn hết là, cả một cõi Bắc Việt, ai cũng nói đúng
nhờ học từ thuở bé ở nơi chung quanh mình.
17. Cái may
của người đàng ngoài, là sự học này là một cái học thường xuyên, trong mỗi
lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà người học thấy cực nhọc hay để tí công
cố gắng nàọ Chung quanh mình, cha, mẹ, anh, chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là
người thầy sẵn sàng dạy mình, và lại những ngưòi thầy dạy đúng phương pháp
tự nhiên. Kết quả là lên năm, lên sáu tuổi, đứa bé đã học xong rồi, đến
trường khỏi phải trở lại vấn đề
Cái rủi của người đàng trong là không có trường học tự nhiên ấỵ Ngay nhà
trường chính quy cũng vẫn là một lớp học thiếu sót về vấn đề nàỵ Thầy giáo
nào có công, cũng chỉ dfạy cho học trò đánh dấu đúng, khi viết. Chúng tôi
chưa hề gặp một thầy giáo nào ở đàng trong đã dạy học trò nói thanh ngã,
thanh hỏi bao giờ. Và cũng chớ nên trách họ, vì chính họ còn chưa nói được
thay!
18. Vậy cần
phải học, tuy trong những điều kiện khắt khe hơn, nhưng phải cố tìm tạo ra
một hoàn cảnh gần như tự nhiên, và dõi theo một phương pháp tự nhiên.
Hoàn cảnh ấy, là một nhóm người biết cố gắng nói đúng, viết đúng hỏi, ngã.
Phương pháp ấy, là nên học thuộc lòng, không khác nào trẻ con mới học nói
phải thuộc tiếng mới, không khác nào người ngoại quốc học nói phải học
thuộc tiếng lạ
Trong khi
nói chuyện, nếu phải dừng trước một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào,
thì làm sao cho lời được suôn, lại còn nói chi đến việc trổ tài hùng biện?
Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc để suy nghĩ nên đánh dấu nào, thì
làm sao chép kịp lời của người, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình?
19. Học
phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ điển, tự điển, tự vị
Những người có tiếng là viết đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm,
thường thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là tự điển để tra cứu, mỗi
lần trí nhớ của họ hơi lờ mờ
Ngày nay, những từ điển, lấy tiếng Việt làm nền để cắt nghĩa và điển chế
tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lưu hành, nhưng lại rất
cẩu thả về vấn đề chính tả.
20. Học
trong tự điển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau
lẹ, lại có nhiều kết quả.
Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau đây:
-
Trong
tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trước
hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hơn. Còn tất cả những tiếng
nào thừa lại, là to cho thanh hỏị Dựa theo sự nhận xét này, chúng tôi
trích đăng ở phần phụ lục một bảng kể những tiếng thanh ngã để cho tiện
việc học thuộc lòng.
-
Trí nhớ
muốn được chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cơ quan, tai nghe, mắt
nhìn, tay viết. Phần lỗ tai đã được chú trọng rồị Còn nên cho quen mắt,
bằng cách đọc kỹ và nhiều những sách đánh dấu đúng, những bản viết tay
đánh dấu đúng. Và nhất là tập đánh dấu cho quen mắt, quan tay như người
đàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi đã vòng tròn, dấu
ngã rõ ràng kéo lên, sau khi đã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nahu làm
cho phần máy móc của trí nhớ được vận dụng đầy đủ, thì sự nhớ càng chắc.
-
Rồi cũng
phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, để tập luyện và để
củng cố những điều đã học được với một cách máy móc. Vậy cần phải suy
nghĩ, để tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải đánh dấu
ngã) và những liên quan của các việc. Đây là một công cuộc đòi lắm hiểu
biết. Vậy xin xét ở chương sau.
Phương Pháp Bác Học
21. Phương
pháp bác học này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, để áp dụng những
định luật sự biến di của âm thanh, và về từ nguyên học, để tìm tòi gốc rễ
của mỗi tiếng.
Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trường đại
học, người ta mới khởi sự cho học các khoa này, còn từ bực trung học trở
xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôị Mà khi đã học xong rồi, phải có
óc tìm tòi, khiến suy diễn mới tự mình khảo cứu thêm được. Vì vậy mà
phương pháp bác học được nhắc đến sau đây không phải để cho ai cũng dùng
được.
22. Đối với
tiếng Việt, hai định luật sau đây của ngữ âm học giúp cho chúng ta rọi
nhiều tia sáng và vấn đề hỏi ngã:
-
Những âm
thanh thường có xu hướng có gần tính chất với những âm thanh đi cặp với
mình. Ấy là luật thuận thinh âm
-
Những âm
thanh thường biến chuyển ra những âm, thanh có gần tính chất với mình.
Ở đây không
phải là để khảo cứu về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nơi hai
luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào vấn đề hỏi ngã mà thôị
23. Do theo
sự khảo cứu ở phần thứ nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực nhất, ta
thấy rằng thanh hỏi ở vào bực bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta
biết rằng nó thường đi cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc là những
thanh gần tính chất với nó. Ví dụ như:
-
Hỏi đi
cặp với hỏi: bẩn thỉu, mỏng mảnh
-
Hỏi đi
cặp với ngang: thẩn thơ, mơn mởn
-
Hỏi đi
cặp với sắc: khỏe khoắn, lấp lửng
Còn thanh
ngã ở vào bực trầm, gần với những thanh huyền, nặng. Vậy luật thuận thinh
âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh ngã, huyền,nặng
là những thanh có gần tính chất với nó. Ví dụ như:
-
Ngã đi
cặp với ngã: bãi hãi, lẽo đẽo
-
Ngã đi
cặp với huyền: bão bùng, hiền ngõ
-
Ngã đi
cặp với nặng: nhão nhẹt, chậm rãi
24. Nếu đảo
ngược tính cách trên, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để
tìm tiếng nào có thanh ngã (luật Nguyễn Đình)
Tiếng có
thanh ngã là những tiếng đi cặp với tiếng thanh ngã, nặng hay huyền
25. Tuy
nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại lệ Trong bảng phụ lục sau đây,
chúng tôi đánh dấu sao ( + ) những tiếp cặp nào ở ngoài lệ nàỵ Độc giả sẽ
thấy rằng số ấy không phải là ít, và phương pháp bác học, tuy đòi hỏi rất
nhiều hiểu biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phương pháp tự nhiên
26. Khoa từ
nguyên học, áp dụng vào tiếng Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ hàng,
hoặc biến chuyển ra, thường có những thanh gần với thanh cội rễ.
Như ba thanh
ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chưạ..chửa;
miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng; thể...thế
Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhaụ Ví dụ:
rồị..rỗi, chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ... lợ; cũng....cùng.
27. Nếu đảo
ngược tính cách này, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để
tìm tiếng nào có thanh ngã
Tiếng có
thanh ngã là những tiếng do tiếng thanh ngã, nặng, huyền biến chuyển ra
28. Ngoài ra
còn những tiếng Hán Việt mà cách phát thanh theo những định luật phiền
tạp, và sự áp dụng các định luật ấy chưa chắc gì đơn giản hơn là theo
phương pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc lòng. Lại các định luật này có
rất nhiều ngoại lệ, mà nhớ cho được và cho đủ, cũng cần phải học thuộc
lòng. Vậy thì, làm thế nào, vẫn khó tìm một phương pháp, duy lý dễ dàng,
cho vừa tầm thực dụng của bình dân
Tốt hơn là
dùng phương pháp tự nhiên, đã dễ dàng, còn đem lại nhiều thành tích tốt
đẹp
29. Tuy vậy,
những định luật kể trên vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho những nhà
khảo cứu, để tìm tòi chính tả và điển chế tiếng Việt. Giá trị của nó là
giá trị của một phương pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong địa hạt
của khảo cứụ Cố đem ra ngoài địa hạt ấy và biên thành những thông lệ thực
tiễn, chưa ắt là hạp với kinh nghiệm của khoa sư phạm.
Trái lại,
nếu ta đã dùng phương pháp tự nhiên mà học thuộc lòng rồi, lại áp dụng
thêm phương pháp bác học để khảo chính và củng cố trong trí nhớ những điều
đã học được, thì là một việc thêm haỵ
30. Đặc sắc
của khoa học không phải là dừng nơi một phát kiến nào, mà ở nơi sự tìm tòi
và phát kiếm thêm mãị Vấn đề hỏi ngã không phải ở trọn trong luật Nguyễn
Đình và luật tứ thinh
Đứng vào một
sở cậy khác, rọi một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ tìm thấy việc khác có
thể giúp cho ta hiểu rõ thêm vấn đề.
Như có người
(Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng Việt nam
là một tiếng "nhạc ý" (nghĩa là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn
ý), khác hơn tiếng Tàu là một tiếng "hội ý" (nghĩa là dùng nét vẽ mà tượng
ý). Thế thì, hỏi hay ngã, tất phải có quan hệ với ý của tiếng dùng. Nhắc
đến giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ý mách rằng có thể khảo cứu và suy
luận thêm về vấn đề hỏi ngã, chớ chưa định ý lập một cái luật nào mớị
31. Độc giả
nên nghiên cứu bằng thuật dùng thẻ (fiche). Thẻ ấy là những mảnh giấy rời
nhỏ. Trên mỗi thẻ, ta nêu to một tiếng dấu ngã, kế đến những điều gì mà ta
cần chép để nhớ (nghĩa tiếng, gốc tiếng, luật về ngữ âm học) và những nhận
xét hay giả thuyết riêng của tạ Khi có đủ bộ rồi, ta chịu khó quy nạp
những nhận xét, biết đâu ta chẳng tìm được cái gì hay đẹp về vấn đề?
Bài Đọc Thêm
Chữ Hán:
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ thiên niên
kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ được số
hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Ðiều này là một
phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm và thực
sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người Việt kể từ
những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi. Ðến thế ký VII - XI chữ Hán và tiếng
Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được
sử dụng như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương mại với
Trung Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong
khoảng thời gian hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc trên
tấm bia đều bằng chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng chữ Hán có ảnh
hưởng to lớn như thế nào đối với nền văn hóa của nước Việt Nam xưa. Từ sau
thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống
trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là
một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc.
Chữ Nôm:
Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự ngoại lai
không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc
trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và
tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp
vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và
phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá
trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ
Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ
chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm
này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế
kỷ thứ VI).
Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để
phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số
nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng
ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời
Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự
hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được
viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn "Thiền Tông Bản Hạnh". Ðến thế kỷ
XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các
tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã
có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng
chữ Nôm là những ví dụ.
Như vậy, có thể thấy chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch
sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa.
Chữ Quốc Ngữ hiện nay:
Việc chế tác chữ Quốc Ngữ là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng
tên người châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò của Francesco de Pina,
Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre De Rhodes. Trong công việc
này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết
là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu).
Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn
chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Ðặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và
tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt - Bồ - La (trong đó có phần
về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn
ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in
chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về
ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn
xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân
hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ XVII.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt
- Bồ - La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt - Bồ - La
(1772), tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de
Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống chữ Việt mà
chúng ta đang dùng hiện nay.
(Báo Du Lịch)
|