|
Từ chữ Nôm đến quốc ngữ (6): Khứ niên kim nhật thử môn trungNguyên NguyênNhững ai thích thơ Đường đều có thể nhớ đến bài thơ bất hủ của Thôi Hộ, Nguyễn Du đă dùng trong Truyện Kiều: Trước sau nào thấy bóng người Nguyên bài thơ của Thôi Hộ (Cui Hu), mang tên ‘Thị đô thành nam trang’ (Tại thôn trang phía nam của thành đô), xin được chép lại như sau: Khứ niên kim nhật thử môn trung với bản dịch của Đỗ Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản: Năm ngoái ngày này dưới cánh song Người Việt, thông thường, dù không lĩnh hội hết những từ gốc Hán, đều thấy hoà ḿnh được với những ḍng thi-phú của Thôi Hộ viết ra bằng chữ quốc ngữ, mà từ trước đến giờ ta thường gọi, không chút thắc mắc, tiếng Hán Việt. Đa số những người Việt, đọc được sách báo, tiểu thuyết, đều có thể thấy rung cảm được với thơ Đường qua tiết tấu tuyệt vời của âm điệu quốc ngữ [1], qua bài thơ Thôi Hộ kể trên và hầu hết tất cả những bài thi phú xuất xứ từ Trung quốc. Hoặc thơ văn bằng chữ Hán do các tiền nhân Việt sáng tác. Người Việt qua bao thế hệ, từ thế kỷ 18 trở lại đây, cũng thường nghe tiếng Hán Việt chính là thứ tiếng hay cách phát âm Hán tự của tiền nhân ở nước An Nam. Chúng ta được dạy rằng tiền nhân đă tự thay đổi tiếng Hán để hợp với ‘khẩu vị’ của người nước Nam. Chúng ta thường được dạy như thế và tin như vậy. Không chút thắc mắc hoặc nghi vấn. Ta thử đặt câu hỏi: ‘Có thật như vậy không?’ Hay: ‘Tiền nhân ở nước An Nam trước khi quốc ngữ ra đời, có phát âm những từ gốc Hán theo giống kiểu quốc ngữ biên chế hay không?’. Nói một cách nôm na: một nhà Nho trong thế kỷ 17-18, hay trước đó, có đọc 4 câu thơ Đường phía trên y như kiểu chúng ta thường đọc hay không? Và nếu không giống, họ phát âm các từ gốc Hán như thế nào. Gần giống thứ Hán nào nhất? Quan thoại, Quảng đông, Hải Nàm, Phúc Kiến-Triều Châu, Chiết Giang, Khách Gia (Hẹ / Hakka), v.v. Và quốc ngữ đă biến đổi âm vận của các từ gốc Hán ra sao? Trong bài này, chúng ta sẽ cố gắng phân tích ảnh hưởng của quốc ngữ trên lối phát âm các từ Hán Việt. Với mục đích t́m giải đáp cho câu hỏi then chốt: ‘Tiền nhân đă thật sự phát âm những từ thường gọi Hán Việt ra sao’? Có giống âm như quốc ngữ đă kư âm hay không? Vấn đề khá quan trọng này, cũng như nhiều vấn đề khác nằm trong việc biến chuyển từ Nôm sang quốc ngữ, rất tiếc đă bị lăng quên, trên dưới 200 năm. Nhưng trước hết, chúng ta hăy đưa ra một nhận xét: Trong rất nhiều tài liệu sử sách, có một chi tiết đáng nhớ. Nhiều nhà cách mạng vào đầu thế kỷ 20, khi liu vong sang Tàu thường dùng phương pháp bút đàm để trao đổi ư kiến và tư tưởng, cũng như yêu cầu nguyện vọng, với người Hoa. Và đồng thời chúng ta cũng nhớ trong suốt 19 thế kỷ trước đó, không có đến một văn bản nào đă ghi tiền nhân nước Việt khi đi sứ sang Tàu, hoặc khi có chuyện phải đàm thoại hoặc trao đổi ư kiến, thương thuyết với triều đ́nh Trung quốc đă phải cần đến một thông dịch viên thông thạo tiếng Hán, tiếng Nôm. Ngược lại, và thông thường hơn, sử sách ghi rất nhiều vị khoa bảng nước Nam, như Mạc Đỉnh Chi, có ‘bằng cấp’ được ‘nh́n nhận’ tại Trung quốc, với tước danh thông thường: Lưỡng quốc Trạng nguyên.
Như đă đề cập trong một bài trước, điểm đặc trưng của ‘chuyển hệ từ Nôm sang quốc ngữ’ là người học chữ quốc ngữ chỉ được học ‘B chính là B. Vua là Vua. Voi là Voi’. Chứ không bao giờ được biết ‘A chính là lối phát âm cũ của B, ở thời chữ Nôm’. Hay ‘Vua khi xưa đọc Byua, như người Mường và Nam Bộ c̣n phát âm bây giờ’, hoặc ‘Voi xưa đọc Woi’. Rất nhiều lầm lẫn lộn xộn trong tiếng Việt hiện đại thông thường có thể qui về khởi điểm ‘B là B. Không cần biết dạng cũ của B là ǵ’. Chúng ta sẽ phân tích những lợi điểm của ‘định đề ‘ này trong một bài khác. Nhưng trước hết xin quan sát một số từ, trên khía cạnh ‘tầm nguyên’, để có thể hiểu rơ lối phát âm của những từ ‘Hán-quốc-ngữ’.
VIẾT: Một từ thông dụng thường lầm ‘thuần Nôm’. Nhưng thật ra đó một từ Hán tối cổ. Phát âm quan thoại và hầu hết phương âm khác, tra cứu được, đều dùng âm /Y/ với phiên âm quốc tế /j/. Pinyin quan thoại đọc YUE, gần giống với Yue dùng để chỉ Việt, trong Việt Nam. ‘Viết’ trong nghĩa nguyên thủy đơn thuần: Nói / Dạy. Khổng Tử viết thế này, Mạnh Tử viết thế nọ. Có nghĩa Khổng Tử và Mạnh Tử đă nói, đă dạy điều ǵ đó (Thí dụ: ‘Trai gái không được nắm tay nắm chân với nhau’). ‘Viết’ nhập khẩu vào nước Nam. Và qua hàng ngàn năm thường dùng để chỉ lời nói, lời dạy bảo thánh hiền – thông thường nhất qua dạng chữ Nho, viết hoặc chép lại. ‘Viết’ từ nghĩa ‘nói’ mang thêm nghĩa ‘viết’ tức write (Anh) hoặc écrire (Pháp). Hán tự ngày nay dùng SHUO (thuyết) để chỉ ‘Nói’. Và XIE (tả) mang nghĩa VIẾT. Người Hoa trẻ tuổi bây giờ thường không biết từ ‘Viết’ viết theo chữ Hán mang nghĩa ǵ hết. Bởi nó quá cổ. Nhiều tự điển cũng không có chứa từ ‘Viết’. ‘Viết’ là từ tiêu biểu cho biến đổi Nôm sang quốc ngữ. Nôm phát âm Yiết, dựa theo tất cả phương âm Trung Hoa, kể cả quan thoại: Yue. Tiếng Miến Điện cũng vậy: Viết= yei-de, bắt đầu âm /Y/. Và rất có thể ‘Viết’ xuất phát từ Miến Điện, qua Yei-de. Giống với Yue của quan thoại. Yei hay Yue đều cho thấy quốc ngữ đă tặng cho Viết âm V, và làm biến đổi âm Hán tiền nhân từng xử dụng trước khi có quốc ngữ: Yuết => rất gần giống Yue. Cây Viết (pen / pencil) phía Bắc thường gọi ‘Bút’. Cũng một từ tưởng thuần Nôm, nhưng không Nôm ǵ hết. Một âm chính giữa Quảng đông và Phúc kiến: Quảng Đông: Bat. Phúc Kiến: Biht => Bat + Biht = Bút Để ư Bút và Byiết đều nghiêng về âm B, chứ không phải V. Âm V của quốc ngữ cho VIẾT đă biến đổi phát âm nguyên thủy của từ này. Nói một cách khác, nếu không có quốc ngữ, người Hoa có thể hiểu tiền nhân nói cái ǵ, khi họ phát âm ‘Bút’ và ‘Byuết’.
‘Mô tả’ tức ‘describe’ trong Anh ngữ. ‘Tả’ là Hán-quốc-ngữ của Xie (quan thoại) hay Xở (quảng đông) mang nghĩa ‘Viết’. ‘–scribe’ là một ‘morpheme’ hay tiếp vĩ ngữ cũng mang nghĩa ‘viết’. ‘Tả’ hoàn toàn một âm sáng tác bởi quốc ngữ, như sẽ thấy phía dưới, đă gạn lọc âm độn /Y/ hay /i/ ở giữa của âm Phúc Kiến: Tsiả. Tức tiền nhân không hề phát âm cụt và cứng như ‘Tả” mà đă phát âm rất gần Phúc Kiến: Tsiả. Mô? Trước hết, xin xem tiếng quan thoại của ‘Mô Tả’: Miao Xie. Miao chính là Miêu tiếng Việt. Miêu Tả. Ta nhớ khám phá ghi trong bài số 3: Trong tiếng Việt gốc Hán, và Hán gốc, luôn luôn có hoán chuyển qua lại giữa âm IU và ÂU.Andy Lâu gọi theo quan thoại là Andy Liu, đánh vần kiểu Việt: Andy Lưu. IU=> ÂU, Miêu tả thoạt đầu biến thành ‘Mâu Tả’, đọc nhanh và nhẹ hơn một chút thành => MÔ TẢ. Ta sẽ thấy phía sau, âm ‘Miêu’ của quốc ngữ không phiên âm thật chính xác âm Miao của tiếng Hoa. ‘Miao’ c̣n dùng như danh từ để chỉ con ‘mèo’. Để ư âm ‘Miao’ thật ra dài hơn âm ‘Miêu’ (sẽ vào chi tiết phía sau), và ‘Mèo’ thật ra bị quốc ngữ cắt bớt âm /Y/ từ ‘Myèo’. Như vậy, ‘Miêu Tả’ hay ‘Mô Tả’ của quốc ngữ, chỉ đưa vào âm gần đúng cho Miao Xie. Tức trước khi quốc ngữ ra đời tiền nhân không có cách nào khác ngoài việc phát âm đúng hơn với cách của người Hoa, nhất là Phúc Kiến.
Đây cũng lại một thứ h́nh dung từ xưa nay vẫn tưởng ‘thuần Nôm’. Thật ra một từ thuần Hán. Áp dụng tách xa với nguyên bản. ‘Đất này mầu mỡ’, có nghĩa ‘đất ph́ nhiêu, đất tốt cho cây cối, vườn tược’. Tiếng Tàu dùng để chỉ ‘đất mầu mỡ’ là fei wo, tức ‘ph́ ốc’. ‘Ph́’ tức mập béo, và ‘ốc’ mang nghĩa nôm na: đất có chứa nước (thí dụ: ốc đảo). ‘Mầu mỡ’ lại khác. ‘Mầu mỡ’ có lẽ xuất xứ từ ‘Mao-mi’ của quan thoại. ‘Mao’ mang nghĩa ‘(cây cối) um tùm & xum xuê’ và ‘mi’, cực kỳ. Tức ‘mậu mi’ dùng để mô tả ‘cây cối’ chứ không phải đất. ‘Mầu mỡ’, ‘cây cối mầu mỡ’ là lối nói người Tàu, chỉ cây cối có cành lá rậm rạp xum xuê. ‘Mầu mỡ’ đáng lẽ dùng cho ‘cây cối’, sang qua tiếng Việt lại dùng cho đất. Kiểm chứng với chữ Nôm ta thấy ‘mầu mỡ’ một thứ từ mới, rất ít lối viết trong tự điển ([5] &[6]), và không có liên kết với từ Hán gốc. Và dạng ‘mầu mỡ’ thay cho ‘mâu-mi’ cũng có một vài chỗ khả nghi, sẽ trở lại phía sau. Thế c̣n ‘ph́ nhiêu’ th́ sao? ‘Ph́’ bắt từ ‘fei’ nghĩa ‘mập’. Nhưng quốc ngữ lại không kéo theo ‘ốc’, cho đúng fei-wo, mà lại dùng đến ‘nhiêu’. Như một bài trước đă đề cập, người Hoa dùng từ ‘dầu’ [yầu] để chỉ ‘Mỡ’ (sẽ trở lại phía sau), và Fei (ph́) để chỉ ‘Mập’. Trong khi Anh ngữ chỉ dùng có một: FAT. Định luật biến chuyển qua lại giữa âm IU và ÂU (bài số 3) cho ta thấy người Phúc Kiến gọi [yầu] bằng [yiu]. Âm [yiu] theo bài số 4, có một cách biến chuyển sang quốc ngữ: Âm /yờ/ được thay bằng /NH/: mỡ => dầu => [yầu] => [yiu] => [Nhiu] => nhiêu Ph́ yiu => ph́ nhiêu (mập mỡ => ph́ nhiêu) Dù sao, ta cũng thấy rơ một kết luận của bài số 4: Quốc ngữ đến với khối quần chúng, đa số không thông thạo chữ Hán chữ Nôm, trước khi đến với giới sĩ phu. Trước khá lâu. Đến nỗi chữ Hán bị áp dụng sai, nhiều chỗ. Từ đánh vần quốc ngữ, đến cách phát âm nguyên thủy. Trở lại với Nhiêu. Trong tiếng Hán đọc theo kiểu quốc ngữ (loạt bài này xin tránh gọi ‘Hán Việt’), ‘Nhiêu’ có một nghĩa chỉ ‘Giàu’, giàu có, nhiều tiền. Quan thoại phát âm như ‘Răo’. Quảng Đông đọc ‘Yiu’. (Tức có biến chuyển qua lại giữa âm ÂU (rao) và IU (yiu)). ‘Yiu’ quảng đông biến sang quốc ngữ theo luật {Y => NH} thành Nhiêu. Ph́ nhiêu => Mập & giàu (giàu chất khoáng, tốt cho cây cối) Để ư cũng biến chuyển qua lại giữa âm IU (nhiêu) và AU. Có điểm nào có thể rút tỉa nữa không đối với một từ có vẻ thuần Nôm như ‘Giàu’? Theo định luật IU ó AU ta hăy truy ṿng ṿng các phương âm khác xem sao: Hán-quốc-ngữ: Nhiêu, Quảng Đông: Yiu, Quan thoại: Rao, Hải Nàm: Jau => Viêt: Giàu! Kết luận: Giàu và Nhiêu cả hai đều là từ … thuần Hán. Thật ra Hán miền Hoa Nam. Tức một thứ…Nôm của khối Bách Việt xưa cũ.
Trong tự điển Annam-Bồ-Latinh của Alexandre de Rhodes [1651], Vương mang nghĩa Vua hăy c̣n viết: Uuan, tức âm Wang đọc y hệt như người Tàu ngày nay. Âm TH đến cuối thế kỷ 17 vẫn chưa có cho phiên âm các từ gốc Hán. Thí dụ: ‘Thượng đế’ hăy c̣n viết: Xán Đí, y hệt như trong các tự điển quảng đông – quan thoại ngày nay. Và ThuÍ trong Vương Thúy Kiều chắc chắn hăy c̣n được phát âm ‘Txúi’ y như kiểu quan thoại ngày nay: [cui]. Như đă dẫn chứng trong bài số 4 ‘Châu Nhuận Phát đi Trân Chu Cảng’, từ quyển ‘Tiếng Việt Tuyệt Vời’ [1]: Ở một vài khu vực ở phía Bắc, người ta phát âm lẫn lộn TH với S (hay X) như: ‘mưa như xế mà ra thân x́ xế nào cũng cảm mất xôi’ => ‘mưa như thế mà ra sân th́ thế nào cũng cảm mất thôi’. Việc này chứng tỏ rất rơ: Phát âm X hay SH thường lẫn lộn hoán chuyển với TH. Việc thay thế TH bằng X tại một số địa phương phía Bắc cho thấy âm X (hay SH) chính là âm c̣n sót lại của thời tiếng Nôm xa xưa. Chính quốc ngữ đă biến đổi một số âm X (hay SH) xa xưa đó thành ra TH. Việc âm X c̣n lác đác sót lại, có thể giải thích bằng một sự cố nào đó đă xảy ra với toàn bộ ê-kíp các Thầy dạy quốc ngữ tại các khu vực, làm các lớp học ở thời buổi ban đầu bị gián đoạn. Hoặc một số Thầy phụ trách các khu vực đó, v́ lư do nào đó, đă không cho việc thay thế các âm X bằng TH là quan trọng. Âm /TH/ là một âm sẵn có trong tiếng Nôm cũ. Điển h́nh: từ điển tiếng Mường [10] cho thấy rất nhiều từ ‘thuần Nôm’ được kư âm ngày nay với /TH/: thá = thả, thai = tai; thảm = tám; thắc wa râm = tóc hoa râm; thiểnh tồn = tiếng đồn. Quốc ngữ thêm vào mớ từ âm /TH/ một số từ Hán có âm đầu bằng /SH/, hay /TX=C/, hoặc /Q/: Shang Di = Thượng Đế; Cuí Qiao = Thúy Kiều; Qing nian = Thanh niên, v.v. ‘Kiều’ theo tiếng Hoa, có phương âm đọc Ḱu, có nơi đọc ‘Gầu’, có chỗ đọc ‘qiao’ – nhưng có thể vẫn có người Hoa hiểu được đó là Kiều, khi nghe người Việt phát âm ‘Kiều’ trong ṿng nội dung câu chuyện. Và như vậy quốc ngữ đă biến đổi, rất rơ, ‘Wang Txúi’ thành ‘Vương Thúy’ trong ṿng 100 năm sau năm 1651. Tiền nhân Annam có thể phát âm ‘Vương Thúy Kiều’ theo kiểu ‘tiền-quốc-ngữ’ (Wang Txúi Kiều) – và người Hoa có thể hiểu được khá dễ, ít lắm dễ hơn dạng quốc ngữ rất nhiều.
Chim tiếng Hán-quốc-ngữ thường đọc Điểu. Tiếng quan thoại, thông thường đọc Niao. Đôi khi vẫn phát âm Diao. Như bài số 4 tŕnh bày: Trong môi trường tiếng Nôm, hay tiếng Hán (không có phiên âm theo mẫu tự latinh a-b-c), không có sự phân biệt giữa các âm bắt đầu bằng /đ/, /t/ và /n/. Bởi lư do đơn giản: vị trí môi, lưỡi-họng dùng để phát âm những từ có các âm /đ/, /t/, và /n/ thường rất giống nhau (Thử đọc Đoàn, Toàn và Noàn nhiều lần và để ư vị trí Lưỡi, Môi và Họng khi phát âm những từ naỳ): Niao vẫn có thể đọc thành Diao. Diao tức Điểu, mang nghĩa Chim. Xem kỹ hơn: Quảng Đông gọi Chim bằng Ts’euk (hay Jeuk), giống Tước (hoặc Chóc) [17], tiếng Việt. Hakka (Hẹ) phát âm Diao (giống quan thoại). Hải Nàm: Tchiok (=> Chim). Phúc Kiến: Ts’iau. Như vậy: Phúc Kiến: Ts’iau và Hindi: paksii => có thể sinh ra ‘chim’; Quảng Đông Jeuk, Hải Nam Tchiok => đă sinh ra Tước và Chóc trong Chim Chóc. Một lần nữa ‘Chim Chóc’ tưởng thuần Nôm, nhưng thật ra gốc Hán. Tóm lại: Quốc ngữ đặt âm Đ cho Điểu. Biến chuyển từ ‘N’ của Niao. Chính quốc ngữ cũng biến /iao/ thành /iểu/. Và rất có thể tiền nhân đọc Niao hay Diao chứ không phải Điểu.
Một biến đổi khác của quốc ngữ đối với các từ gốc Hán c̣n được thể hiện qua việc ‘kị húy’. ‘Kị huư’ tức tránh né cách đọc tên họ hoặc sự vật, trùng hoặc giống với tên họ hoặc tước hiệu của vua chúa hoặc các quan lớn. Ta để ư ‘kị húy’ xảy ra rầm rầm kể từ khi có chuyện Trịnh Nguyễn phân tranh – đi đôi với xuất hiện của chữ quốc ngữ. Trong thời chữ Nôm biến đổi ‘kị húy’ đó rất khó, nếu không nói không thể thực hiện được - bởi kư âm chữ Nôm không dựa vào từng âm một của từng chữ cái a-b-c. Có thể chỉ dặn được dân chúng - đa số không biết đọc và viết chữ Nôm - cố gắng đọc trệch đi tên kị húy đó một chút là xong. Nhưng không bao giờ có tài liệu ǵ có thể ghi lại được chuyện đó. Xin ghi lại một vài từ kị húy thường gặp trích từ Lê Trung Hoa [4]:
Có thể để ư một vài điểm sau:
Một trong những khám phá của ‘thuyết nhất thống’ tŕnh bày trong loạt bài này chính là một số qui luật của kư âm quốc ngữ. Qua các bài trước chúng ta đă thấy: Thông thường đối với các từ gốc Hán:
Bây giờ xin chú tâm đến một vài đóng góp của tiếng Quảng Đông & phát âm Quan thoại trong kư âm quốc ngữ. Ta t́m thấy ngay một qui luật:
Việc tránh âm /Y/ của Hoa ngữ, và chuyển sang quốc ngữ thành /NH/ và một số âm khác (như /D/, /NG/, …) cũng làm xa cách các âm nguyên thủy tiếng Hán mà tiền nhân đă thường dùng. Sau đây xin liệt kê nguyên ủy các âm Hán, theo kiểu quan thoại và quảng đông: Quan thoại: Quan thoại là lối phát âm của người Hoa Bắc, đặc biệt giới triều đ́nh, quan quyền, tướng lănh, sĩ phu, Nho gia, thái thú, sứ thần, v.v. Lối phát âm này được phản ánh qua triều đ́nh và quần thần, cũng như giới sĩ phu, nhà Nho tại nước An Nam. Lối phát âm quan thoại của những Trạng của nước An Nam chắc cũng rất chuẩn. Bởi sử sách không bao giờ ghi chuyện phải cần thông dịch viên khi đi sứ sang Tàu. Mà ngược lại luôn luôn có những truyền tích về triều đ́nh Trung Hoa lác mắt v́ tài ứng đối (bằng tiếng quan thoại!) của các Trạng Việt. Nhiều vị được phong làm Trạng cho cả 2 nước, như Mạc Đĩnh Chi. Những từ sau đây tiêu biểu cho ảnh hưởng quan thoại trên các từ Việt gốc Hán [8]: tỉnh: xing tinh (tinh-tú, sao): xing thuyền: chuan thư (sách): shu tối hảo: zui hao nhân v́: yin wei y phục: yi fu lănh sự: ling-shi tử (chết): si khốn nạn (khó): kun-nan hoài nghi: huai yi mật thư: mi-shu* Quảng đông: Tiếng quảng đông, từ hơn 21 thế kỷ trước, đă dần dà bị Hán hoá cho đến ngày nay. Phản ánh qua tiếng Việt nhờ ở vị trí láng giềng, và giao thương qua lại của 2 bên. Phát âm quảng đông có thể ảnh hưởng đến đa số quần chúng hơn giới triều đ́nh, Nho sĩ. Tiêu biểu bằng những thí dụ sau ([8] & [18]): hắc (đen): haak tàu: tèhng lạnh: làahng quốc (gia): Gwok sa mạc: xa mohk sơn lâm (rừng): xam làam tân (mới): xan địa phương: deih-fong thư kư: syu gei* Anh (elder brother): Hing thùng (thùng nước): tung tham: tàam * Mi-shu: mật thư, lối gọi quan thoại cho ‘thư kư’ (quảng đông). Nhưng kiểu Phúc Kiến lại: Bí thư => Bpí – su (Hokkien). Tức ‘thư kư’: lối gọi Quảng Đông. Bí thư: lối gọi Phúc Kiến và ‘Mật thư’ lối gọi dân Hoa Bắc (quan thoại). Nổi bật nhất trong kư âm quốc ngữ tŕnh bày ở trên vẫn lối thay T cho âm X- hay Z (zui: tối) của tiếng Hoa: Xân => Tân (mới) – và: TH cho các âm X hay gần-X (như SH, TX) khác: Shu => Thư (sách), Chuan => Thuyền. Các thay đổi này làm lối phát âm Hán-quốc-ngữ tách xa ra khỏi phát âm tiếng Hoa.
Vua không c̣n ‘oai’ mang âm tiếng Anh: Vua không c̣n ‘Y’. Ngụ ư: ‘Vua’ ghi trong tự điển An-Nam-Bồ-Latinh của Alexandre de Rhodes (1651) là BUA, đă dụng ư bỏ mất âm /y/ mà người Mường và Nam Bộ hăy c̣n giữ: ‘Byua’. Đây là một phát hiện rất quan trọng của loạt bài này. Một trong những ch́a khoá chính yếu giúp chúng ta truy tầm ra lối phát âm của tiền nhân ở thời chữ Nôm. Cũng như cho thấy chữ quốc ngữ đă biến đổi rất nhiều từ gốc Hán, mà tiền nhân không hề phát âm như vậy. Thật ra, tiền nhân phát âm gần đúng với kiểu phát âm của người Hoa hơn là thứ tiếng Hán-quốc-ngữ đă gán ghép cho họ.
Những ai học Hoa ngữ đều để ư rất khó liên kết từ ‘Hán Việt’ ‘Bưu’ trong Bưu Cục, Bưu Chính, Bưu Điện với từ tiếng Hán tương đương. Quan thoại, phát âm You-Ju cho Bưu Cục. Quảng Đông: Yau-ching cho Bưu Chính. Phúc Kiến: Yiu Kiak cho Bưu Cục. Hải Nam: Yiu Dian Kuk cho Bưu Điện Cục. Không hề có âm B trong tiếng Hoa. Mặc dù có thể dễ dàng kiểm chứng qui luật về ‘hội chứng IU & AU’ (xem bài 3): ‘âm ‘ưu’ trong Bưu Cục được ‘sáng tác’ v́ nó nằm giữa hai âm IU và AU lộn xộn hoán chuyển với nhau’, khi th́ Yau lúc Yiu. Nhưng, thật ra rất khó giải tỏa được gút mắt: âm B trong Bưu Cục ở đâu nhảy ra? Đối với người viết đây là một thắc mắc nhiều năm. Thắc mắc này chỉ được giải đáp sau khi viết xong bài thứ 3: Andy Lau và tháng 7 mưa Ngâu. Bởi các Thầy quốc ngữ đă ‘xí gạt’ bao nhiêu thế hệ, bằng cách đă loại trừ âm /Y/ mà các Thầy không thích ra khỏi cách đánh vần của nhiều từ được kư âm bằng B, và sau này chuyển hết sang V. Nhắc lại, Jeanne Cuisinier [9] trong một công tŕnh nghiên cứu khá sâu rộng về người Mường vào năm 1946 có nhận xét, đại khái: ‘Người Mường có thói quen phát âm các từ quốc ngữ viết bằng V, bằng âm /By/’. Y như kiểu người Nam Bộ. Thí dụ: Viết về các ông Vua. Họ phát âm: Byiết wiề các ông Byua. Thế, các tự điển, khởi đầu bằng tự điển của Alexandre de Rhodes (1651) đều ghi: ‘Bua’ cho ‘O rei’ (tiếng Bồ), mang nghĩa ‘Vua’, và sau này đến thời Taberd, Petrus Kư đều được đổi thành ‘Vua’. Rơ rệt, BUA không có mang âm /y/. Cho đến tự điển Mường Việt xuất bản năm 2002 [10] cũng không dám nhét byào âm chữ /y/ cho hợp với một cuộc nghiên cứu khoa học và khách quan: Trang 39: Bong: Vong, vía. Bong enh: Vong hồn (của anh). Trang 43: Bừa: vừa. Ảo ni da mặc bừa: áo này cậu mặc vừa. (Để ư: NI chỉ NẦY cũng là phương âm miền Trung Bộ, nhất là Huế) [11]. Đây là một trong những điểm gút mắt nhất của kư âm quốc ngữ, do các vị tôn sư quốc ngữ để lại cho hậu bối. Nhiều vấn đề sẽ trở lại giản đơn, đâu vào đó, nếu ta nhét vào âm B của các tự điển đầu tiên một âm /y/ theo sát /B/ cho một số (chứ không phải tất cả) những từ ngày nay được viết bắt đầu bằng V: Thêm /y/ cho: Byua, Byong hồn, Byừa byặn. Tương tự, nhét /y/ vào Bưu trong Bưu Điện, và để ư đến ‘hội chứng iu &au’, ta sẽ thấy: Trước hết: Bưu Cục => Byưu Cục. Rồi nhét /y/ vào các phương âm tiếng Hán: Byou-Cục (Bưu Cục) => qt: You-Ju Byau-ching (Bưu chính) => qđ: Yau-ching Byiu Kiak (Bưu Cụộc) => pk: Yiu Kiak Byiu dian Kuk (Bưu điện cục) => hn: Yiu dian Kuk Chỉ có cách trả lại âm /y/ cho ‘Bưu’ (thành ‘Byưu’) mới có thể lư giải được sai biệt giữa âm Hán ‘You’ (hay Yiu) và âm Việt: Bưu. Một lần nữa có thể ghi nhận: Kư âm quốc ngữ đă méo mó đi cách phát âm rất chuẩn của tiền nhân đối với các từ gốc Hán. Tức trong một số từ bằt đầu âm B, âm /y/ đă bị vứt bỏ, từ lâu.
Thế tại sao các vị Thầy quốc ngữ lại kiêng kị và ghét bỏ âm /Y/ đến như vậy? Nhiều lư do, nhưng quan trọng hơn hết, cả tiếng Bồ Đào Nha lẫn tiếng Tây ít khi dùng /Y/ nhất là như một phụ âm. Để ư, trong rất nhiều ngôn ngữ, /Y/ có thể ‘hành sự’ như một ‘nguyên âm’ lẫn ‘phụ âm’. Nguyên âm: My hat (nón của tôi), possibly,… Phụ âm: Yesterday (ngày hôm qua), Yell (la hét). Ở tiếng Việt - Nguyên âm: Phân ly, mỹ măn, … Phụ âm: Có thể thuở ban đầu /Y/ đứng đầu mang dụng ư ‘phụ âm”: Yêu, Yếm thế, yêm bác. Lư do: các từ này trong tiếng Hán dùng /Y/ như phụ âm: Yêu - xuất phát từ Yiu hay Yao (biến chuyển qua lại giữa âm ‘iu’ và ‘ao’), Yan Shi (yếm thế), Yan Bo (Yêm bác). Ngoài ra, nếu dùng như ‘nguyên âm’, tại sao các Thầy không dùng ‘I’, mang âm tương tự: Iêu, Iếm thế, Iêm bác, … Một lí do sâu sắc khiến các Thầy tránh âm /Y/ có thể bắt nguồn từ chỗ tránh cạnh tranh thuộc địa với các cường quốc có ngôn ngữ ưa dùng /Y/, như Anh quốc chẳng hạn. Nhưng lư do ‘ngôn ngữ’ nhất có lẽ: Âm tiếng Việt giống âm Phúc Kiến và các thứ tiếng Nam Á. Nhưng tiếng Phúc Kiến và các thứ tiếng Nam Á có khuynh hướng lột bỏ phụ âm /Y/ ở đầu từ. Nói một cách ‘nôm na’, nếu cho phụ âm /Y/ tương đương với âm I-dài, cỡ 2 lần /i/: 2 x /i/, âm đầu /Y/ của Phúc Kiến thông thường chỉ độ 1.5 x /i/. Và các âm Nam Á lột luôn phụ âm để chỉ giữ 1 x /i/. Thí dụ: Xem nhiều sách sinh ngữ về tiếng Phúc Kiến ([2], [3] & [8]) ta thấy luôn luôn có lối phiên âm /’i/, tức dấu phẩy trên ‘ tiếp theo bằng /i/, hoặc đơn thuần /i/, chứ không phải /Y/ như quan thoại hay quảng đông: ‘iong= dũng; ‘iouk (pk)= dược; imgak= âm nhạc trong khi theo quan thoại hay quảng đông: yong, yeuhk, yin yue. Trong tiếng Quảng Đông: Yândouh= Ấn Độ => Triều Châu: Ín Đou (âm /y/ bị lột) Trong tiếng Quan thoại: Yin Du Nei Xia= In đô-nê-xia => Hải Nam: In-đô-nị-hia Do đó, quốc ngữ lột phụ âm /Y/ có lẽ để nương theo phát âm xưa của người bản địa: ít dùng phụ âm /Y/ hơn âm tiếng Hán kiểu quan thoại hay quảng đông, và thiên về ngữ ngôn Nam Á, kể cả Mân Việt (Phúc Kiến). Điểm cần nhấn mạnh: Ngôn ngữ nước An-Nam đối với âm /Y/ rất phức tạp. Khi theo khuynh hướng Nam Á và Phúc Kiến tránh /Y/, khi bắt buộc và thích dùng /Y/: Âm /Y/ vẫn có trong tiếng Mă Lai và Miến Điện. Có trong tiếng Hải Nam và Phúc Kiến, v.v. Một vài từ bắt buộc phải dùng /Y/: ‘Nyor’= dừa. Hải Nam phải xài ‘Ye’ mặc dù Hải Nam có khuynh hướng dùng /Jz/ cho nhiều phụ âm /Y/ của quan thoại. Do đó, việc tránh /Y/ gây ra rất nhiều phiền toái. Điểm đáng để ư và quan trọng nhất:
Phát hiện (c) ở trên rất quan trọng trong việc t́m hiểu cách phát âm của tiền nhân ở thời ‘trước khi có quốc ngữ’. Âm /y/, ẩn núp hoặc bị loại bỏ, đă góp phần vào việc biến đổi phát âm tiếng Hán thời Nôm, sang phát âm Hán quốc ngữ. Thí dụ về Miến Điện sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Cũng như chuyện âm /Dj/ trong ‘Djương Quí Phi’ - người Việt và Mường ngày xưa ưa kèm theo âm /M/, cho một số từ, một âm /y/ nho nhỏ. Để ư khi thêm /y/ vào âm /D-tây/ sẽ sinh ra /Dj/ hay thường viết /Dz/ - bởi /D/ (D-Tây, như Đ-Việt) là một âm lưỡi-họng. Nhưng /y/ kẹp theo /M/, một âm môi-môi sẽ không sinh ra âm /j/ như trong /Dj/. Bởi âm /D/ tiếp theo bằng /Y/ dễ sinh ra /Dj/ (thường viết lầm là /Dz/ - bời thật ra /Dj/ tiếng Việt không mạnh bằng /Dz/ như kiểu Hải Nam – xem bài số 2) – và giống như /Y/ âm /J/ lẫn /Z/ không được phép kư âm thành chữ, tức không có trong mẫu tự hoặc ‘chữ-cái’ tiếng Việt, nên quốc ngữ thường kư âm lẫn lộn cho: hoặc Đ hoặc D. Không bao giờ cả hai => mới tiến thành /Dj/. Thí dụ: Dĩa cơm gà Hải Nam: Viết và đọc theo kiểu phía Nam Đĩa cơm gà Hải Nam: Viết và đọc kiểu phía Bắc Tĩa cơm ca Hải Nam: Viết và đọc theo kiểu Mường Như bài số 2 đă phân tích: Âm tiền nhân đọc ngày xưa chính là hỗn hợp của 3 âm T, Đ, và D. T và Đ: không phân biệt nếu không có quốc ngữ a-b-c. Xin thử phát âm Toàn và Đoàn nhiều lần và để ư vị trí lưỡi chạm vào họng trên. T và D (chính thật /Y/) => sinh ra Tj Đ và D (chính ra /Y/) => sinh Dj Tjĩa hay Djĩa mới thật là cách phát âm tiền nhân cho Đĩa hoặc Dĩa. Thế âm /Tj/ hay /Dj/ có lạ không? KHÔNG. Đó là âm thông thường của khối ngôn ngữ ‘Môn-Khờ-Me’ tức khối ngôn ngữ, ngày xưa, tiếng Việt được xếp như một thành viên. Âm /Tj/ và /Dj/ cũng chính một âm xưa của khối ngôn ngữ Nam Á. Thí Dụ:
Trước khi trở lại âm /My/ thử xem tại sao các Thầy cũng không ưa ǵ âm /J/ để rồi không cho /J/ vào các mẫu tự của tiếng Việt. /J/ có trong tiếng Bồ, phát âm giống như /zh/ tiếng Anh (thí dụ: trái dâu tây cerise, Anh: cherry, Bồ cereja). Nhưng trong nước Tây Ban Nha, nằm sát Bồ Đào Nha, /J/ có phát âm như /H-bị-tắt/ hay âm cuối /ch/ trong phát âm tiếng Anh /loCH/. Thí dụ: Don Juan đọc gần đúng: Don Huan. /J/ cũng có trong tiếng Tây: la jeunesse (tuổi trẻ). Nhưng loại bỏ /J/ rồi /Z/, /W/, /Y/, vân vân, có lẽ các Thầy đă tránh cho tiếng nước Nam giống tiếng Tây Ban Nha, hay bớt lẫn lộn, để gần như đặt lên ngôn ngữ một dấu cầu chứng ‘trademark’: không phải thuộc về Tây Ban Nha hay Anh quốc. Bây giờ xin trở lại với âm /Mờ-yờ/ tức âm /M/ đi theo sát bằng /y/. Nhắc lại, trong nhiều bài trước (thí dụ bài số 2), để ư có vài ngoại lệ khi âm Hán biến sang âm /D/ Việt, trong tiến tŕnh quốc ngữ hoá: Mie (qt) => Miệt (HN) => Diệt (tiêu diệt - V) Mian (qt) => Miện (HN) => Diện (diện tích – V) Min (qt) => Min (HN) => Dân (nhân dân – V) Ngoại lệ, bởi âm Hán gốc không phải /Y/, nhưng lại chuyển sang D-Việt. Âm /M/ biến thành /D/. Thắc mắc này nằm trong đầu người viết cũng nhiều năm. Và t́m ra lư giải, sau khi đă kiểm chứng với tất cả phát âm Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam, Thượng Hải, Quảng Đông, chỉ và chỉ sau khi t́m được âm /y/ bị vứt bỏ trong ‘Bưu’ của ‘Bưu Điện’: ‘Byưu điện’. Kiểm soát lại cách đọc thực thụ của Mie, Mian, và Min, v.v.: Chúng theo phát hiện (c) phía trên rất sát (phần ‘Hội chứng kị Y’). Tức có âm /y/ nho nhỏ theo sau /M/: Miyệt (HN), Miyện (HN), và Miyin (HN). Khi quốc ngữ phát âm các từ này bắt đầu bằng /M/ nhanh thật nhanh, chỉ c̣n âm /Y/ hiện ra rất rơ. Do đó các thầy đă kư âm bằng /D/ trơn. Tức nguyên thủy /Y/. Miệt => Miyệt => Yiệt => Diệt Miện => Miyện => Yiện => Diện Min => Miyin => Yin => Dân v.v. Kiểm chứng với các ngôn ngữ khác:
Việt: dối trá => Mường: tổi tlá, ‘Tổi’ phát âm thật sự chắc hẳn có âm /y/ => tyổi tlá. Việt: đến đây => Mường: tiểnh ni. ‘Tiểnh’ chính một lối phiên âm của ‘Đyển’ => đến Việt: Nâu (màu nâu, brown) => Miến điện: Nyou => quốc ngữ đă bỏ /y/ trong ‘Nâu’. Việt: Dừa (coconut) => Mă Lai: Nyor => âm /D/ chính âm /Y/ trong trường hợp này. Tiếng Hải Nam cũng vậy. Mặc dù thông thường biến /Y/ quan thoại ra /Jz/ như bài số 2 đă tŕnh bày, đối với từ ‘nước ngoài’ như ‘dừa’ Hải Nam vẫn giữ y âm /Y/: ‘Ya-zhi’ Việc kèm theo âm /y/ sau phụ âm /N/ hay /M/, … có thể đưa đến một giải thích cho biến chuyển từ âm /A/ sang /ƯƠ/ như: tràng học => trường học. Thí dụ: Theo chữ Nôm (bài số 2): Mười (10) đánh vần như ‘Mài’, và đọc như ‘Mài’. Nếu xét kỹ chữ Nôm không thể nhét vào âm /y/ trong kư âm hài thanh. Và nếu thật ra kèm /y/ theo /M/ => Mài => Myài => Miài - sẽ tiến đến ‘Mười’ dễ hơn. Y như ‘liang’ => ‘lượng’. Tương tự: Nàng => Nyàng => Niàng => Nường Điểm trớ trêu trong việc quốc ngữ hóa ‘Diện’ mang nghĩa ‘Mặt’. ‘Diện’ tưởng một từ ‘Hán Việt’ đúng đắn, nhưng lại một từ ‘ba rọi’. Nói ra không người Tàu nào hiểu hết. Nhưng họ lại có thể hiểu từ thường tưởng ‘thuần Nôm’: Mặt. Bởi ‘Diện’ xuất phát từ ‘Mian’ (quan thoại), phương âm Chiết Giang - Thượng Hải đọc ‘Miị’. ‘Mii’ gần ‘Mặt’ hơn ‘Diện’ ba rọi.
Tửu lượng người đi ‘bia ôm’ cũng người cao, người thấp. Nhưng giữa ‘Tửu’ và ‘rượu’ - thật sự không biết từ nào ‘thuần Nôm’ hay từ nào gốc Hán: Tửu, quan thoại đọc ‘jiu’. Hải Nam cũng ‘jiu’. Quảng Đông: jẩu. Triều Châu: Tjiu. Để ư qui luật t́m ra trong bài số 3: Trong tiếng Tàu, âm /iu/ và /ao/ ưa biến chuyển qua lại với nhau. Lấy cách phát âm Triều Châu và Phúc Kiến: ‘Tjiu’ bởi âm khu vực này rất gần âm Nôm hay ‘Hán Việt’ (bài 5): Lột bỏ ‘T’ và biến chuyển giữa âm /iu/ với /ao/, ta có: Tjiu => jiu => jao => răo theo tiếng Mường. Và nhớ /R/ đọc kiểu Mường giống như /J/ => jăo. (Cách phát âm /R/ là một phát âm mới do quốc ngữ giới thiệu. Ngày xưa chỉ có âm gần giống /J/ => cách phát âm rất nhiều nơi Trung Bộ c̣n giữ). Cách khác: Tjiu => jiu => riu => rượu (Xin nhắc lại âm /R/ là âm quốc ngữ của /J/ mà tiền nhân đă xử dụng.) Như vậy thật sự quốc ngữ đă lột mất /y/ trong ‘Tyửu’ - bởi, như đă đề cập nhiều lần (bài 2 & 4), /Tờ-yờ/ tức /Ty/ đọc nhanh thật nhanh sẽ sinh ra /Tj/. Y như /Đờ-yờ/ tức /Dy/ đọc nhanh sinh ra /Dj/ mà người Việt thường viết như /Dz/. Tu= râu, cũng vậy. ‘Râu’ có thể được xem một từ Hán Việt như những từ khác. Tu => quan thoại đọc Hu-xu (hồ tu). Quảng Đông: xou. Phúc Kiến: Ho-Tjiu. Chỉ đọc gọn ‘Tjiu’ và lột mất ‘T’ trong phát âm Phúc Kiến: Ho-Tjiu => JiuĐể ư qui luật ‘iu <=> ou hay au’ (bài 3), dễ thấy: qđ: xou => pk:jiu. Phát âm Phúc Kiến có thể đến tiếng Việt bằng => Jou hay Jau => Râu. Nên nhớ âm /J/ chính là âm của /R/ khi chưa có quốc ngữ. Trở lại ‘Mô Tả’ đề cập ở trên. ‘Tả’ Phúc Kiến đọc ‘Tsia’. Âm /Ts/ cũng một dạng của /Tj/ hoặc /Z/. Như ngày xưa phiên âm Wade-Giles ghi ‘Mao Trạch Đông’ là ‘Mao Tse Tung’. Ngày nay pinyin viết ‘Mao Ze Dong’. Có lúc /Z/ biến sang tiếng Việt thành /TR/: Mao ZE Dong = Mao TRạch Đông. Có khi /Z/ sang tiếng Việt thành /T/ trơn: Zi => Tử. Ze => Tắc. Nhưng điểm chính yếu, theo kiểu Phúc Kiến, [Tjả] xuất từ [Tyả], bị lột /y/ thành [TẢ] trong ‘Mô Tả’. Khuynh hướng kẹp âm /y/ vào phụ âm /T/ cũng có thể t́m thấy trong ngôn ngữ bà con với tiếng Việt: tiếng Mường. Lật một quyển từ điển Mường ta sẽ thấy rất nhiều từ quốc ngữ bắt đầu bằng /D/ nhưng Mường bắt đầu bằng /T/. Điều này có thể được giải thích bới một âm /y/ núp đâu đó sau lưng /T/: Việt: con Dê (goat) => Mường: Tê => thật ra: Tyê. Bởi cả hai Dê và Tê đều tiến đến Djê & Tjê - nếu đọc nhanh. Hay /Tyê/ sẽ sinh ra /Yê/ => /Dê/ => /Yang/ tiếng Hán. Việt: dùi cui => Mường: tùi cui. Thật ra: Tyùi cui.
Cũng bởi tiền nhân nước An Nam, kể cả một số đông người dân tộc - đặc biệt người Mường, có khuynh hướng thêm âm /y/ theo sau một số phụ âm như /M/, /N/, /Đ/, /T/, hay /B/, chúng ta thấy tiền nhân đă khoác vào tiếng nói của họ một ‘hội chứng nghịch đảo’: Hội chứng muốn ‘M’. Tức đối với một số từ mang phụ âm trơn /y/ ở đầu, họ bọc lại bằng cách thêm âm /M/. Đây cũng là một phát hiện quan trọng của loạt bài về ‘thuyết nhất thống’ này. Nó sẽ giúp hiểu rơ hơn nền tảng của cấu trúc tiếng Việt. Dẫn chứng 1: Muộn và Trễ (late). ‘Trễ’ là một từ ‘thuần Nôm’. Xuất xứ nó chứng minh được sự hiện diện của người Nam Đảo trên vùng đất liền ở Đông Nam Á (xem bài số 5, phần Ghi Chú về Nguồn gốc dân Việt Nam). Tiếng Malay của ‘trễ’ là ‘terlambat’. Tiếng Samoa (gần Tân Tây Lan): tuai. Tonga: tomui. Đặc biệt, tiếng Tahiti: tâere ! Tất cả đều có vẻ bà con xa gần với ‘trễ’, nhất là Tahiti và Mă Lai. Tiếng Hán cũng giống vậy. Quan thoại: Chĩ (gần giống: tchễ, theo phát âm /tr/ người phía Bắc) và một từ khác, Wăn. Quảng đông: Ch’i và Măan. Phúc Kiến: biến /W/ quan thoại (wăn) sang /Y/: ’uahn.{ để ư: ‘uahn chính âm gần với [yuahn] – xem phía trên} Tiếng Nôm hoặc biến chuyển tổng hợp giữa quảng đông ‘măan’ và phúc kiến ‘yuahn’ để sinh ra ‘Muộn’. Hoặc đă thêm /M/ vào phúc kiến ‘yuahn’: ‘Myuan’. Rồi vứt đi /y/ khi quốc ngữ trờ tới. M + yuahn => Myuan => Muan => Muộn. Dẫn chứng 2: Màu mỡ Trong một bài trước (số 5) chúng ta đă thấy: Tiếng Anh chỉ có từ ‘Fat’ dùng để chỉ chung cho ‘Mập’ và ‘Mỡ’ có trong thịt. Tiếng Việt có ‘Mập’ và ‘Béo’ hay ‘Bự’ dùng để chỉ người ‘mập’ hoặc to con [15]. C̣n ‘Mỡ’ dùng để chỉ chất ‘béo’ trong thịt. Tiếng Tàu cũng có hai thứ từ để chỉ Mập và Mỡ. Mập= Ph́ tức Fei. Mỡ, họ dùng từ chỉ ‘dầu’ để mang nghĩa luôn cho ‘mỡ’ tức chất ‘fat’. Mỡ = dầu. Quan thoại: You. Quảng đông: Yàuh (giống ‘dầu’). Hải Nam: Yiu. Phúc Kiến: Yiũ. Theo ‘hội chứng muốn M’, tiền nhân có thể thêm /M/ vào trước /y/: You => Myou (qt) => Myiũ (pk). Kẹp theo qui luật về /iu/ => /ou/: Myiũ (pk) => Myoũ. Quốc ngữ tới, lột bỏ /y/. Myoũ => Moũ => Mỡ. Ngoài ra, ‘Mỡ’ cũng có thể xuất phát từ tiếng Mă Lai: Minyak. Bị lột bỏ /ny/ thành ‘Miak’. Cũng rất giống ‘Mỡ’. Tương tự, ‘Màu’ trong ‘màu mỡ’ cũng có thể xuất phát từ ‘dầu mỡ’. Mỡ (oil)= yàuh tiếng Quảng Đông. Thêm /M/ trước /y/ => Myàuh. Quốc ngữ đến, ra lệnh bỏ /y/ => Màuh => Mầu => Mầu mỡ [16]. Nhân tiện xem đến ‘Màu sắc’. [Màu] có lẽ xuất xứ từ tiếng Khmer: [Moe] hay [Boe]. Để ư /M/ và /B/ ưa hoán chuyển nhau. [Sắc] một từ gốc Hán: quan-thoại đọc /Se/. Quảng Đông: /Shik/ [18]. ‘Màu sắc’ là một thí dụ cho thấy ‘Hán Nôm đề huề’.
Trong một bài trước (bài số 5) chúng ta đă thấy một liên hệ rất mật thiết giữa phương ngữ Phúc Kiến - Triều Châu với tiếng Việt. Nhất là một số từ, từ trước đến giờ, vẫn hằng tưởng tiếng Nôm thuần túy, và một số âm các từ gốc Hán y như kiểu Phúc Kiến. Xin được ghi lại các từ liên hệ tiêu biểu nhất:
Quan Thoại Phúc Kiến ViệtGong yuan Gong Wui Công Viên Xiang Yu Hang Wu Hạng Vũ Yu zhou Wu Tziu Vũ Trụ Yong bie Wing biet Vĩnh biệt Yue Nan Wat Nam Việt Nam Trong đó quan trọng nhất, Yue Nan đáng lẽ thành Duyệt Nam hay Diệt Nam, nhưng theo kiểu biến chuyển Phúc Kiến (Y => W), lại biến thành ‘Việt Nam’. Ngoài ra, âm F-quan-thoại (Fu-Shi), tương đương với H-mạnh của Phúc Kiến (Hu-xi), biến sang tiếng Việt thành PH (Phú Sĩ), giống giống H-thổi của tiếng Nhật (Fuji). Tức tiếng Việt gốc Hán có 2 điểm về phụ âm giống Phúc Kiến: Một số Âm /V/ (biến từ W) như trong các ngoại lệ kể trên & và các từ bắt đầu bằng âm /PH/, biến chuyển từ /F/ của quan thoại hay quảng đông.
Những từ sau đây tiêu biểu nhất cho mối tương quan Phúc Kiến của tiếng Việt Bay (Fly)= Be hay Pe, ho ặc B-pe. B-p đọc giữa B và p. sợ hăi = gkianh (Phúc Kiến) => kinh (V) sau (về sau) = yi hou (dĩ hậu, qt) = i’au (Phúc kiến) => sau (V) chống = fan dui (phản đối, qt) = kiong (PK) => chống (V) Không (số 0)= quan-thoại: Ling => Việt: Linh. Phúc Kiến: Kohng, y như 0 (không). không khí = kongqi (qt) = kong kih (PK) – y hệt như nhau chọn = xuan (qt) = gkieng (PK) => kén ! Ô (dù)= hOh-san (Phúc Kiến) => ô ; Yu-san (quan thoại) => dù mắt kiếng (gương)= yen jing (qt)= ngăhn geng (qđ) = bahk-gkiahn => mắt kiếng đũa (chopsticks)= kuaizi (qt)= faaizi (qđ) = Duu => âm đũa xuất từ Phúc Kiến. làng = cunzi (qt) = chyun (qđ) {tương đương với ‘thôn’ tiếng Việt} làng = tiếng Phúc Kiến: gKue => Kẻ (kẻ chợ= Thăng Long; Kẻ Noi= Cổ nhuế) làng= gKue, giống từ Việt cổ: Kẻ. Tiếng Mường: Kuel. Quê= Từ điển tiếng Mường [10] lại ghi phát âm /Kuel/ bằng /Quêl/. Từ đó ta thấy [Quê] chính biến chuyển từ [Kẻ], từ [Kuel]. Phát âm Phúc Kiến /gKue/ cũng gần gũi với [Quê]. Ghi thêm (trích lược từ [2] & [3]) Mỹ quốc (USA)= Bbị Gôk Tá= Ta ** Muốn (want) = meh Kinh nghiệm= Keng giam ** Mua= muê Khách= Kheh ** Tiền mặt= hiện kim= hiân gim Phần thưởng= Po tap Đương nhiên= dong liàn Nhu yếu= Su iau Bồi thường= bué sióng Kết quả= Kiat ko ** Tiếp tục= gẻ siok ** Trừng phạt= Chhu hoat Ngủ (Sleep)= kùn (Thụy = Shui, qt) Yêu cầu= Iau Kiu ** Dao (Knife)= do Suy (suy tính)= Sui Điều lệ= diáo lê Nguy hiểm= Ui hiam Mỗi= mnuié Cảnh sát= keng chhat Có (have)= wu Kiến nghị (đề nghị)= kian Gi Đẩy (push)= tui (qt => thôi)= Duu Lập khắc (lập tức)= Lip khek Phú ông= pu ong Chuối (banana)= Chiao Vấn đề= Bun toe ** Lo (worry)= Lo Khek hok= khắc phục ** Nhưng= dân ** Cà (tomato)= Kio Công cụ (tools)= Kong ku Lợi dụng (utilize)= li iong thảo luận= tho lun ** Đa số= to so phải (must)= pit su Khoẻ= ‘Iong (dơng/ dũng) khóa (lock)= koai ** Trộm (steal)= Thau ** trọng yếu= tiong iau Đơn độc= tan tok ** bến tàu= Bé tàu Đặc biệt: Chúng (ta)= Giún nặng (weight)= Dang (để ư: Đ <=> N, trong môi trường Hán-Nôm) Khi = dihsi (Ở) đâu nào= Dou ‘lou (=> Dou ‘nou) Đi đâu nào= Dih dou ‘lou (đi đâu lào!) Quăng (rộng)= kuah Mận (plum)= Muin~ (cũng tương tự mâhk – Lào) Byớ (vớ - socks)= Bẽ’ => Byơ => Bí (tất) Qua liệt kê ở trên, có thể để ư:
Họ Nguyễn: Quan thoại, Ruan. Quảng đông: Yuen. Nhưng Phúc Kiến: Wăn. Nghiên kíu => Quan thọai: Yan jiu. Phúc Kiến: Ngam Kíu
‘Hô huê da gu xiu dang wang’ chính là lối phát âm Hải Nam cho câu cuối bài thơ ‘Hoa đào năm ngoái’ của Thôi Hộ: Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiếu đông phong Bây giờ viết theo cách đọc Quảng Đông, in đậm những từ giống cách phát âm quốc-ngữ: Hoi lihn câm yậpqji mun zhong Yahn min tau fa xeung ying hong Yahn min bat zhi hor qu hoi Tau fa yi gauxiu dong fong Theo cách Triều Châu (hay Phúc Kiến): Khu ni kin jit chu meng dong Nan min hao huê xiang yang hong Nan min but zai ho chu khu Hao huê yi gu jiu dang hong Kiểu Quan thoại: Qu nian jin ri ci men zhong Ren mian tao hua xiang ying hong Ren mian bu zhi he chu qu Tao hua yi qiu xiao dong fong Phát âm Hải Nam: Khu nyi kim jật ze mui dong Nan mian ho huê tjủ yang ang Nan mian bô dai ho di khu Ho huê da gu xiu dang wang Xem qua các cách phiên âm bài thơ Thôi Hộ:
Qua tŕnh bày phía trên, chúng ta đă thấy:
Rượu gần với Jiu hơn Tửu (âm /R/ quốc ngữ đem vào thay cho /J/) Giàu gần với Răo quan thoại và Jau hải nam, hơn ‘Nhiêu’ chỉ gần với Phúc kiến ‘yiu’ Râu gần với hoJiu của Phúc Kiến – trong khi Tu gần với Hu-Xu quan thoại. Mặt, đặc biệt Mặt, gần với Ḿi Chiết Giang, và tất cả phương âm Tàu bắt đầu bằng /M/, như Mian quan thoại, hơn phát minh quốc ngữ Diện, thật xa. Nhưng (but) gần với /dân/ của Phúc Kiến hơn ‘đăn thị’ của tiếng Hán-quốc-ngữ. Tiền nhân đă bị hàm oan rằng họ phát âm Hán Việt theo kiểu đánh vần quốc ngữ. Thật ra họ phát âm gần tiếng Hoa hơn những âm do quốc ngữ kư âm. Tức vào thời chưa có quốc ngữ, tiền nhân biết họ làm ǵ, họ nói ǵ khi xử dụng tiếng Hán, dù đọc theo ‘khẩu vị’ của người nước Nam. Chỉ như vậy mới giải thích được một sự thật: Ngày xưa không hề có cái vụ… bút đàm, giữa giới học thức nước Nam với người Trung quốc. Nền giáo dục nước An Nam không đến nỗi … tệ như vậy.
/B/ => đi Byào, như người Mường & Nam Bộ vẫn dùng /T/ => /Ty/ => đọc nhanh thành /Tj/ => Tjiu => Tjửu => (a) Tửu & (b) răo = rượu /Đ/ => /Đy/ đọc nhanh thành ra /Dj/ hay quen thuộc hơn /Dz/: Djương Quí Phi /M/ => /My/ y hệt như Myanmar = Miến Điện = Diến Điện. Chính âm /My/ trong ‘Mian’ gây ra kư âm ‘Diện’ có nghĩa= Mặt. /N/ => /Ny/ nyor (ML) => dừa, Hải Nam ‘Ye’ mặc dù Hải Nam thích dùng /Jz/ hơn /Y/ nyou (MĐ) => nâu (màu nâu) nàng => nyàng => niàng => nường Và để ư: Hiện tượng kèm âm /y/ vẫn có thể t́m thấy ở các ngôn ngữ thuộc nhóm Nam Á. Thí dụ: /Dj/: Djiring, Djakarta (In-đô). /Ny/: Nyou (Miến Điện). /My/: Myanmar (Miến Điện). /Ty/ hay /Tj/: Tje (sao, Miến Điện), Tjadrawati (họ In-đô).
Quan thoại đọc /Yun/ cho ‘mây’. Quảng Đông phát âm theo Mă Lai: /Wân/. Phía Bắc đọc /Vân/, phía Nam /‘Byân’/ (bài 1) Chu và Châu là hai họ khác nhau, va đọc khác nhau ở Trung quốc. Nam Bộ viết tất cả thành ‘Châu’, và Bắc Bộ: Chu. (bài 4) Trung quốc tùy vùng, khi th́ chọn âm /iu/ như Liu (Lưu), khi th́ đọc /au/: Lau (Lưu). Phía Bắc thích chọn /iu/, phía Nam: /ưU/. Thầy quốc ngữ giải toả bằng âm giữa: /ưu/ (bài 3) Trung quốc cũng có vùng phát âm /Dy/ hay /Jz/, có chỗ đơn thuần /Y/. Việt Nam cũng vậy: Phía Bắc thích /Dj/ hay /Dz/, phía Nam: /Y/. (bài 2 & 4). Và rất nhiều biến chuyển khác, đặc biệt các hoán chuyển phụ âm /t/ => /d/ => /n/, Hay /p/ => /b/ => /m/ qua lại lẫn nhau – hoàn toàn ‘không có vấn đề’ khi c̣n ở thời chữ Nôm, hoặc chữ Hán như hiện xử dụng ở Trung quốc.
Tháng 6, 2004 N.N. Ghi Chú[1] Đỗ Quang Vinh (2000) Tiếng Việt Tuyệt Vời (in lần thứ 2 – tác giả xuất bản). Xem www.geocities.com/doquangvinhvenguon [2] Peter Chen & Bill Brown (1993). Learning Hokkien Conversation. Intellectual Publishing Co. [3] S Y TAN (1973 & 1993). Everyday Hokkien Conversation. Intellectual Publishing Co. (Singapore) [4] Lê Trung Hoa (1992) Họ và Tên người Việt Nam. Nxb Khoa Học Xă Hội – Hà Nội. [5] Thí dụ: Mầu = viết chữ Nôm y như ‘Mâu’, tức mượn âm ‘Mâu’. Mỡ= Nhục (thịt) + Mă. ‘Mă’ cho mượn âm, và ‘Nhục’ liên quan đến ‘thịt’. [6] Vũ Văn Kính (2002) Đại Tự Điển chữ Nôm. Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành Phố. [7] Từ lúc phát hiện ‘hiện tượng Phúc Kiến’, với những từ hết sức ‘thuần Nôm’, và những qui luật tầm nguyên truy ra gốc các từ: ‘Mỡ’, ‘giàu’, việc t́m kiếm các từ ‘thuần Nôm’ trở nên khó khăn, bởi mọi từ ‘thuần Nôm’ đều bị nghi ngờ… có vấn đề! Thí dụ thêm: Ông (Mr): cũng không phải thuần Nôm. Quảng Đông: ‘Yung’ => quốc ngữ lột âm /Yờ/ => ‘Yung’ bị lột /y/ thành: ‘Ung’ + Biến chuyển qua lại của âm tạo bởi quốc ngữ, U và Ô: tui và tôi, Bui (vui) và Bôi => sẽ làm cho Ung dễ đọc thành Ông và trở nên Ông luôn, để tránh cảnh đồng âm khác nghĩa cho Ung, cho các hợp từ khác: ‘ung nhọt’. Quan thoại đọc ‘yung’ bằng ‘Weng’. [8] Charles Hamblin (1984) Languages of Asia & The Pacific. Angus & Robertson. [9] Jeanne Cuisinier (1946) Les Mường, Géographie et sociologie humaine. [10] Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ - Hoàng Văn Hành (2002) Từ điển Mường-Việt. Nxb Văn Hoá Dân Tộc - Hànội [11] Quan thoại đọc: zhớ lị => cái nầy. Hải Nam: zhớ nị. Nầy => ń. Tiếng Mường: Ni hay Ń. Giống phát âm Trung Bộ: Ni. [12] Yêm bác= uyên bác, sau này. ‘Yêm bác’ một từ ít dùng nên c̣n sót lại vào đầu thế kỷ 20. ‘Yêm bác’ chắc có phát âm gần tiếng Hoa hơn: Yan Bo. Bo tức Bác => Bo Shi= Bác Sĩ. Yêm Bác được Phạm Quỳnh dùng đến trong ‘Hành tŕnh Nhật Kư’, do nhà Ư Việt (France) tái xuất bản năm 1997. ‘Yêm Bác’ được các nhà văn uyên bác khoảng 1930-1945 cải biến thành ‘uyên bác’ có lẽ cũng v́ lí do ‘không thích Y’ truyền tụng từ hồi quốc ngữ mới ra đời. [13] Ngành ‘Bưu Điện’ chỉ đến Á Châu theo chân người Tây Phương. Để ư nếu tiếng Việt dùng ‘Bưu Chính’, tức mang ảnh hưởng Quảng Đông. Dùng ‘Bưu Cục’: ảnh hưởng Bắc Kinh. ‘Bưu Điện”: ảnh hưởng Hải Nàm. Giống như ‘Thư Kư’, ‘Bí Thư’ và Mật Thư’ - mỗi một thứ từ mang ảnh hưởng một nơi khác nhau bên Tàu. [14] Âm /Y/ biến sang /NH/ cũng được thể hiện từ tiếng người dân tộc ở địa phương, không nhất thiết từ tiếng Hán. Thí dụ: Theo quyển ‘Việt Nam Anh Hoa’ (2000) của Hương Giang Thái Văn Kiểm (Nxb Làng Văn), thành phố ‘Nha Trang’ xuất xứ từ tên gọi con sông gần đó của người dân tộc: YA KRUM, mang nghĩa Sông Lau, hay sông Tre. Ya => Nha, Krum => Trang. [15] ‘Béo’ và ‘Mập’ đều mang xuất xứ Mă Lai: Béo hay Bự => tiếng Mă Lai: Besar. Mập=> leMak. Béo cũng giống một từ Phúc Kiến: Bui [16] Một việc nhầm lẫn, có thể xảy ra ở thời quốc ngữ mới đến: Mổ. Mang nghĩa: tôi. Nhiều người, nhất là những nhà báo ưa xưng ‘tôi’ bằng ‘mổ’: ‘Trần mổ nhớ hồi c̣n thơ ấu…’. ‘Tôi’ xuất phát từ 2 chỗ: Tiếng Lào: Kôi, và tiếng Miến Điện: Tjano. Trong tiếng Nôm, ‘tôi’ lại ưa đi chung với ‘luyện’: tôi luyện, nghĩa: rèn luyện. Khổ một nỗi, tiếng Hán quan thoại của ‘tôi luyện’ là ‘Mổ luyện’: Mo lian. Mổ đứng vào chỗ của Tôi. Người xưa nhầm lẫn từ đó và dùng Mổ cho Tôi. [17] Tước = thường mang nghĩa ‘chim sẻ’. [18] Roy T. Cowles (1999) A Pocket dictionary of Cantonese. Fourth Edition - (First Edition 1914). Hong Kong University Press. |
Xin vui ḷng liên lạc với
haphuonghoai@gmail.com về tất cả
những ǵ liên quan đến trang web nầy
|