| |
NGƯỜI MIÊU: LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG
Trần Trúc-Lâm
Qua
cuộc chiến Đông Dương và Việt Nam, sự liên hệ của các sắc tộc miền núi đă
đóng một vai tṛ không kém phần quan trọng, thường được báo chí Tây phương
nhắc đến, nhất là ở Lào. Khi cuộc chiến kết liễu với sự thắng thế của phe
cộng sản vào giữa thập niên 70, đă có một làn sóng di dân tị nạn ồ ạt kéo
dài nhiều năm sau đó.
Phần lớn dân thiểu số ở Lào sau khi
vượt sông Mêkông lánh nạn sang Thái Lan đều an cư ở vùng đồi núi Bắc Thái;
một số khác được định cư ở Hoa Kỳ cùng với khối lượng lớn lao người đồng
bằng của 3 nước Việt, Miên Lào.
Với hơn hai thập niên đầu định cư, v́
những nhu cầu và dịch vụ xă hội, đă có sự giao tiếp ḥa đồng của các sắc dân
Đông Dương trên vùng đất mới. Chúng ta đă làm quen với những người miền núi
của thượng Lào với y phục cổ truyền có màu sắc sặc sỡ khác lạ mắt mà những
người lớn tuổi vẫn c̣n mặc khi đi khám bệnh, đi chợ, đi xe buưt hoặc đến sở
welfare vv...
Riêng nói đến người Lào th́ trong khối
sắc dân hỗn tạp này, nhiều người Việt chúng ta đă không phân biệt được người
Lào đồng bằng, người Lào miền núi (c̣n gọi là Lào thừng), người Miên (đừng
nhầm với người Cao Miên, hay Khmer), người Hmong (mà ở Việt-Nam hay gọi là
Mông, Miêu, Mèo), người Kh'mú (c̣n gọi là người Kha phía nam Lào). Họ có
tiếng nói và phong tục văn hóa khác biệt hẳn nhau.
So với người Việt, th́ người Miên và
người Hmong chỉ có một số ít họ tộc rất dễ nhận: Đối với người Miên th́
thường là Saeteurn, Saechao, Saephanh, Saefong, Saelee vv...; c̣n người
Hmong th́ có: Ly hay Lee, Moua, Hang, Xiong, Vue, Lo, Thao vv... Với chúng
ta th́ tên Vang Pao lại cũng rất là quen thuộc.
Nhóm sắc tộc Lào, vốn thích nghi với
miền núi và canh tác, khi đến Mỹ đă tụ tập với nhau ở một số địa phương như
Minesota, Fresno, Sacramento, Modesto, Spokane và Seattle...Và theo đà tiến
triển, các thế hệ trẻ đă chóng thích nghi với đời sống mới và đạt lắm thành
công rực rỡ trong nhiều mặt như học vấn và kinh doanh.
Riêng với sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi
là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế
giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số c̣n lại sống răi rác ở miền bắc
các nước Việt, Lào, Thái và Miến điện. Có khoảng 80 ngàn người đă được định
cư tại Hoa Kỳ. Đă có khá nhiều sách báo Tây phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về
sắc dân này. Càng t́m hiểu th́ chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về lịch sử hùng
tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn, đă bị suy vong mai một mà trở
thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu lục với tṛ dâu biển
ngậm ngùi.
Người
Trung hoa xưa phân biệt sắc tộc Hmong ra làm hai loại: loại đă thuần (shu)
và loại hoang (sheng). Loại Hmong thuần là nhóm đă được đồng hóa với người
Hoa, c̣n loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài ṿng kiềm
tỏa của chính quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với
nhóm Hmong sống hoang dă ở vùng Tứ- xuyên, Vân-nam vào thế kỷ 17 rất lấy làm
ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống caucasian,
nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh.
Có thể là v́ thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Số người giống
caucasian này c̣n lại tương đối ít v́ các chính quyền liên tiếp của
Trung-quốc luôn luôn t́m cách sát hại họ, dù họ đă trốn sang Lào, không
nương tay, ngay cả đến thời Dân quốc và Trung cộng ngày nay.
Sự kiện này đă làm các nhà truyền giáo
bấy giờ bỏ công t́m hiểu thêm về nguồn gốc của người Hmong. Nhưng sử sách
của người Hoa lại hầu như muốn bỏ quên giống dân này, chẳng có mấy sách cổ
nhắc đến một cách rơ ràng, không khác ǵ khi nói về nguồn gốc của Việt tộc.
Ngay cả các nhà sử học người Hoa vẫn cho rằng người Hmong là kẻ thù đầu tiên
của Hoa tộc, và xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Măn
Thanh, người Hmong đă không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân
Trung quốc.
Cuốn sách đầu tiên đề cập tương đối
đầy đủ về giống Hmong là cuốn "Histoire des Miao" (Lịch sử về Miêu tộc) do
nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt
tại Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều
bộ tộc Hmong ở Bắc kỳ và Lào. |
Về sau, nhiều nhà sử học đồng ư rằng
trong thời cổ đại giống Hmong xuất phát từ châu Âu, di dân dần đến vùng đồng
khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định cư ở lưu vực sông Hoàng-hà vài
ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Hmong c̣n lưu truyền vẫn nhắc đến tổ
tiên của họ vốn đă sống ở một vùng quanh năm tuyết phủ, băng giá, ngày và
đêm kéo dài đến cả 6 tháng. Với người Hmong sống ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á,
chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể chuyện là "nước cứng" và "cát
trắng mịn".
Số phận dân Hmong bắt đầu gắn liền với
sử Trung quốc có thể vào khoảng từ 3000 trước TL đến 1200 trước TL.
Khoảng 2700 trước TL, những di dân từ
Siberia đă đi dần xuống vùng trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là
Manchuria, Hà-bắc khi khí hậu ấm áp hơn cho phép, và người Hmong đă định cư
tại lưu vực sông Hoàng-hà ở vùng thượng Hà-nam. Lúc bấy giờ đă có bộ tộc Hoa
Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm tây, Sơn tây và Hà nam cả ngàn năm trước. Bộ
tộc này chỉ là bộ lạc miền núi chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc
Hoa Yangshao này ḥa nhập với bộ tộc Hoa Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn
đông.
Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng
mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của Trung hoa, đưa đến chỗ xung đột
không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy giờ. Theo người Hoa th́
Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người Hoa (khoảng 2697
trước TL), liền t́m cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc dể
chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung quốc. Sau khi toàn thắng,
Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) mở đầu thời Ngũ đế, đồng thời
với Họ Hồng Bàng của Việt sử. Người ta lại gán cho thời Hoàng đế kéo dài
đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đă phát minh ra được thuyền bè, xe
kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và đất nung, biết
xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để đoán
ngày tháng gieo trồng vv...
Hẳn nhiên Hoàng đế chỉ là một nhân vật
huyền thoại của người Tầu, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không t́m
ra được bằng chứng ǵ về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đă nói lên
được sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa - Miêu đă xảy ra rất sớm, và từ đó cứ
kéo dài măi suốt lịch sử Trung quốc. |
Cuộc sống mái với Hoa tộc qua các triều đại
|
Năm 1576 trước TL, vua Thang, thực ra
chỉ là một tù trưởng thuộc bộ lạc tộc Thương, lôi kéo được các bộ lạc khác
diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia hay Hsia), lập ra Nhà Thương (Shang hay
Yin) (1576 - 1059 trước TL), thống lĩnh một giải đất thuộc tỉnh Hà-nam và
Sơn-tây bây giờ. Đến đời vua thứ 8 là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên c̣n gọi
là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ, định canh, mục súc, tằm tang và chế
độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất hiếu chiến, giao tranh luôn với
các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch bại trận bị bắt làm nô lệ,
và c̣n dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa.Vào năm 1930, trong một cuộc đào
xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô đời nhà Thương,
người ta t́m thấy có nhiều hài cốt của tộc phi-mông-cổ (có nghĩa là gốc
caucasian) lẫn lộn.
Đến đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221
trước TL) th́ ngay sau khi diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ vương liền
đày một số tộc Miêu lên vùng biên cương Cam-túc (Kansu), tịch thu hết ruộng
đất của họ. Nhà Chu c̣n bắt họ canh tác dưới sự kiểm soát của các đội biên
pḥng, nhưng người Hmong, quen sống tự do bơ trốn vào rừng và bắt đầu cuộc
sống kham khổ của miền núi. Đến thế kỷ thứ 7 trước TL, Miêu tộc kết hợp với
các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi
lên đánh phá các trú pḥng của quân nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không
c̣n nghe nói đến trong sử Trung quốc. Có truyền thuyết cho rằng một phần đă
bị đồng hóa trước TL, và một phần theo gịng sông Vệ vào vùng Tứ-xuyên, rồi
trốn vào Tây-tạng yên sống trong chốn thâm sơn cùng cốc.
Số tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp
không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà họ luôn nổi dậy. Năm 826 trước TL,
Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu táng khắp phương; một số chạy đến bờ biển theo
thuyền xuôi vào biển Nam, một số đến Quảng-tây, Hồ-nam; số lớn di tản vào
vùng thượng du Tứ-xuyên và Quế-châu, xa khỏi ṿng kiềm chế của nhà Chu.
Ấy vậy mà năm 770 trước TL, U-vương (vợ
là Bao Tự) đă bị rợ Khuyển-nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là
B́nh-vương phải dời đô từ Cảo Kinh (Tây đô) về Lạc Dương (tức Đông đô), nên
sử gọi là Đông Chu.
Tiếp sau đó, nước Tầu bị loạn lạc Xuân
Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước TL), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước TL.), số
phận Miêu tộc không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Tầu. Cùng thời
xin nhớ rằng, ở nước Văn Lang khoảng 275 trước TL, Thục Phán dành được ngôi
từ Hùng Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây
thành Cổ loa.
Măi đến đời Tần (Ch'in hay Qin: 221 -
206 trước TL), sau khi nhất thống Trung quốc Tần Thỉ Hoàng (Shih Huang-ti)
dời đô về Hàm dương, quyết tâm đè bẹp các cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn lư
trường thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ phương Bắc. Tần Thỉ Hoàng đă ra
lệnh cho tướng Đồ-Thư đánh chiếm các xứ Bách Việt ở phương nam (khoảng các
tỉnh Hồ-nam. Quảng đông và Quảng tây bây giờ), rồi cho di dân hơn 50 vạn
người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam-hải là Triệu Đà cai quản. An dương
vương xin thần phục nhà Tần.
Khi nước Tầu lâm cảnh loạn lạc với Lưu
Bang (Hán) và Hạng Vơ (Sở) tranh hùng th́ năm 208 trước TL, Triệu Đà đánh
chiếm nước Âu lạc, lập ra nước Nam Việt (gồm Quế lâm, Nam hải và Tượng quận).
Khi nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN -
220 TL), nhờ yên ổn với các rợ, họ đă chú tâm mở rộng bờ cơi thêm. Đời Vũ Đế
(134 - 88 trước TL), quân Hán đă đánh chiếm Triều tiên và chia ra làm 4 quận.
Năm 111 trước TL lại sai Lộ-bác-Đức chiếm nước Nam Việt, đổi thành Giao-chỉ
bộ (Chiao-chih chun) chia ra làm 9 quận. Quân Hán c̣n chiếm các đất của rợ
Di, phía Tây nam như Vân-nam, Quế-châu và Tứ-xuyên bây giờ, trong đó có Miêu
tộc ở Quảng-tây. Năm 41 vua Quang-vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mă Viện (Ma-yuan)
sang đánh dẹp cuộc nổi loạn của Hai bà Trưng ở quận Giao-chỉ, rồi dựng cột
đồng ở biên giới. Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một trận càn quét
cuộc nổi loạn của Miêu tộc ở phía nam Hồ-nam, và tướng già Mă Viện đă chết
cùng với trên 2 vạn quân v́ bệnh ôn dịch trong khi hành quân.
Nhà Đông Hán đă trả thù rất khốc liệt
bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc và đốt phá các làng mạc người Hmong
trong vùng liên tục tṛn 3 năm cho đến đời Chiêu-đế mới nới lỏng, nhưng đă
không tiêu diệt được tinh thần tự cường của Miêu tộc.
Đến thời Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô: Wei,
Shu Han, Wu) th́ người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ phần lớn đất Hồ-nam và
Quế-châu, lại c̣n có ảnh hưởng đến tận mạn nam của Hồ-bắc, rồi theo sông Hán
đến tận mạn bắc. Họ c̣n cố quay về chốn cũ ở Hà-nam, Sơn-tây và lan đến phía
đông An-huy.
Sau đời Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316)
th́ nước Tầu suy yếu, rơi vào hỗn loạn của thời Nam Bắc triều (Nan Bei) (hay
c̣n gọi là Lục triều: 317 - 589) th́ khoảng từ 403 đến 561 đă có đến hơn 40
lần người Hmong nổi dậy để đ̣i độc lập, cùng với những sắc tộc khác ở khắp
nơi mà sử Tầu gọi là Loạn Ngũ hồ (Hung-nô, Yết, Tiên-ti, Chi, Khương).
Đến giữa thế kỷ thứ 6, người Hmong đă
thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá rộng ở phía tây Trung quốc kéo dài
từ Hà-nam, qua Hồ-bắc, Hồ-nam xuống đến Quảng-tây, có thể lẫn lộn biên cương
giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ
được các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc triều mua chuộc, lôi kéo, nên
một số danh sĩ được tiến cử vào các triều. Nhưng thời gian vui hưởng này
không kéo dài được lâu v́ đến khi Lư Uyên thiết lập nhà Đường (T'ang: 618 -
907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589 - 618), th́ bắt đầu đánh dẹp và thu hồi
đất đai đă mất vào tay các rợ, trong đó có Hmong. Đổi lại, nhà Đường cho các
vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho triều đ́nh. |
Chấm dứt một thời oanh liệt
|
Đến năm 907, nước Tầu lại bị loạn lạc
với thời kỳ Ngũ đại (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu) và Thập quốc (907 - 960),
nhà Hậu Chu cố đánh lấy vương quốc Hmong. Đến khi nhà Tống tái thống nhất
Trung quốc (Sung: 960-1279), lại cử binh giành lại các đất vùng Hồ-bắc và
Hồ-nam. Trong các cuộc giao tranh toàn bộ vương triều của Hmong bị tiêu diệt,
và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời vàng son của bộ tộc Miêu.
Truyền kỳ c̣n được kể lại giữa người
Miêu về những ngày bi thảm đó như sau: Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy
giờ, đă già và mệt mỏi v́ chiến trận, giàn quân kháng cự quân Tống. Con
gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao Shing cũng cùng xông pha trận tuyến với
cha. Nàng không những xinh đẹp mà c̣n học được phép lạ với lá cờ thần bí,
khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân Tống.
Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching)
cầu ḥa với điều kiện là Miêu tộc phải trao lá cờ phép cho họ. Triều thần
người Miêu họp bàn và sợ rằng người Hoa bày quỉ kế, nên trao một lá cờ giả.
Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua Tống, nhưng khi thử với lửa th́ biết là
không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử h́nh nhưng nhờ
triều thần can gián cho đoái công chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ giả làm
môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp thuận
nhưng Ngao Shing th́ nhất định cự tuyệt, liền bị vua cha bạc đăi đến chết.
Nàng qua đời th́ cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể
tiêu diệt được triều thần Hang Tchu.
Người Hmong lại phải chạy trốn vào
vùng Quế-châu và Tứ-xuyên; số khác lại tẩu táng xuống Quảng-đông và
Quảng-tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai trị người Hoa lại c̣n
chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y phục có màu khác
nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và xanh. Mỗi
nhóm lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương (kiatong). Tuy
vậy họ vẫn luôn t́m cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù chung là
Hoa tộc.
Có một bài phóng sự trong nước mới đây
mô tả về trang phục của phụ nữ Mông một cách khá thơ mộng, xin được trích
dẫn nguyên văn như sau:
"Họ cư trú trên các thung lũng của
miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi dốc, ở độ cao một
ngàn ta bắt gặp những bản làng của người Mông, bốn mùa mây mù, sương phủ.
Bao quanh những bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng cỏ, những dăy
đồi trọc trơ sỏi đá, với những con đường ṃn vừa đủ cho người địu gùi, cho
ngựa thồ nằm vắt ḿnh qua các triền núi cheo leo.
Giữa khung cảnh tịch mịch hoang vu ấy,
du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Mông đi chợ, bộ trang phục
nữ với váy, áo, khăn, ṿng, ô sặc sở, lóng lánh ṿng khuyên, nổi bật lên
giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và
ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày, Nùng,
Dao ...vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Mông: Đây là cô gái Mông Trắng mặc
váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô
gái Mông Hoa, váy xếp nếp x̣a đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai,
ở ngực, c̣n mang trên ḿnh khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Mông Đen quấn
vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ,
làm mỗi bước đi rung lên thành nhạc, c̣n cô gái Mông Lai trong tiết rời se
lạnh sặc sỡ một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống." ...
Trở lại câu chuyện gốc gác người
Hmong ở Tầu th́ sau khi bị phân tán vào các vùng cao nguyên và rừng rậm,
người Miêu tạm sống yên ổn bởi nhà Tống bận rộn trong việc chấn hưng nền
kinh tế và giao thương của Trung quốc mà xao lăng quân sự đưa đến việc rợ
Khế-đơn (Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn Tây bắc và rợ Tiên-ti
(Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang bắc, Ninh-hạ và
Cam-túc. Từ đó nước Tầu lại can qua giữa 3 nước.
Những năm về sau ở nước Liêu, Măn-tộc
bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước Đại-Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 -
1234). Tống Hy-tông liên kết với Đại-Kim để diệt Liêu, rồi nhà Tống quá suy
yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy, giống Mông-cổ phát triển hùng
mạnh với Thành-cát-tư-hản (Genghis Khan) khởi binh chiếm nữa phía bắc nước
Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung Á và tàn phá vùng Nga-la-tư.
Khi quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ vào năm 1224, chọn
Yên-kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm kinh đô, xưng là
Nguyên-thái-tổ.
Sau khi Thành-cát-tư-hản mất năm 1227,
th́ con là Oa-khoát-đài hay A-loa-đài (Ogadai) thôn tính trọn nước Kim năm
1234 và khủng bố đến tận vùng Trung Âu. Sau khi Oa-khoát-đài mất, Mông-kha (Mongke)
lên ngôi một mặt tiếp tục tàn phá châu Âu và mặt khác sai cháu cuả
Oa-khát-đài là Hốt-tất-liệt (Kublai Khan) cử binh đánh và diệt nước Đại Lư,
hậu thân của nưuớc Nam chiếu (ở vùng Vân-nam bây giờ) vào năm 1253, rồi tiến
đánh nhà Nam Tống và nước An-nam. Khi Hốt-tất-liệt đánh vào Quế-châu,
Tứ-xuyên, quân Mông-cổ đă không tiến sâu vào vùng cao nguyên cho nên Miêu
tộc không bị sát hại nhiều.
Khoảng từ năm 1267 đến 1279
Hốt-tất-liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông-kha mất, liền lên ngôi xưng
hiệu là Nguyên-thế-tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan: 1279 - 1368) ở Trung- quốc.
Vua Tống Cung-đế và các đại thần phải nhảy xuống biển tự vận.
Đến năm 1368 Châu Nguyên Chương (Zhu
Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi lên đánh đuổi được quân Mông-cổ lập nên
nhà Minh (Ming: 1368 - 1644). Nhà Minh lại nhắm vào Miến-điện như là cửa ngơ
buôn bán với vùng Đông-nam Á, nên quyết b́nh định vùng Vân-nam. Trước tiên
họ đặt ra hệ-thống thổ-ty (Tu Si system) và ưu đăi nhóm người Lô-lô mà đàn
áp người Miêu đẫn đến việc người Miêu thường xuyên nổi dậy. Năm 1459 quan
quân nhà Minh đă thiết lập hơn 2 ngàn đồn biên pḥng tại Quế-châu, Tứ-xuyên,
để từ đó liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá làng mạc và căn cứ địa của
người Miêu, và tàn sát đến hơn 40 ngàn người.
Từ đó cho đến cuối thế kỷ thứ 16,
không năm nào mà người Miêu không vùng lên đ̣i độc lập, và tung hoành một
cơi từ Quế-châu đến tận Hồ-nam. Để ngăn chận họ, nhà Minh cho xây một trường
thành nhỏ giống Vạn-lư trường-thành gọi là Miêu Thành cao 8 bộ và kéo dài
hằng trăm dặm ở biên giới Hồ-nam và Quế-châu. |
Năm 1616, người Măn-châu là hậu duệ
của nước Kim lại bắt đầu cường thịnh, Nỗ-nhỉ-cáp-xích quật khởi ở miền
Liêu-ninh xưng là Thái-tổ và đặt tên nước là Hậu Kim, đặt đô ở Thẩm-dương
chống lại nhà Minh. Năm 1636, Hoàng-thái-cực kế vị vua cha, đổi tên nước là
Đại Thanh đi chinh phục Triều-tiên, Nội Mông-cổ và miền Đông-bắc của Minh
triều và đến năm 1644 th́ Thuận-trị dứt được nhà Minh, thiết lập Thanh triều
ở Trung-quốc (Ch'ing hay Qing: 1644 - 1911).
Tàn quân nhà Minh kéo nhau tị nạn sang
Nhật-bản và Việt-nam. Một số khác do Hoàng Minh và Mă Báo bỏ Quảng-tây trốn
vào Quế-châu cốt t́m đường sang Vân-nam. Để đền ơn cưu mang của Miêu tộc,
Hoàng Minh giao lại cho họ toàn bộ vũ khí và c̣n bày cho cách chế tạo súng
hỏa mai mà ngày nay người Miêu vẫn c̣n sử dụng.
Sự kiện này đă làm cho nhà Thanh thêm
lo ngại, nên năm 1727, Thân vương Oa-đài (Ortai), thống đốc Quế-châu mở
chiến dịch càn quét, sai tướng Dương Quang Sĩ (Zhang Kwang Si) tấn công vào
Quí-dương (Guiyang) là thủ phủ rồi vào Liễu-b́nh (Lip'ing). Quân Hmong đông
đến hơn 10 ngàn người trang bị đầy đủ vũ khí với súng hỏa mai và đại bác
nghênh chiến. Tổn thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng quân Thanh thắng thế,
tịch thu tất cả vũ khí của người Miêu đúc thành một trụ tượng kỷ niệm chiến
thắng bằng sắt cao 11 bộ dựng ở một ḥn đảo trên sông Liên, cửa vào
Quí-dương.
Để trả thù, quân Miêu kéo từ núi xuống
tàn sát dân ở 4 thị trấn ven sông. Nhà Thanh phải đem viện binh từ các tỉnh
lân cận đến tấn công vào cứ điểm của người Hmong từ ba mặt. Quân Miêu vỡ, số
thua trận đầu hàng đều bị giết sạch. Điều này làm cho các bộ lạc Miêu rút
vào rừng sâu và liên kết dựng những hỏa đài báo hiệu sự tiến công của quân
Thanh trên các sườn núi. Di tích của những hỏa đài này hiện vẩn c̣n. Quân
Miêu nổi loạn cắt máu ăn thề kháng cự đến chết. Họ c̣n giết hết vợ con để
khỏi phải bận tâm luyến ái. Họ phản công điên cuồng chẹn các đèo vào núi,
làm cho cả Bắc-kinh lo lắng.
Dương Quang Sĩ được cử thay Oa-đài ra
sức giải tỏa hết các chốt và cắt đường tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ
đói khát phải mở đường máu. Hai mươi ngàn quân Miêu bị giết trên chiến
trường. Khoảng hai mươi bảy ngàn khác bị bắt và một nửa số bị sát hại sau đó.
Tổng số súng dài tịch thu lên đến gần 50 ngàn khẩu. Dương Quang Sĩ c̣n khủng
bố dân lành, cướp phá hơn 20 ngàn làng mạc của người Hmong, tước đoạt đất
đai của họ. Dân Miêu lại phải trốn chạy vào các vùng lân cận để thoát thân,
một số vượt biên giới vào miền bắc Việt-nam, định cư ở Đông Quan và núi
Hoàng Su-Phi. Tuy vậy số người Hmong c̣n ở lại vẫn chưa chịu hoàn toàn khuất
phục, thỉnh thoảng vẫn t́m cách nổi dậy.
Đến năm 1740, đời Ung-chính, nhà Thanh
ra lệnh dẹp bỏ hệ thống thổ-ty mà đặt quan trực tiếp cai trị vùng Tứ-xuyên,
Quế-châu, Vân-nam, Quảng-tây cốt để đồng hóa họ và khai thác các quặng than,
bạc và đồng cũng như lâm sản trong vùng. Nhà Thanh cũng gia tăng thuế má làm
cho nhiều nông dân người Miêu điêu đứng, khiến họ nổi dậy không ngừng.
Năm 1796 người Miêu lại tập hợp đủ
mạnh dưới sự lănh đạo của 2 tù trưởng là Thỉ Sanh Báo và Thỉ Liêu Đăng (Shih
San-Pao và Shih Liu-teng) ở biên giới Quế-châu, Hồ-nam để khủng bố nông dân
người Hoa vốn do Thanh triều di dân đến dưới mỹ danh là "khách trú" và được
quân đội bảo vệ. Bắc-kinh phải vội tăng viện để dập tắt cuộc bạo loạn, và
chiến dịch kéo dài đến 13 năm mới xong. Quân Thanh tái thiết bức Miêu Thành
từ lâu đă bị bỏ hoang và tăng cường thêm quân bố pḥng để kiểm soát chặt chẽ
những hoạt động của người Hmong và quyết tâm đồng hóa họ. Người Thanh c̣n
bắt trẻ con Miêu phải theo học chữ Hán và Hoa tộc được quyền cưới phụ nữ
Miêu.
Nhiều nhóm Miêu không chịu đựng được
sự áp bức đành phải trốn sâu hơn vào rừng ở những tỉnh lân cận. Vài nhóm
Miêu đen kéo xuống vùng nam của Hồ-nam và bắc của Quảng-tây, Miêu trắng dời
về phía bắc vào vùng Tứ-xuyên, và Miêu hoa trốn về phía tây vào vùng Vân-nam.
Lúc bấy giờ ở vùng Vân-nam, vốn xưa là
nước Đại Lư đă có giống người Hản (Haw) cư ngụ. Họ là người theo đạo Hồi có
liên hệ với người Panthay ở Miến-điện, chuyên về buôn bán thương măi. Họ
thường bị quan lại nhà Thanh khinh miệt và kỳ thị cho nên cũng đă nổi dậy
nhiều lần đ̣i độc lập, như vào các năm 1818, 1826 và 1834 nhưng lần nào cũng
bị đàn áp tàn bạo. Nhưng từ năm 1855 cho đến 1873 người Hản vùng dậy và làm
chủ được toàn vùng dưới sự lănh đạo của Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) v́ nhà
Thanh c̣n bận đương đầu với loạn Thái-b́nh (Taiping) ở trung thổ. Trịnh
Chiếu tuyên bố Vân-nam là một nước Hồi giáo độc lập cho đến khi nhà Thanh
rảnh tay quay lại tái chiếm. Người Hmong cùng tham gia với người Hản nổi dậy
nên cũng chịu chung số phận bị tàn sát dă man. Người ta ước tính có đến cả
triệu người Vân-nam thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại. Thế là người Hản
và người Miêu lại kéo nhau tràn vào Miến-điện và Đông dương lánh nạn. Nhóm
đến Việt-nam lần này đông khoảng 6 ngàn người kéo vào Đồng Văn ở gần biên
giới. |
Trước đấy từ năm 1815 đến 1818 đă có
người Miêu chạy thoát đến cư ngụ ở Đồng Văn. Sau đó một nhóm tách ra di dân
đến vùng bắc của ngọn núi Fan Si Pan, rồi bỗng dưng vài năm sau không ai t́m
thấy dấu vết của họ đâu nữa, làng mạc bị bỏ hoang.
Câu chuyện thật ra rất ly kỳ có liên
quan đến một tay buôn nha phiến người Tầu tên là Tôn Mă. Nhân một chuyến ghé
qua Fan Si Pan để thu mua thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về một vùng
đất hoang mầu mỡ ở dăy núi Xieng Khoảng phía đông nước Lào. Thực ra th́ y
chỉ muốn thủ lợi riêng bởi v́ người Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha
phiến để bán lại. Trong chuyến buôn kế tiếp y hướng dẫn một nhóm người Miêu
tiên phong được "tiểu vương" (kiatong) Lo See Pa giao cho Kue-Vue cầm đầu,
t́m đến vùng gần Nong Het. Khu đất rừng thật là ph́ nhiêu, thế là trong ṿng
vài năm, họ di dân đến đấy và thiết lập làng mạc xung quanh Nong Het và để
tri ân kẻ chỉ đường, họ đặt tên con sông chảy qua là Tôn Mă.
Họ sống yên ổn ở vùng đất mới được vài
năm th́ Lo See Pa bị bọn cướp người Hoa giết chết trong một trận tấn công
vào làng không thành cốt để đoạt nha phiến. Kẻ kế vị là Lo Sue Xia vẫn thuộc
gịng họ Lo. Truyền thống này vẫn được duy tŕ vài thập niên măi đến khoảng
1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm họ Lư và nhóm họ Moua xuất hiện.
Nhóm người Miêu họ Lư, lănh đạo bởi Lư
Nghia Vue vốn ở nước Đại Lư xưa kia bị quân Thanh truy kích trong vụ nổi dậy
cùng với người Hán, kéo nhau đến Nong Het lánh nạn cùng với nhóm họ Moua cầm
đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ nhiên là họ không chịu thần phục gịng họ Lo, và
vẫn giữ nguyên tiểu vương của họ. Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được tôn kính hơn
cả.
Cùng đợt tị nạn từ khi vùng Vân-nam bị
thất thủ vào năm 1860 và loạn Thái-b́nh bị đập tan vào năm 1863, một khối
lượng đông đảo người từ Trung-quốc tràn xuống Việt-nam, trong đó có cả Miêu
tộc. Bọn họ là đám tàn quân nên c̣n mang theo vũ khí, đi cướp phá mạn thượng
du Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bá, miền bắc nước ta dưới triều Tự Đức, nên sử
ghi là giặc khách. Mạn Tuyên-Quang có Nông hùng Thạc, mạn Cao bằng có Ngô
Côn và Lư hợp Thắng chiếm tỉnh lỵ năm 1865. Về sau có dư đảng là bọn Hoàng
sùng Anh, hiệu cờ vàng và Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, hiệu cờ
trắng cùng với giặc biển tên Phụng liên tục quấy phá khắp nơi ở miền Bắc .
Lúc bấy giờ t́nh h́nh nước ta thật
điêu đứng với giặc ngoại xâm, trong nam th́ đă bị quân Pháp chiếm, mà chúng
c̣n đang hăm he đặt nền bảo hộ và đánh Bắc kỳ. Ngoài bắc th́ đám giặc khách
uy hiếp làm quan quân ta chống đỡ không nổi. Riêng giặc ở thượng du đă có
lúc tràn xuống tận Yên Bái vùng đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức phong cho
Nguyễn Tri Phương làm Tây-bắc tổng-thống quân-vụ đại-thần đốc thúc việc tảo
trừ, năm 1863 quân ta tái chiếm thành Tuyên-Quang. Miêu tộc rút lui về Quảng
Bá.
Tại núi Phước ở Quảng Bá lại xuất hiện
một thủ lănh người Miêu tên là Xiong, với tài nhào lộn và phi thân rất giỏi,
tự xưng là tân vương của Miêu tộc. Các sắc dân thiểu số khác trong vùng như
Mán và Nùng cũng thần phục y, gây một thế lực rất lớn. Chỉ trừ giống Thổ là
chống đối. Y xây lâu đài, dựng triều đ́nh, lập quân đội, làm vũ khí với súng
hỏa mai. Xiong liền đem quân tấn công tàn phá Làng Dận và vùng cư dân lớn
hơn khác của người Thổ gần Quảng Bá. Chiến thắng này làm tăng thêm uy danh
của Xiong. Trong ṿng 12 năm sau, y giao việc hành quân cướp phá các vùng
lân cận cho thuộc hạ, c̣n y th́ chỉ vui hưởng tại cung điện mà thôi.
Sau khi Xiong chết v́ ám sát th́ vương
quốc của y cũng tan ră, kẻ kế vị là Cha Shue, một tù trưởng ở dăy núi Hoàng
Su Phi. Vùng y tự trị nằm vắt qua hai biên giới Việt-Hoa, và vào năm 1894 y
c̣n được Thanh triều phong cho chức thổ-ty. Người Pháp lúc bấy giờ đă chiếm
Việt-nam làm thuộc địa cũng để yên cho Cha Shue, v́ họ cần người Miêu cung
cấp gỗ độc quyền cho họ. Về sau Cha Shue c̣n gây thế lực bằng cánh đánh thuế
trên số gỗ bán cho người Pháp. Uy tín của Cha Shue c̣n được truyền tụng ở
Nong Het. |
Người Hmong ở Lào và thuốc phiện
|
Sau khi định cư ở Lào, người Hmong
lại phải ác chiến với người Khạ ở vùng Xiêng Khoảng vào nửa cuối thế kỷ thứ
19. Người Khạ hay c̣n gọi là người Kh'mu vốn là cư dân lâu đời tại Lào, có
thể từ thế kỷ thứ 5; ban đầu họ là phiên bang của nước Phù-nam (Funan), sau
lại lệ thuộc vương quốc Chân-lạp (Chenla), và rồi Khmer.
Vào thế kỷ 13 và 14, khi nước Nam-chiếu
bị người Mông-cổ diệt, bộ tộc Lào và Tày di dân qua đất hạ Lào trở nên đa số
và thiết lập vương quốc độc lập Luang Prabang. Từ đó người Khạ bị người Lào
khinh miệt và bị bạc đăi tàn tệ, phải sống ở vùng thượng du.
Khi người Hmong định cư ở Xieng Khoảng,
người Khạ bắt họ phải cống nạp nông sản và súc vật. Nhưng đến khi biết người
Hmong c̣n sống sung túc bằng nghề trồng trọt nha phiến người Khạ lại đ̣i hỏi
thêm thuốc phiện. Điều này đă đưa đến chiến tranh và người Khạ bị thua trận
phải kéo chạy về vùng núi gần Luang Prabang.
Thị trường nha phiến trên thế giới
khởi phát từ Á-châu bởi đế quốc Anh và Pháp vào đầu thế kỷ 19 đă giúp cho
người Hmong đóng một vai tṛ quan trọng trong việc sản xuất chất thô. Bọn đế
quốc lại dùng số lợi nhuận khổng lồ để tái tài trợ cho những âm mưu bành
trướng thế lực và cai trị thuộc địa. Cuối thế kỷ 19 khi quốc hội Anh thông
qua đạo luật ngăn cấm chính phủ tham gia th́ Pháp độc quyền thị trường ma
túy. Chính v́ nguồn lợi này mà Pháp đă thôn tính luôn cả Cam Bốt và Lào để
có đường thông thương với thượng du Vân-nam. Ngay cả sau khi Pháp bị đánh
bật ra khỏi Đông Dương vào 1954, ảnh hưởng của họ trên thị trường ma túy vẫn
không giảm, và chính tập đoàn buôn lậu đă mua chuộc và làm thối nát chính
quyền miền Nam để bọn họ dễ dàng làm ăn, và chắc chắn là bọn họ cũng lũng
đoạn chế độ hiện nay tại Việt-nam. Cuối năm 1960, người ta ước tính là nông
dân người Hmong ở Lào đă cung cấp khoảng 70% nhu liệu cho thị trường ma túy
của thế giới.
Khi người Pháp đô hộ Lào từ năm 1893,
họ dùng người Lào và Tày cai trị dân miền núi cho nên đă xảy ra khá nhiều
chuyện bóc lột hà hiếp dân Miêu với thuế khóa nặng nề trên nông sản nha
phiến. Năm 1896 người Pháp lại tăng thuế và đ̣i trả một phần bằng thuốc
phiện, làm cho Miêu tộc nổi loạn, họ gọi người Pháp là Fa-ki theo âm của
người Tầu là Pháp quỉ (Fa kouie). Lần đầu họ thành công khi tấn công đồn
lính tây ở Ban Khang Phanieng, nhưng lại đại bại ở lần thứ hai khi đánh vào
tiểu khu Xieng Khoảng. V́ vậy tiểu vương họ Lo bị truất phế và được thay vào
bởi họ Moua, tên Tong Ger. Tân tiểu vương liền xin ḥa đàm với nhà cầm quyền
thuộc địa tại Bản Ban để được giảm bớt thuế, và sự giao thiệp giữa Pháp và
người Hmong bớt căng thẳng. |
Năm 1870, dư đảng của giặc Thái-b́nh
ở Trung-quốc sau khi tràn vào Việt-nam, chia làm hai phe Cờ vàng ở
Tuyên-quang và Cờ đen ở Lào-kay chống chọi nhau ở mạn thượng du. Đến năm
1875 giặc cờ vàng bị dẹp tan. C̣n Lưu hữu Phúc đầu đảng Cờ đen xin thần phục
triều đ́nh nhà Nguyễn rất sớm. Vua Tự-Đức phong cho Phúc làm đề đốc, và khi
quân Pháp dưới quyền của Đại úy Hải quân Francis Garnier đánh thành Hà-nội,
Garnier đă bị quân của Lưu hữu Phúc phục binh giết chết tại Cầu Giấy năm
1873.
Âm mưu của Pháp muốn chiếm Bắc-kỳ vẫn
không phai, nên đầu năm 1882 Đại-tá Hải-quân Henri Riviere được lệnh đem tàu
chiến ra đánh chiếm thành Hà-nội lần thứ hai, thừa thắng hạ luôn thành Nam-định
vào tháng ba, năm 1883. Nhưng đến khoảng cuối tháng 5 th́ Riviere lại bị
quân cờ đen phục ở Cầu Giấy giết chết. Quân cờ đen c̣n bêu đầu của Riviere
từ làng này qua làng khác.
Nhiều cánh quân cờ đen khác thường đem
quân sang Lào, đánh cướp nha phiến của người Hmong để mua lương thực và vũ
khí, và bắt đi đàn bà con gái cho nên Miêu tộc phải nhờ người Pháp bảo vệ.
Tháng 11, 1914 quân cờ đen tấn công đồn lính tây ở Sầm Nứa. Sau đấy tiến
đánh Phong Saly và đă đụng độ đến mấy tháng với lực lượng Hmong và Pháp,
trước khi bị bại phải tháo chạy trở về Trung-quốc.
Một thủ lănh Miêu ở Hà Giang, Việt-nam
tên Yang Yilong được tin bèn xin nhà cầm quyền địa phương Pháp trang bị vũ
khí để mở những trận du kích đuổi quân cờ đen. Từ đó mở đầu cuộc hợp tác
quân sự giữa người Miêu và Pháp, và kéo dài cho măi về sau. Để trả thù quân
cờ đen đốt phá các buôn làng của người Miêu mà họ đi qua.
Cuộc hợp tác giữa người Miêu và Pháp
cũng chẳng mấy êm trôi khi chính quyền thuộc địa lại tăng thuế vào năm 1914,
gánh nặng bất công đè trĩu trên vai người Hmong. Đă vậy thực dân Pháp lại
quyết định mở những trục lộ giao thông giữa Việt-nam và Lào chạy qua Xiêng
Khoảng và Phong Saly, và bắt dân Hmong đi làm phu, làm cho việc mùa màng bị
đ́nh trệ càng thiếu tiền đóng thuế. Nhiều làng kéo nhau trốn vào rừng sâu.
Năm 1917, phụ tá của kiatong Moua Tong
già nua là Lo Bliayao lại tham nhũng bóc lột phu phen người Miêu đă đưa đến
sự nổi dậy. Bliayao lại cậy vào quân địa phương của Pháp để đàn áp. |
Trong khi đó ở buôn làng người Miêu
trong vùng Điện-biên-phủ xuất hiện một thủ lănh tên là Chay Pa, gốc gác từ
Vân-nam, biết nói và viết ba thứ tiếng Hoa, Lào và Việt, rành ma thuật, cầm
đầu người Miêu chống lại ngươi Tày vốn đàn áp họ, và xúi dục người Miêu
không đóng thuế. Quân Pháp được gởi từ Sơn La đến để truy lùng Chay Pa,
nhưng thường bị tập kích. Nhưng đến năm 1919, Chay Pa yếu thế phải rút quân
sang Xieng Khoảng và hô hào người Hmong đứng lên chống Pháp để lập một vương
quốc độc lập với kinh đô là Điện-biên-phủ. Chay Pa được sự hưởng ứng của
người Miêu ở Xieng Khoảng nổi lên đánh phá các căn cứ của lính thuộc địa. Họ
c̣n ám sát hụt tên Lo Bliayao làm tên này càng hợp tác với Pháp chặt chẻ hơn.
Nhà cầm quyền thực dân Pháp tăng phái quân chính qui từ Việt-nam sang, và áp
dụng kế sách ấp chiến lược cô lập quân nổi dậy. Chiến lược này lần hồi thành
công và khiến loạn quân tan ră, nhưng quân Pháp vẫn treo giải cho đầu của
Chay Pa. Y rút vào rừng sâu sống với vài bộ hạ thân tín nhưng lại bị theo
dơi và bị ám sát vào tháng 11, năm 1922. |
Sau vụ nổi dậy bất thành của Trịnh
Chiếu ở Vân-nam, Tứ-xuyên, người Hản và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó
có một người họ Lư đến được Nong Het năm 1865. Y lập gia đ́nh và có 3 con;
trong số có cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái của Lo Bliayao tên
May. Hai người có 2 đứa con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy
thêm vợ bé, và May buồn rầu tự vận. Điều này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo
và Lư trở nên căng thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ quan Pháp can thiệp, và
để tránh rắc rối nhà cầm quyền liền chia cho họ Lư cai quản Miêu tộc vùng
Keng Khoai và họ Lo xem vùng Phac Boun. Năm 1935 Lo Bliayao qua đời, con là
Tou Song thay thế chức kiatong.
Cùng năm này người Hmong lần đầu theo
học trường tiểu học của Pháp mở tại Xieng Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lư và
Moua đều cho con đi học để hy vọng tranh dành ngôi thứ chính trị về sau.
Theo thời gian, Touby Lư đỗ xong trung học và theo học trường Hành chánh mở
tại Vientiane.
Lo Tou Song ít học lại ham mê cờ bạc
nên thâm lạm công quĩ rất phật ḷng quan cai trị người Pháp. Nhưng Lư Foung
lại khôn khéo đem tiền của ḿnh đền bù giùm nên được ḷng tin của quan bảo
hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai tṛ chính trị xán lạn của đứa con trai Lư
Touby đă được dọn sẳn. Đến khi người Pháp sa thải Tou Song khỏi chức kiatong
ở Phac Boun, Touby liền được thay thế. Nhưng người em của Tou Song là
Faydang rất lấy làm bất b́nh sinh oán hận Touby, khiếu nại đến hoàng thân
Phetsarath ở Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn át.
Sau khi ra trường Hành chánh, với chỗ
đứng vững chăi trong guồng máy chính trị, uy thế của Touby càng gia tăng. Y
đă dùng sản lượng nha phiến do người Hmong trồng trọt để làm áp lực với
người Pháp, v́ Pháp đang muốn chiếm độc quyền thị trường thế giới lúc bấy
giờ. Y c̣n thuyết phục người Pháp nâng cao vai tṛ của người Hmong trong xă
hội Lào.
Đến năm 1949 Trung-quốc hoàn toàn do
đảng Cộng sản thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến ở Vân-nam và biên
giới Miến điện vốn nằm dưới sự cai quản của tàn dư quân đội Quốc dân đảng bị
cắt đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản lại quá đắt, cho nên Pháp tận
dụng nguồn nha phiến của người Hmong để chiếm lĩnh thị trường. Năm 1953 Liên
hiệp quốc kư công hàm chấm dứt việc các chính phủ tham gia buôn bán nha
phiến, dẫn đến thị trường chợ đen. Sản lượng càng gia tăng và lợi nhuận càng
cần thiết cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông dương v́ chiến tranh leo
thang. |
Hợp
tác với Pháp chống Nhật
|
Khi nước Pháp bị Đức Quốc Xă cai trị
vào năm 1940, quân Nhật liền chiếm đóng Đông Dương. Toàn quyền Decoux được
Nhật để yên tiếp tục phụ trách hành chánh, đă ra lệnh quân Pháp không kháng
cự. Nhưng đến tháng 8 năm 1944, khi Paris được giải phóng th́ cuộc diện liền
thay đổi. De Gaule vội tiến hành kế hoạch phản công ở Đông Dương. Tháng 11,
quân biệt động Pháp được thả dù xuống Cánh đồng Chum để lập khu kháng chiến.
Không quân Mỹ lại dội bom các hải cảng ở Việt-nam.
Tháng 3, 1945 Nhật liền đảo chánh và
ra lệnh tước khí giới của quân Pháp ở Đông Dương. Tuy vậy Pháp vẫn âm thầm
tăng phái quân nhảy dù từ Ấn-độ vào thượng Lào với sự bao che của người
Hmong. Khi Nhật biết có sự dính líu của người Hmong vào kế hoạch bí mật cuả
Pháp, họ liền bắt Lư Touby và định đem xử bắn, nhưng nhờ giám mục Mazoyer ở
Vientiane can thiệp nên được tha. Chẳng sờn ḷng, Touby liền liên lạc với
Đại úy Bichelot, chỉ huy quân biệt động Pháp để hợp tác chống Nhật.
Việc này làm cho quân Nhật điên cuồng,
họ liên tục tàn phá các bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác với Pháp, và vô
t́nh làm cho Miêu tộc càng ủng hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người
Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác
với người Nhật truy diệt lính Pháp.
Tháng 3, 1945 người Nhật bắt giam tất
cả viên chức chính quyền thực dân Pháp ở Lào, khuyến cáo vua Vong Sisavang
tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân Phetsarath xây dựng đảng Lao Isalla (hay
Lào tự do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ vào tháng 10. Nhưng đội biệt
động Pháp ra tay tấn công Luang Prabang, chiếm hoàng cung và ép vua Lào
tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước hết quyền của Phetsarath. Đảng Lao Isalla
cầu cứu với Việt minh, cùng với nhóm Hmong của Faydang để chống Pháp, thế là
bộ đội Việt minh được chính thức mời vào lănh thổ Lào cùng với một khối cư
dân Việt. Việt minh lại c̣n tuyên bố Xieng Khoảng là một căn cứ của Việt-nam.
Tháng 11, lực lượng biệt động Pháp phối hợp với dân quân Hmong của Touby
đánh bật Việt minh ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp kết án Faydang là cộng sản, và
đến mùa hè năm 1950 Faydang gia nhập đảng Pathet Lào (Cộng đảng Lào).
Lúc bấy giờ Hoa Kỳ, là đồng minh với
Liên Xô chống phe trục, lại âm thàm liên lạc và trang bị vũ khí cho du kích
quân Việt minh để quấy phá quân Nhật ở Đông dương làm cho thế lực của Việt
minh gia tăng thêm. Đến khi Nhật đầu hàng đồng minh vào tháng 8, 1945,
Hồ-chí-Minh cướp thời cơ dành lấy chính quyền ở Hà-nội, thành lập chánh phủ
liên hiệp và tuyên bố Việt-nam độc lập. Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại
không chịu giao lại cho Pháp mà lại giao cho Việt minh.
Pháp không chịu công nhận Việt-nam độc
lập, nhưng lại mời Hồ chí Minh sang Pháp để thương thảo điều kiện để Pháp ở
lại Đông dương, và dời chuyện trao trả độc lập đến 1947 sau khi trưng cầu ư
dân. Đồng thời Pháp lại hổ trợ cho một nội các chống Việt minh được dựng lên
ở Sàig̣n, và c̣n có ư định lập một nước Nam Kỳ độc lập. Nhưng cuộc sống ḥa
b́nh gượng gạo với Việt minh không kéo dài được lâu. Tháng 11, 1946 một cuộc
đụng độ vơ trang Việt Pháp ở Hải Pḥng dẫn đến cuộc chiến tranh toàn Đông
dương.
Năm 1946, Pháp thuận cho Lào được độc
lập trong Liên Hiệp Pháp và mở cuộc bầu cử dân biểu quốc hội. Một người
trong gia đ́nh Touby đắc cử vùng Xiang Khoảng, đó là Lư Foung Toulia. Họ
tranh đấu để được đối xử b́nh đẳng như công dân Lào, và có đại diện trong
hội đồng tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha phiến Pháp đề cử Touby làm phó
tỉnh trưởng Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng của người Hmong trong
chính quyền Lào.
Việt minh cũng chú ư đến nguồn lợi nha
phiến để mua vũ khí ở biên giới Tầu. Sản lượng thuốc phiện của một tỉnh có
thể trang bị vũ khí cho một sư đoàn. Người ta ước tính là chỉ riêng năm
1947, trị giá của mùa thu hoạch nha phiến lên đến 400 triệu đồng bạc Đông
dương, gần bằng với trị giá tổng số gạo xuất cảng của toàn Đông dương cùng
năm. V́ thế Pháp đă bằng mọi giá phải kiểm soát được nguồn tài nguyên này,
năm 1948, một nghị định của Cao ủy Đông dương cho phép người Hmong hầu như
độc quyền trồng nha phiến ở Lào.
Cùng năm, Touby được đưa về Sàig̣n để
Phủ cao ủy giao công tác thành lập một lực lượng biệt động địa phương chống
Việt minh. Từ năm 1951 cho đến 1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp
cho thi hành "chiến dịch X" để tài trợ trang bị các lực lượng người thiểu
số. Phi cơ quân sự được lệnh chở thuốc phiện cuả người Hmong từ vùng đông
bắc Lào về Sàig̣n, giao cho Lê văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy giờ là Giám đốc
Cảnh sát phân phối. Qua một thời gian ngắn đó, Touby đă nhận được khoảng 4
triệu đô-la cho lực lượng người Hmong. |
Cuối năm 1950, quân Pháp không c̣n
kiểm soát nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau những trận đánh đẫm máu với
Việt-minh. Việt-minh quyết làm chủ mạn bắc là cốt mở rộng đường bộ để dễ
dàng tiếp nhận viện trợ vũ khí từ cộng sản Hoa lục, mà trước đây chỉ nhờ dân
công chuyển qua đường rừng núi.
Việt-minh mở những trận phản công lại
trùng với chiến cuộc Cao-ly, nên trước những đe dọa phối hợp của Cộng sản
quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Truman ra lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông
dương trong ṿng 4 năm lên đến 3 tỷ đô-la để tiếp tục ngăn chận Việt cộng.
Đầu năm 1950, đại tá Grall được Pháp
bổ nhiệm chỉ huy một bộ phận hoạt động bí mật mang tên là GCMA (Groupement
de Commandos Mixtes Aeroportes: Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ quan chuyên tuyển
mộ, huấn luyện và trang bị cho nhiều toán du kích người sắc tộc thiểu số
Đông dương, đặc biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần Việt nam và
Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách khu Lào. GCMA lại được điều khiển bởi
Cơ quan T́nh báo và Phản gián của Pháp ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là
qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như vậy!). Toán du kích tân
tuyển được đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để huấn luyện. Touby cũng đă
được huấn luyện tại đây để về lănh đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly,
Xieng Khoảng và Sầm Nứa.
Trinquiner quyết gấp rút thành lập
một lực lượng du kích ở tây bắc Lào để gây rối an toàn khu của Việt-minh tại
Sip Song Chau Thai, phía tây Hắc giang và gần biên giới Việt-Lào. Y chọn Lo
Quang Chao, tù trưởng Hmong ở Lào Kay sức vóc hơn người, mang bí danh là
Sô-cô-la. Đến tháng 4 năm 1952, GCMA ở Hà nội đă thả dù cho Lo 2,500 cây
súng trường để đám này kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi.
Trinquiner hài ḷng với những chiến công của Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp
Trung úy quân viễn chinh Pháp cho Lo, và truy tặng Anh dũng bội tinh bằng
cách thả dù huy chương xuống căn cứ cho Lo Quang Chao. Lo tung hoành ở vùng
biên giới Việt-Hoa một thời gian nhưng rốt cuộc bị giết chết vào tháng 8 năm
1953, và nhóm du lích của y tan ră
Tháng 4 năm 1953, Việt minh và Pathet
Lào phối hợp chia thành hai gọng ḱm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang,
Faydang có mặt ở tuyến đầu. Pháp vội xây dựng phi trường dă chiến tại Cánh
đồng Chum để tăng phái quân cơ động. Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm Hmong
thuộc cánh Touby, và nay có thêm một phụ tá trẻ Vang Pao. Pháp đă đẩy lui
được các cuộc tấn công của địch tại Lào, và Việt minh rút quân về lại Việt
nam để tập trung vào chiến dịch Điện biên phủ. |
Vang Pao và Ảnh hưởng của Chú Sam
|
Pháp bị đại bại tại Điện biên phủ vào
tháng 5 năm 1954, đưa đến hiệp định Geneva. Pháp rút lui dần khỏi địa bàn
Đông dương. Việt nam bị chia cắt thành 2 miền theo vĩ tuyến 17. Tổng thống
Hoa Kỳ Eisenhower cương quyết chận đứng sự lan tràn cộng sản ở Đông Nam Á
nên gia tăng viện trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước Thái lan, Nam Việt
và Lào. Hoạt động của CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để khuynh đảo
các chính quyền địa phương, và đă đi vào con đường mà GCMA đă vẽ ra.
Quân Bắc Việt chỉ rút về một số, nhưng
phần lớn ở lại Lào để gây dựng quân đội Lào cộng (Neo Lao Hak Sat ), đưa đến
việc tranh dành quyền lực với Hoàng gia Lào. Năm 1957, Lào cộng được tham
gia vào chính phủ liên hiệp Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài được 8 tháng khi
phe hữu làm đảo chánh và bắt giam đại biểu của Pathet Lào. Quân độ Bắc Việt
liền chiếm hết những tỉnh của Lào chạy dọc theo đường ṃn Hồ-chí-Minh, và
yểm trợ cho quân Lào cộng trong cuộc nội chiến. Hoa Kỳ hậu thuẩn phe Hoàng
gia.
Cuối năm 1960, đại úy Kong Le của Quân
đội hoàng gia, tự cho ḿnh là trung lập, làm đảo chánh với kỳ vọng chấm dứt
được cuộc nội chiến, đă ra lệnh cho các lực lượng ngoại quốc phải rút ra
khỏi lănh thổ Lào. Chỉ vài tháng sau, cánh hữu được CIA ủng hộ lật đổ Kong
Le, làm cho phe trung lập phải liên kết với Pathet Lào, lại đưa Lào vào
chiến tranh.
Dù phe hữu nắm quyền ở Vientiane,
nhưng luôn thất bại ở chiến trường, nên đến tháng 7 năm 1962, một chính phủ
liên hiệp khác được thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana Phouma
lănh đạo. Phe cộng không chịu đựng được sự khuynh đảo trắng trợn của Hoa Kỳ
vào chính trường Lào, bất lợi cho họ nên đă rút vào rừng tiến hành vũ trang
với sự tiếp tay của quân Bắc Việt. Cuộc chiến giằng co măi làm Hoa kỳ sốt
ruột, quyết định dội bom ồ ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho đến
1972, nhưng chẳng làm nghiêng được cán cân.
Đến cuối năm 1972, Mỹ quyết định rút
khỏi Lào và cả Đông dương. Thủ tướng Souvana Phouma vội thương thảo với
Pathet Lào để thành lập chính phủ liên hiệp trong thế yếu vào ngày 21 tháng
2 năm 1973. Phe Pathet Lào t́m mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh lại bộc
phát từ 1974 cho đến 1975. Tháng 3 năm 1975 Pathet Lào và quân Bắc Việt mở
các cuộc tấn công cuối vào các cứ điểm của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến
thắng hoàn toàn của phe cộng vào tháng 8. Tháng 12, nước Cộng ḥa Dân chủ
Nhân dân Lào được thành lập do Souvanouvong làm chủ tịch, và bải bơ chế độ
quân chủ ở Lào.
Trong cuộc chiến ở Lào, phe có tử vong
cao nhất lại là người Hmong, có lẽ đến 1/3 dân số Miêu tộc, và 1/2 số trai
tráng trên 15 tuổi đă bị hy sinh. Số phận của họ đều nằm trong tay một người
phụ tá của Ly Foung Touby vốn là một cậu bé chạy giấy cho lính biệt động
Tây, rồi lên chức đội c̣ và theo thời gian với chiến cuộc gia tăng đă leo
lên đến cấp tướng trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang Pao. |
Đọc lịch sử nổi trôi của một bộ tộc
suốt mấy ngàn năm, đă từng một thời chen vai thích cánh với các sắc dân khác
ở Trung quốc. Nhưng đă không may thất thổ rồi mai một trước tham vọng bành
trướng của Hoa tộc mà trở nên một sắc tộc miền núi, sống đậu vào các nước
khác ở Đông Nam Á. Luật đào thải tự nhiên luôn luôn là nguyên lư. Mạnh được
yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, nước lớn luôn t́m cách thôn tính nước bé. Một
khi sức tự cường của một dân tộc không c̣n th́ sự tồn vong chắc là chóng mai
một.
T́m hiểu lịch sử để chúng ta phải
thấm sâu ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng Lạc, qua bao đời đă không chịu khuất
phục trước mọi kẻ thù của dân tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay tinh
vi hơn ngụy trang dưới nhiều lớp áo vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để xâu
xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua
bao đời đă kiên cường liên tục đánh đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm lần để
cho con cháu vui hưởng độc lập. Hậu duệ có quên được điều đó chăng?
Trần Trúc-Lâm
Tháng Giêng, 1999
Mùa Giổ Tổ Hùng
Vương
|
1. Cultural Atlas of China, Caroline
Blunden, Mark Elvin - Facts on File, Inc. N.Y. 1983.
2. A Short History of the Chinese, Mary
A. Nourse - 3rd Edition, The New York Library,
N.Y. 1943.
3. Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh - Xuất
Bản Bốn Phương, 1942.
4. Hmong - History of a People, Keith
Quincy, EWU Press, 2nd Edition, 1995.
5. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim -
CSXB Đại Nam tái bản 1971.
6. Microsoft Encarta 97 Encyclopedia CD,
Microsoft Corporation. |
|