|
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (12):
Lạc Việt từ xứ Mân
Nguyên Nguyên
E-Mail:
nguyennguyen@khoahoc.net
06 tháng 10 năm 2005
Trong một bài trước, chúng ta
đă thử xem lại ảnh hưởng rất quan trọng của các thứ tiền đề trên mọi nghiên
cứu và viết lách về những vấn đề liên hệ đến cổ sử, văn minh và văn hoá. Đặc
biệt để ư đến lối suy nghĩ của nhiều người Việt, đặc biệt giới ê-lít nói
chung, từ xưa đến nay thường dễ vướng phải sức nặng của hai khối tiền đề to
tát của người Tây Phương và Trung Hoa, và cách thức làm việc vẫn chưa đạt
được mức đ̣i hỏi thông thường của khoa học là thỉnh thoảng cần phải đánh giá
lại tính xác thực của các thứ tiền đề đó.
Chỉ ở nhận xét có vẻ khá thường
t́nh này thôi, chúng ta có thể dựa vào đó để giải thích được rất nhiều hiện
tượng lịch sử nước Nam, và chúng tôi đă mạo muội thử bắt đầu bằng việc xem
lại và giải mă truyền thuyết Âu-Lạc, từ ngàn xưa vẫn gây nhiều ngộ nhận.
Trong bài này, chúng ta thử xem xét
một sự khác biệt lớn giữa tư dzuy cơ bản của người Hoa và Việt, mà tiền nhân
từ xưa v́ không để ư đến tiền đề, và có thể không được trang bị đầy đủ lối
suy nghĩ độc lập, nên đă nhập khẩu mô h́nh của Hoa tộc, đem gán vào hoàn
cảnh khác biệt của nước Nam. Cũng có khả năng, lối suy nghĩ thiếu thốn tính
cách độc lập đă do chính người Hoa, hoặc người Ấn, áp đặt hoặc gây ảnh hưởng
sâu đậm lên rất nhiều tộc người ở khu Đông Nam Á, từ Myanmar đến Việt Nam,
Mă Lai Á, v.v., qua hằng ngàn năm đối tác chính trị và chịu ảnh hưởng văn
minh với nhau.
Sự khác biệt lớn đó nằm chính giữa
'truyền thuyết Âu Lạc giải mă' ở đây. Khác biệt đó chính là khác biệt
về phân biệt giữa Hoa tộc với người dân tộc ở bên Tàu, với phân biệt giữa
người Kinh và các loại người dân tộc ở Việt Nam, hay ở Myanmar, ở Thái-Lan,
v.v. Nói nôm na theo kiểu toán học, nếu dùng X để chỉ thước đo phân biệt
giữa Hoa chủng và một nhóm người dân tộc nào đó ở bên Tàu, như người Hmong,
người Choang chẳng hạn. Và gọi Y, thước đo khoảng cách giữa người Kinh và
một nhóm người dân tộc nào đó tại Việt Nam (thí dụ: người Mường, Tày, Bahnar,
Mạ, v.v.). Theo lối hoàn toàn dựa vào mô h́nh của Trung Hoa, từ xưa đến nay,
ta có:
X = Y
Có nghĩa nếu rập khuôn theo sát mô
h́nh Tàu, khác biệt giữa Hoa chủng và các thứ người dân tộc bên Tàu, sẽ y
như khác biệt giữa người Kinh và các dân tộc ít người tại Việt Nam.
Nhưng nếu dựa vào 'truyền thuyết
giải mă', hoặc xem lại tiền đề, ta sẽ thấy rất rơ:
X khác Y. Đặc biệt: X > Y
tức X khác với Y, rất nhiều, và
luôn luôn X lớn hơn Y. Có nghĩa: khác biệt về giên, hay tộc chủng, giữa Hoa
chủng thuần túy tập trung ở vùng Hoa Bắc với các nhóm dân tộc miệt Hoa Nam,
lớn hơn khác biệt tương tự, giữa người Kinh và Dân tộc ở nước Nam.
Tại sao vậy? Bởi người dân tộc khắp
nơi ở nước Tàu, đặc biệt Hoa Nam, từ ngàn xưa đă mang giên khác với Hoa
chủng. Những người lên núi rừng mà sống, tạo nên người dân tộc ngày nay,
chính là người bản địa Hoa Nam ngày xưa, luôn từ chối hoà ḿnh hoà hợp với
Hoa tộc 'mới' và cũ, sinh sống ở vùng đồng bằng thành thị. Trong khi tại
Việt Nam, người Kinh có trong người ít nhiều huyết quản và giên của những
nhóm người dân tộc, bởi tuyệt đại đa số người Kinh thuộc vào ba bốn chủng
chính, bao gồm: Âu tức Thái cổ, Lạc tức Việt cổ, và vài nhóm bản địa như
Môn, Khmer, và Thái cổ. Những chủng này đều là những chi chủng tiền bối, đă
truyền 'giên' lại cho những nhóm người dân tộc. Những nhóm người ban đầu từ
chối việc hoà ḿnh với thế lực phong kiến Bắc phương. Qua tiến tŕnh lịch sử
họ giữ lại lối sống thời bộ tộc xa xưa, để rồi sau hằng trăm hằng ngàn năm,
xă hội và nếp sống của họ trở nên khác biệt với người Kinh. Đọc lại lịch sử
nước Nam trong suốt thời Bắc thuộc, chúng ta thấy rất nhiều cuộc nổi loạn do
người Việt ở vùng rừng núi khởi xướng, chống với thế lực đô hộ Bắc phương.
Quan đô hộ Bắc phương thường gọi người nổi loạn, người Man, bởi đối với họ
bất kỳ đám rợ nào không phải Hoa chủng, ở miền Hoa Nam và sâu xuống, nhất là
ở miền rừng núi, họ đều gọi Man. Người ở vùng kinh đô thành thị, dưới quyền
cai trị trực tiếp của đám Bắc phương, do đó dễ có khuynh hướng bắt chước gọi
theo các quan phương Bắc, và gọi Mán.
Nhưng lộn xộn có lẽ thật sự bắt đầu
với những cuộc di dân xảy ra vào những thời sau những đợt di dân ban đầu
thời tiền sử. Sau nhiều thế kỷ. Những đợt di dân thời sau, cũng do ở giặc
giă loạn lạc bên Tàu, xảy ra sau khi nước Nam đă tạo dựng được một xă hội 'nước
nhà', khoảng cuối đời nhà Đường bên Tàu, và chuyển tiếp giữa Tiền Lê qua nhà
Lư tại xứ Việt. Khối người di tản đến sau đó, trừ các thành phần ê-lít và
thương gia, tiêu biểu qua thị tộc nhà Lư và nhà Trần, đều có khuynh hướng
lên thẳng miền rừng núi để định cư. Bởi chỉ có nơi đó mới c̣n đất trống, và
phù hợp với nếp sống cũ của họ thời c̣n ở pên Tàu. Mặc dù huyết tộc của họ
rất có khả năng cùng thứ với nhiều người Kinh. Cộng với biến đổi xă hội và
nếp sống, cũng như khuynh hướng người Nê-gri-tô và người-đa-đảo thích sống
chung với người miền rừng núi hơn vùng Kinh, lâu ngày có sự phân cực Kinh và
Thượng, hoặc Kinh và Mán. Nhưng sự phân cực Kinh - Dântộc, nếu nh́n kỹ, khác
rất nhiều với 'khoảng cách' giữa Hoa chủng và các cộng đồng dân tộc tại
Trung Hoa.
Việc phân biệt khá tế nhị này thật
ra sẽ đưa đến một chiếc ch́a khoá giúp mở được nhiều cánh cửa hết sức gút
mắt trong nhiều trang sử sách của vùng Đông Nam Á. Trong đó có luôn cả vấn
đề tiếng Việt, tiếng Hán, và tiếng Nôm.
Tại Việt Nam, số người dân tộc chiếm
khoảng 13% (mười ba phần trăm) tổng dân số. Trong khi tại Vân Nam và
Myanmar, tỉ số này lên đến 33%, tức 1/3 (một phần ba), và tại Thái Lan,
1/4 (25%). Tại Quí Châu, khoảng 1/3, đa số: Hmong, Buyi và Dong. Trong khi ở
Quảng Tây: 2/5 (40%), đa số người Choang, xưa bà con gần với người Nùng ở
Việt Nam, thuộc chủng Thái-cổ. Theo [2] phân biệt giữa người Kinh và các dân
tộc ít người, sinh sống ở miền rừng núi khác nhau tùy theo từng quốc gia.
Người Trung Quốc gọi họ 'người dân tộc' và luôn khuyến khích họ ǵn giữ tập
tục và văn hoá cổ truyền. Bởi thật ra Hoa chủng thuần túy khác xa với người
dân tộc ở miệt Hoa Nam. Người Thái Lan gọi họ 'những bộ lạc miền đồi núi' và
có chính sách bao hàm lối sống của họ vào lối sống của người Thái. Chính
quyền Myanmar lại khác, họ gọi dân ít người, 'quân phiến loạn', và đối xử
với họ y hệt như đối xử với quân phiến loạn thực thụ. Mô h́nh dân tộc ít
người ở Myanmar và Thái Lan, thật ra, giống mô h́nh Việt Nam hơn mô h́nh Tàu.
Tức khi xưa dân Kinh và Thượng tại các nước này rất có khả năng, có bà con
họ hàng với nhau.
Mô h́nh người dân tộc theo luận
thuyết ở đây thật ra chỉ phản ánh, một trăm phần trăm, truyền thuyết Âu Cơ
và Lạc Long Quân, theo hai bản Mường-Việt tổng hợp. Nhóm người dân tộc
nguyên thủy ban đầu chính là đám con đi theo bà Âu Cơ, lên rừng núi sinh
sống sau khi chia tay với cụ Lạc Long Quân. Hoặc nếu theo cổ sử, người dân
tộc ban đầu có một phần là đám dân quân đi theo Thục Phán. Theo thiển ư, từ
xưa đến nay rất nhiều người Việt thường lướt qua điểm căn bản này trong
truyền thuyết Âu Cơ, do ở những nguyên nhân chính như sau:
(i)
Không để ư đến sự khác nhau trong bản chất của mô
h́nh dân tộc Tàu và Việt;
(ii)
Đối với thế lực đô hộ của người Hoa, họ chỉ truyền
bá có một mô h́nh, của riêng họ mà thôi. Người bản địa ưa dễ dăi áp dụng mô
h́nh của quan thầy Bắc phương;
(iii)
Người Âu Mỹ, qua giới học giả, thông thường cũng
thích chấp nhận mô h́nh của Tàu hơn bất cứ mô h́nh nào khác. Bởi mô h́nh của
Tàu rất giống với mô h́nh thực dân Âu Châu, đi chiếm đất khắp nơi trên thế
giới làm thuộc địa, rồi đẩy người dân bản địa lên vùng rừng núi xa xăm, trở
thành dân tộc ít người. Đó là trường hợp các xứ như Tân Tây Lan, Ca-na-đa,
Ô-xtrây-ria (Úc), Hoa Kỳ, v.v. Ở các quốc gia này, giên người dân tộc hoàn
toàn khác với giên thực dân hồi xưa, và khối dân đa số làm chủ, ngày nay.
Thật ra, theo thiển ư, rất ít học
giả Đông Nam Á để ư đến vấn đề này, bởi tuyệt đại đa số theo Tây học nên dễ
tiêm nhiễm mô h́nh của Âu Tây. Điểm chính giữa của mô h́nh này là người
thành thị và người dân tộc có 'giên' hoàn toàn khác nhau. Rất đúng với
Canada, Úc, Tân Tây Lan, và ngay cả Tàu Hoa Bắc. Nhưng rất khó chính xác đối
với đa số các nước ở Đông Nam Á.
Phân biệt được điểm hết sức cơ bản
này, sẽ giúp ta thấy rơ vấn đề lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá, tập tục, v.v. của
rất nhiều dân tộc khắp miền Đông Nam Á. Trong đó có Việt Nam. Cũng từ phân
biệt khá tế nhị này, chúng ta cũng có thể t́m được câu trả lời thỏa đáng cho
nhiều vụ tranh căi, từng kéo dài triền miên, lâu lắc. Xin đơn cử một vài thí
dụ.
Trước hết, vấn đề vật tổ 'totem'
của dân Việt Nam. Có người cho rằng đó là con rồng. B́nh Nguyên Lộc [3] dựa
theo các truyền thuyết người Mường (theo thiển ư, gốc 'Âu Việt'), cho rằng
'con nai' mới là totem. Trần Quốc Vượng (dẫn trong [4]) cho đó là con chim,
v.v.. Nhưng nếu theo mô h́nh hợp chủng ở đây, sát với truyền thuyết Âu Cơ,
ta sẽ thấy bởi là dân hợp chủng, người Việt cổ, cũng như nhiều dân tộc khác
ở Đông Nam Á, đă không hề nhất thống được thứ nào là 'totem' chung của dân
tộc hết. Bởi thật ra khi dân tộc Việt Nam được h́nh thành, vấn đề 'totem' đă
quá 'đát', quá ngày 'use by', và trở nên không cần thiết so với nhiều vấn đề
khác cấp bách hơn.
Thí dụ khác, về 'xuất xứ'. Nhiều
dân tộc trên thế giới rất thích cho rằng dân ḿnh đặc biệt, do Thượng Đế gởi
xuống trái đất để làm rạng danh nhân loại. Từ đó dẫn đến ư niệm thuần chủng,
từ thời tạo dựng quốc gia, hay ngay cả tạo thiên lập địa. Phối hợp với một
tiền đề quan trọng của Tây Phương, tự nhiên dính liền với 'nguồn gốc' của
rất nhiều dân tộc. Đó là tiền đề tất cả loài người xuất phát từ một chỗ, từ
khuôn viên địa đàng của ông Adam và bà Eve, theo truyền thống Juthái-Kitô.
Từ đó, chúng ta thấy rất nhiều khảo cứu ưa truy về điểm xuất xứ của dân tộc.
Ưa xây dựng lí thuyết trên mô h́nh liên tục. Liên tục giữa tác giả của những
nền văn minh khai quật được (thí dụ: Ngưỡng Thiều, Lương Chúc, Long Sơn,
v.v.) với khối dân của quốc gia hiện có lănh thổ bao gồm các địa điểm di chỉ
đó. Từ điểm xuất xứ hoặc di chỉ, học giả phương Tây thường có khuynh hướng
ấn định phương hướng di chuyển của cả một tộc người, giống như chuyện thánh
Moses dẫn dân Jo-Thái ra khỏi xứ Ai Cập. Từ Tây sang Đông, hay ngược lại.
Bắc xuống Nam, hay Nam lên Bắc. Thí dụ cụ thể nhất là thuyết Mă Lai. Theo đó
chỉ có 2 đợt người di tản cùng một chủng xảy ra, đợt trước - đợt sau, cách
nhau 2500 năm. Họ dừng chỗ này thành dân tộc này, dừng chỗ kia thành dân tộc
kia, rồi sau cùng đóng lều cắm trại tại hai xứ Inđô-nêxia và Mă Lai, rồi tạo
dựng nên hai nước này. Lư thuyết giải mă ở đây đưa đến một góc nh́n mới.
Theo cơ sở lí luận ẩn chứa trong ‘truyền thuyết giải mă’ ở đây, đa số các
dân tộc ở Đông Nam Á đều là kết quả của hợp chủng. Nếu có một số từ vựng
hoặc ngữ pháp, hoặc điểm đặc trưng văn hoá, giống y hệt nhau giữa dân tộc A
và B, ta chỉ nên khảo sát giả thuyết có vẻ hợp lư nhất là hai dân tộc A và B
đều chia sẻ hay có chung, ở thời xa xưa, một tộc người nào đó, tạm gọi X,
như thành tố của hợp chủng. Thành tố chung cho hai hợp chủng A và B, tại hai
quốc gia khác nhau. Tộc X đă có số từ vựng hoặc các điểm đặc trưng
văn hoá đó. Phản ánh đến ngày nay, qua hai dân tộc A và B. Thí dụ:
(a)
Dân Mă Lai, người Hakka (Hẹ), và người Việt nói 'chết'
hay 'qua đời' bằng, tuần tự, [mati], [mok] và [mất]. Theo khuynh hướng của
các lí thuyết thông thường, người ta đặt ngay giả thuyết dân Mă Lai là thủy
tổ dân Việt, người Hẹ, hoặc dân Việt là nguồn gốc dân Mă Lai. Nhưng theo góc
nh́n mới kiểu ‘truyền thuyết giải mă’, ta có thể đặt câu hỏi khác đi: ‘Phải
chăng đă có một tộc người nào đó nằm trong 3 tộc người ngày nay khác nhau:
Hakka, Việt Nam và Mă Lai, hồi thời xa xưa ưa dùng một từ có âm giống như [mất]
để tả ‘sự chết’.
(b)
Cả dân Mă Lai và Việt Nam, đều có ngạn ngữ y như
nhau: 'Chuột sa hũ nếp', ngụ ư 'người nghèo sung sướng v́ t́m được
tiền bạc của cải dễ dàng'. Theo thuyết xưa, người ta nghĩ đến hoặc Mă Lai
hoặc Viêt Nam, chủng này đă là gốc gác của chủng kia. Nhưng theo thuyết ở
đây, câu hỏi sẽ là ‘Phải chăng có một tộc nào đó, xưa đă đóng góp, cùng
nhiều chủng khác và ảnh hưởng các văn minh khác, tiến tạo nên hai tộc khác
nhau Mă Lai và Việt Nam. Tộc ‘đóng góp’ này trước đó, đă có thói quen ví
người nghèo t́m gặp của cải, với chuyện 'chuột sa hũ nếp'.
(c)
Tại Việt Nam đôi khi người ta có thói quen gọi ‘Vợ
tôi’ (hay ‘Chồng tôi’) bằng ‘Nhà tôi’. Tại xứ In-đô-nê-xia, ‘nhà tôi’ họ gọi:
‘Rumah Saya’. ‘Vợ tôi’ gọi bằng ‘Istri Saya’. Rất nhiều khi tại Inđônêxia,
người ta cũng hay dùng ‘Rumah Saya’ (=nhà tôi) để chỉ ‘bà boss’ tức ‘Vợ tôi’.
Khảo cứu nguồn gốc dân tộc theo kiểu ở đây sẽ bắt đầu phân tích trên căn bản
rằng hai tộc Inđônêxia và Việtnam, thời xưa có chia sẻ chung một 'thành phần
tộc người' nào đó, mang thói quen xem vợ như ‘bà chủ của tổ ấm trong nhà’,
tức ‘chủ nhà’. Rồi dẫn đến việc dùng 'nhà tôi' hay 'rumah saya', như ở
Inđônêxia, để chỉ 'vợ tôi' [5].
(d)
Dân Phi-líp-Pin, dân Thái Lan, Lào, Việt có món
hột vịt lộn. Ngày trước, ít người để ư bởi không có giả thuyết nào nói dân
này là nguồn gốc dân kia. Nhưng với 'truyền thuyết giải mă' nhấn mạnh ở
chuyện hợp chủng, ta có thể đặt ra một giả thuyết: ‘Phải chăng, trong ba bốn
dân tộc thích chơi món 'balut' (trứng vịt lộn) đó, có một thành phần tộc
người nào đó đă phát minh ra cái món này, ở thời xa xưa, trước khi họ di tản
đến mấy cái xứ đó. Thành phần tộc người này đều hiện diện trong ḷng dân tộc
các xứ ưa ăn món 'hột vịt lộn' đó.’
(e)
Phân tích về ngôn ngữ cũng có thể dựa vào lư
thuyết này, và tiền đề ẩn tàng chính là: Ngôn ngữ A của dân tộc A ngày nay
là một hỗn hợp của ba bốn thứ tiếng nói của các thị tộc hay chi tộc người,
ngày xưa đă góp phần chủ lực trong việc tiến tạo dân tộc A ngày nay.
A = X + Y
+ Z
Thí dụ: A
= tiếng Việt ngày nay; X = tiếng Môn-Khmer cổ; Y = tiếng Thái cổ;
Z = tiếng
Lạc Việt cổ, bao gồm tiếng Bộc (Hẹ cổ), tiếng Ngô-Việt (GiangTô / ChiếtGiang),
tiếng Mân Việt (PhúcKiến / TriềuChâu), v.v.
Tức chúng
ta có thể suy luận về cấu tạo nguyên thủy của ngôn ngữ qua lí thuyết mới, và
ngược lại dùng phân tích đóng góp từ vựng hay cú pháp, thanh âm của từng
nhóm chi tộc, vào ngôn ngữ, để kiểm chứng lại lí thuyết hợp chủng đó.
Những điểm đặc trưng về văn hoá
và từ vựng, cú pháp cũng giống như chất phẩm màu dùng trong thí nghiệm để
theo dơi di động của một chất lỏng trong cơ thể con người, hoặc thẩm thấu
xuống đất di chuyển đến một nơi khác. Cũng giống như câu chuyện đăng trên
nhiều báo dạo trước kể một kỹ sư Việt đi công tác tại miền quê đâu đó ở Phi
Châu, tự nhiên nghe một thanh niên bản xứ cất giọng ca 6 câu vọng cổ mùi tận
ruột. Hỏi ra, mới biết thanh niên này có nửa gịng máu Việt. Hay ở vào thế
kỉ 21 này, nếu đi ngang một khu hoàn toàn chỉ có người Mỹ da trắng, tại một
thành phố nào đó ở Hoa Kỳ, ta thấy phảng phất mùi Phở đâu đấy. Nh́n quanh để
t́m điểm xuất xứ mùi Phở, nếu thấy từ nơi xuất phát hương vị phở ḅ, có một
thanh niên trông như dân Mỹ chuyên nghiệp, nhưng nhân dạng, nhất là tóc đen,
cho thấy anh ta có vẻ Âu lai Á, ta có thể đoán được rằng hoặc Cha hay Mẹ
thanh niên này, là một người Việt Nam.
Thử quan sát trở lại đẳng thức về
hợp tộc của người Việt Nam:
Việt Nam = Âu Việt + Lạc Việt //
Môn-Khmer + Đa đảo + Nêgritô
Trong đó, Âu Việt chính là chủng
Thái, thời cổ đại, có địa bàn rất rộng từ Ngũ Lĩnh xuống tận biên giới Việt
Hoa. Phía Tây, từ khu vực Tứ Xuyên, cho đến đất Đông Việt, tức Giang Tây
ngày nay. Tộc Âu Việt cũng chứa hằng trăm chi tộc lớn nhỏ khác nhau.
Lạc Việt, bao gồm những thứ Việt
xưa sinh sống ở vùng ven biển phía Đông. Từ trên xuống dưới, gồm có:
-
Nhóm Bách Bộc, hay Bộc Việt, xưa có địa bàn vùng
sông Bộc thuộc tỉnh Hà Nam - Sơn Đông ngày nay. Sông Bộc chảy qua thành phố
Bộc Dương (Puyang), thủ phủ tỉnh Hà Nam, kinh đô nước Vệ thời Xuân Thu Chiến
quốc, và cái nôi của nền văn minh Hán tộc ngày xưa. Nhóm Bộc Việt này là một
nhóm du mục lâu đời nhất nh́ của Trung quốc. Trong 3 bài liên tiếp chúng tôi
đă minh giải hậu duệ của họ chính là người Hakka, tức Hẹ, ngày nay. Và triều
đại nhà Lư ở nước Nam, đă xuất thân từ nhóm Bách Bộc này. Điểm đặc trưng của
nhóm Yue này chính ở chỗ họ là nhóm Yue sống gần gũi với Hoa tộc nhất, ở
miệt Hoa Bắc, ngay từ thời xa xưa. Họ cũng sống rất gần và mang nhiều ảnh
hưởng qua lại với nhóm Hmong-Mien tức Miêu-Dao, từ xưa đến nay. Nhóm Hmong-Mien
ngày nay tập trung đông nhất (khoảng 8 triệu) tại tỉnh Quí Châu, gần Hồ Nam.
Xưa, Quí Châu chính là xứ Dạ Lang. Và ở khu vực nội địa, nhóm Hmong-Mien
sống gần gũi với nhiều nhóm người hậu duệ của tộc Thái-cổ.
-
Nhóm Ngô Việt, tập trung tại hai tỉnh Giang Tô và
Chiết Giang ngày nay. Sử cổ nổi tiếng về Ngô Việt chính là chuyện Việt Vương
Câu Tiễn chịu nằm gai nếm mật suốt 10 năm để đánh bại vua Ngô là Phù Sai.
Những nhân vật sử Việt có gốc gác miền Ngô Việt phải kể đến: Hồ Quư Ly (nhà
Hồ) và Quang Trung Nguyễn Huệ (Tây Sơn). Tuy nhiên, nếu so sánh với thời nhà
Lư, gốc Bộc Việt, và nhà Trần, gốc Mân Việt, nhà Hồ và Tây Sơn khá ngắn ngủi,
và thiết lập măi về sau. Do đó ảnh hưởng của phương ngữ Ngô trên tiếng Việt,
không lớn lao bằng ảnh hưởng của hai nhóm kia, Bộc và Mân.
-
Nhóm Mân Việt, từ tỉnh Phúc Kiến ngày nay. Đối với
Hoa kiều ở Đông Nam Á, tộc Mân ngày nay bao gồm hai chi lớn: Triều Châu và
Phúc Kiến. Riêng tiếng Phúc Kiến, cũng có đến cả chục thứ phương ngữ khác
nhau. Đất Mân chính là quê hương của triều đại nhà Trần ở nước Nam, có công
lớn trong việc đánh bại quân Nguyên.
Cả hai nhóm Âu và Lạc hợp chủng với
nhau trên nền tảng dân bản địa sẵn có, bao gồm: Môn-Khmer, tộc Thái cổ có
mặt từ ngàn xưa [6], và các giống Đa đảo da đen (Melanesian) cũng như
Nêgritô, thấp người tóc xoăn, người Tàu thường gọi 'hắc nụy'. Cả hai nhóm Đa
đảo và Hắc nụy cũng có mặt ở bên Tàu vào thời cổ đại.
Trong một bài trước, chúng ta đă
khảo sát khá kỹ về đóng góp của tiếng Hakka (Hẹ) trong tiếng Việt. Trong bài
này, và một bài sau, chúng ta hăy xem qua góp phần của tiếng Ngô & Việt,
người Tàu thường gọi phương ngữ Wu (吳),
và góp phần của tiếng Mân Việt tức phương ngữ Min
{闽},
hoặc Phúc Kiến-Triều Châu, vào tiếng Việt của người nước Nam. Trung tâm của
phương ngữ Wu (Ngô), hiện nay có lẽ là thành phố Thượng Hải. Trung tâm tiếng
Mân chính là Phúc Châu, tỉnh lỵ của Phúc Kiến. Cả hai phương ngữ Ngô và Mân,
mỗi thứ đều có hằng chục tiểu chi phương ngữ khác nhau.
Theo kết quả của ngành khảo cổ, tóm
tắt trong [7], dân cư tại xứ Mân ngày trước không chuyên nghiệp với ngành
trồng lúa. Họ sống bằng nghề đánh cá, bắt tôm. Người họ mắt to, mũi thấp và
có tục xâm ḿnh. Mân Việt có lẽ được Hoa chủng ở Bắc phương biết đến nhiều
sau khi nước Ư Việt, của Câu Tiễn năm xưa, bị nước Sở đánh bại và sát nhập
vào năm 333 TCN. Hoàng thân quốc thích và dân chúng nước Việt di tản về, và
xin nhập cư, tại xứ Mân. Mân Việt sau đó duy tŕ địa vị như một vương quốc,
cho đến khi bị nhà Tần ra lệnh hủy bỏ. Sau đó đến khi Hán Sở tranh hùng,
lănh tụ Wuzhu của xứ Mân gởi quân hỗ trợ cho phe Hán, nên khi Liu Bang b́nh
định được nước non, ông bèn trả ơn bằng cách cho Mân nâng cấp trở lại như
một tiểu quốc chư hầu Hán triều.
Về sau, khi Wuzhu đă qua đời, xứ
Mân vẫn giữ truyền thống gây hấn quân sự với các nước láng giềng, đặc biệt
xứ Đông Âu (Đông Việt), cho đến khi triều đ́nh nhà Hán thấy đó là một mối
nguy cơ cần phải dẹp sớm, nên ra lệnh cho Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức đem
một đoàn quân xuống dứt điểm Mân Việt, và Nam Việt, vào năm 111 TCN.
Sau thời đại nhà Hán, dân di cư rầm
rộ từ phía Bắc tràn xuống phía Nam sông Dương Tử, chia làm hai đợt: Đợt thứ
nhất, liền sau khi nhà Hán tan ră. Khu vực xứ Mân chính là nước Ngô của Tôn
Quyền, thời Tam Quốc, thay thế nhà Đông Hán cai trị Nam Việt (bao gồm xứ
Việt cổ), và đă tách Nam Việt xưa thành hai phần: Quảng Châu (Lưỡng Quảng)
và Giao Châu (Bắc Việt). Đợt thứ hai, khi nhà Đường bước vào giai đoạn cáo
chung. Tiếp đó là thời Ngũ Đại - Thập Quốc vào đầu thế kỷ thứ 10. Tàu bị
loạn lạc tơi bời. Nhất là ở phía Bắc bị đám Ngũ Hồ xâm lấn. Di dân ào ạt
tràn xuống miền Hoa Nam.
Đó là sử phía bên Tàu. Luôn luôn có
thói quen không ghi chép, dân địa phương như người Mân, có chạy đi ra ngoài
hay không, khi xứ sở họ bị nạn binh lửa, hay tràn ngập những người di cư từ
các nơi khác đến. Cũng không bao giờ ghi chép những vụ di tản trước đó,
trước khi Hoa tộc từ Hoa Bắc tràn xuống chiếm đóng và làm chủ Hoa Nam. Theo
thiển ư: Có, dân chúng miền Hoa Nam chắc chắn đă di tản trốn khỏi xứ Tàu
loạn lạc đó, trước, đang khi, và sau khi Hoa tộc tiến đánh, chiếm cứ miền
Hoa Nam. Và những nơi người Mân Việt, hay người Ư Việt, đă chạy đến chính là
xứ Việt cổ và nhiều nơi khác khắp miền Đông Nam Á. Bằng đường biển lẫn đường
bộ. Lư do đơn giản: Ngay từ thời xa xưa, trước cả thời Xuân Thu Chiến Quốc,
đă có dấu vết một số bộ tộc thuộc khối Bách Việt sinh sống ở đó rồi. Nhất là
người Bách Việt thuộc tộc Thái cổ và Môn Khmer.
Sau đây chúng ta hăy thử kiểm chứng
đóng góp của tiếng Mân và Ngô (bài sau) vào Việt ngữ qua một số điểm đặc
trưng tiêu biểu.
MÂN VIỆT
Trước
hết để ư, tiếng Mân, gọi nôm na vắn tắt là tiếng Phúc Kiến - Triều Châu, bao
gồm rất nhiều phương ngữ khác nhau. Đại khái người ta thường chia hai khối:
Bắc Mân và Nam Mân. Nhưng phức tạp hơn, họ lập ra 5 phân loại: Bắc Mân,
Trung Mân, Đông Mân, Xinghua, và Nam Mân (Min-nan). Trong đó khối lớn nhất
là Nam Mân, thường bao gồm thứ tiếng Phúc Kiến xử dụng ở Taiwan, Hạ Môn
(Amoy), Hải Nam, Triều Châu, và cộng đồng Hoa kiều tại nhiều nơi ở Đông Nam
Á. Mỗi một phân loại của tiếng Mân thường có đến cả chục tiểu chi (phương
ngữ) nữa. Thứ này khác với thứ kia một ít.
Tiếng Mân, có 7 thanh âm khác nhau,
so với quan thoại: 4, tiếng Việt: 6, Quảng Đông: 9, Thái/Mường: 5. Thanh âm,
c̣n gọi: thinh, được thể hiện qua âm điệu trầm bổng lên xuống khác nhau, tùy
theo 'dấu' như kiểu: không sắc hỏi ngă nặng huyền, của quốc ngữ. Đặc biệt,
tiếng Triều Châu (Tiều), một phân chi của Mân, có đến 8.
Những tử âm đầu quen thuộc của tiếng
Mân, chi Triều Châu, gồm có: B, Bh, C (ts), D, G, Gh, H, K, L, M, N, NG, P,
R, S (tức X - Việt), T, Z (Tch).
Tử âm cuối, cũng giống nhiều phương
ngữ miền Hoa Nam, và khác với quan thoại (chỉ có N và NG), bao gồm rất nhiều
thứ: {p t k m n ng}. Đặc biệt, rất nhiều phân chi tiếng Mân, có âm cuối
[nh] y như tiếng Việt: nhanh, lạnh, linh tinh,
... Thí dụ:
* XuaNH (Pk)= Shan (qt)= Sơn= Núi.
* TsêNH (Pk)= Lu (qt)= Luk (qđ)= Lục=
Xanh (màu Xanh lục, green). 'Xanh' tiếng Việt (Nôm), như vậy rất có thể,
xuất xứ từ tiếng Mân Việt: Tsênh hay Xênh.
Các âm cuối thông thường {p t k
m n ng} xin tóm tắt như sau:
âm cuối |
Việt |
Hẹ |
QuảngĐông |
Quanthoại |
Mân
(PK) |
Ghi Chú |
p |
thiếp |
ziap |
tsip |
gie |
chhiap |
qt không p |
p |
thập (10) |
zap |
xaap |
Shi |
jap |
p => p |
t |
luật |
lut |
leot |
Lu |
lut |
qt không t |
t |
vượt |
jet |
yut |
yue |
oat |
t=> t (Mân) |
k |
lạc (mất) |
lak |
lok |
Luo |
lak |
lac => lak |
k |
ngọc |
ngiuk |
yuk |
Yu |
gek |
k <=> k |
k |
túc (chân) |
zuk |
zeok |
Zu |
chiok |
qt không k |
k |
mực |
met |
mak |
Mo |
bak |
mực= mặc |
m |
ch́m |
chim |
zam (zhầm) |
zhen |
sim |
qt không m |
m |
diêm (muối) |
jam |
jim |
yan |
iam |
giam (Tiều) |
n |
kiến (gặp) |
kian |
jin |
jian |
hian |
qt có 'n' |
ng |
hướng |
hiong |
hoeng |
xiang |
hiong |
qt có 'ng' |
Đặc biệt, tiếng Triều Châu:
NG => BhuaNG (Biạn (Nam bộ)= Màn(Qđ)=
Wan (Qt)= Vạn (Bắc bộ)= 10000).
Bây giờ xin thử khảo sát những âm
đầu quen thuộc:
* [SH]: Âm [SH] như trong 'so sánh'
cũng không có trong tiếng Mân. Giống như tiếng Quảng Đông, tiếng Mường,
tiếng Thái Lan, Mân chỉ có âm [X], hoặc gần nhất, âm [TS], như [tsênh]= màu
Xanh lục. Âm [SH] nói chung có vẻ rất 'hiếm' trong các phương ngữ ở Hoa Nam,
dưới ảnh hưởng chủng Thái cổ, chỉ có âm [X]. Du nhập của âm [SH] vào tiếng
Việt do đó, rất có khả năng, qua 'đường dây' nhóm Bách Bộc, hoặc Hakka (Hẹ),
khi xưa sinh sống tại các địa bàn cực Bắc, gần gũi với Hoa tộc nguyên thủy.
* [K]: Âm 'K' là một thứ tử âm đặc
thù của tiếng Mân. Trong quan thoại kí âm pinyin dùng 'K' như: [keyi] (khả
dĩ), [Kaifeng] (Khai phong), [kan] (khám), [kao] (khảo), [kun] (khốn), v.v.
rất thường là một thứ âm '[K]-hơi-thở'. Giống như [K] trong tiếng Anh:
Kennedy, Kenneth, carry, v.v. lúc phát âm luôn có âm [h] nho nhỏ theo sát
với [K]. Do đó khi chuyển sang tiếng Việt, ta để ư, [K] quan-thoại, biến
thành [Kh] trong tiếng Việt, như tŕnh bày phía trên. Đặc biệt, âm [K]-trơn,
không hơi thở, giống âm tiếng Anh [k] trong: 'Skill' (kỹ năng), Skewer (cây
xiên nướng thịt), school (trường học), skip (nhảy bỏ),
thường tương đương với kí âm [J] của
quan thoại: [jian] (kiến), [jie] (kiệt), [jin] (cận), v.v. Sang tiếng Việt,
âm [J] đầu từ của quan thoại, đôi lúc mang khuynh hướng biến thành âm [K]
trong tiếng Việt. Tra cứu tiếng Mân cho thấy biến đổi từ âm [K]-quan-thoại,
sang [KH] tiếng Việt, thường chia sẻ chung với tiếng Mân. Tương tự, âm [J]-quan-thoại,
nếu biến sang [K] tiếng Việt, cũng biến y hệt qua âm tiếng Mân, tức Phúc
Kiến. Tức tiếng Mân và tiếng Việt có một số 'biến đổi chia sẻ chung với nhau'
nếu so sánh với quan thoại. Tuy vậy, cũng nên ghi nhận ở đây cả hai âm [K]
và [KH] đều hiện diện trong các tiếng Myanmar, Khmer, và
Thái-Lan ngày nay, tức đă có sẵn trong các thứ tiếng bản địa xa xưa:
Môn-Khmer và Thái cổ.
Bảng đối chiếu sau đây cho thấy âm
[K] và [Kh] tiếng Việt và Mân, thường giống nhau.
Việt |
Mân (PK) |
Hẹ |
Quảng Đông |
Quan thoại |
Ngô |
Ghi Chú |
khán (xem) |
khan |
kan |
hon |
kan |
khO |
kh: không hoàn toàn [KH] |
khoa (học) |
kho |
ko |
fo |
ke |
kh U |
kh: âm K-hơi-thở |
kim (vàng) |
kim |
gim |
gam |
jin |
txing |
âm [g] giống [k] & [c] |
khoái (lẹ) |
khoai |
kwai |
faai |
kuai |
khua |
[k] quanthoại: âm hơi thở |
kim (cận/gần) |
kin |
kiun |
gan/kan |
jin |
txing |
Việt giống Mân và Q. Đ. |
cầu (kiều) |
kiau |
kiau |
kiu |
jiao |
txiO |
Biến thái âm [âu]<=> [iu] |
kẻ (gả) |
ga |
ke |
găa |
jia |
ka |
gả:=Hẹ / QĐ. Kẻ:= Mân |
kinh (đô) |
keng |
gin |
ging |
jing |
txing |
âm cuối [nh]<=> [ng] / [n] |
cố (cựu / cũ) |
kou |
gu |
gu |
gu |
ku |
Ngô=Hẹ=Mân=QĐ=QT |
số 9 (cửu) |
kau |
giu |
gau |
jiu |
txiw |
biến đổi [au] <=> [iu] |
cậu (uncle) |
kiu |
kau |
kiu |
jiu |
txiw |
so với số 9: [au] <=> [iu] |
khổ (đắng) |
khou |
ku |
fu |
ku |
khu |
khổ qua = mướp đắng |
cương (cứng) |
kiong |
giong |
goeng |
jiang |
jiang |
'giong' đọc giống 'GHiong' |
khẩu (miệng) |
khau |
keu |
hau |
kou |
khaw |
Mân y hệt Việt |
* [H] là một thứ âm, cũng rất đặc
trưng trong phương ngữ Mân. Để ư, hai chữ Phúc-Kiến dưới hệ thống kí âm Wade
Giles thời tiền chiến được ghi: Hokkien. Đến thời phiên âm pinyin ra
đời, người ta đổi thành: Fujian,
theo sát phát âm quan thoại ở phía Bắc. Như vậy, mô thức biến chuyển âm xảy
ra như sau:
- Âm [K] Phúc Kiến và Việt ngữ => âm
[J] quan thoại, như bàn phía trên. Thông thường, xin nhấn mạnh âm [J]
quanthoại sang tiếng Việt, thành [Gi]: Jiang => Giang; Shi-jie=> Thế giới;
jiao => giao, v.v. Nhưng khi [J] => [K] phúckiến, cũng => [K] tiếng Việt.
Đặc biệt xem qua ‘Gả’ (= Kẻ), mang nghĩa 'gả con gái' (marry off) hay ‘người
ấy’. ‘Gả’ tương ứng quanthoại ‘Jia’. Chuyển sang tiếng Hẹ, y hệt: [Ga]. Sang
tiếng Mân: [Ke], y hệt như tiếng Việt: Kẻ (ấy), cũng giống tiếng Môn-Khmer:
[Ke] hay [Qe]. [Ke] tiếng Mân, mang nghĩa 'gả - lấy chồng' có âm rất gần với
[cưới] (cưới vợ gả chồng) trong tiếng Việt.
- Âm [H] Phúc Kiến => âm [F] tiếng
Nhật: Fujiyama / Fujisan (Phú Sĩ Sơn). Viết theo mẫu tự latinh là /F/ nhưng
phát âm giống như chụm môi thổi thức ăn nóng, bắn ra âm chữ /H/ rất mạnh.
Rất gần với âm [pH] trong 'pHú Sĩ' (núi Phú Sĩ) [8].
- Âm [H] Phúc Kiến <=> tương đương
với [F] quan thoại, và [PH] Việt ngữ. Thí dụ:
feiji => huigki => phi cơ;
gongfen => konghun => công phân (phân
tây, cm);
fengsu => hongsiok => phong tục;
zhengfu => tsiéng-hú => chánh phủ
fa-lu => huat-lut => pháp luật
Tuy nhiên, giống như cặp [K] và [Kh]
ở trên, cả hai âm [P] và [Ph] đều hiện diện đầy đủ ở các tiếng Myanmar,
Khmer và Thái Lan (xem [9][10]).
* [W] và [Y]: Tiếng Mân không có âm
chữ [V] như kiểu tiếng Ngô và Hẹ, nhưng có âm [W] giống như Quảng Đông và
quan thoại, hay chính xác hơn, một thứ âm gần giống [W] là [U]. Riêng âm [Y]
của tiếng Mân, theo thiển ư, chính là đầu giây mối nhợ gây ra phát âm của
'bán-mẫu-âm' [Y] (đầu từ) trong tiếng Việt, trở nên gần giống với âm [I],
hơn là âm [Y] quốc tế (IPA viết [j]). Thí dụ: [Y] nhiều tiếng khác:
Yamamoto, FujiYama, Yang Gui Fei (Dương Quí Phi), Yellow, Yell, Yul Brynner,
... có phát âm [yờ] hoặc [dờ] theo kiểu Nam bộ.
Nhưng một số từ bắt đầu bằng âm
[Y]-quanthoại chuyển sang Phúc Kiến hay sang Việt ngữ, nếu giữ nguyên âm đầu
bằng [Y], rất thường sẽ chuyển qua cách phát âm HOẶC gần gũi âm [I] hơn,
HOẶC của một nguyên âm khác, lột mất [Y]. Thí dụ:
- yaoqiu (quanthoại) => yiukauh (qđ)
=> iâu-kiu (Phúckiến) => yêu cầu (Việt: đọc 'iêu')
- dayue (quanthoại) => joyau
(quảngđông) => dai-'iohk (phúckiến) => đại-ước (đại khái)
- yinwei (qt) => yanwaih (qđ) =>
'In'uih (pk) => nhân-v́ (bởi v́). Để ư: v́ => uih (pk)
- yiyi (qt:= ư nghĩa) => yisih (qđ)
=> 'i-suh (pk: ư tứ) => ư-tứ (= í-tứ)
- yinyue (qt) => yam-ngohk (qđ) =>
im-gak (pk) => âm-nhạc (âm = 'im, bị lột [y])
- ying (qt) => yehng (qđ) => 'ianh
(pk) => ăn (thắng cuộc)
Trở lại âm đầu [W] trong tiếng Phúc
Kiến (Mân). Quan sát biến chuyển qua lại với âm [W] của quan thoại, hoặc
quảng đông, chúng ta thấy, khác với tiếng Hẹ (Hakka) và Sơn Đông - trong đó
[W] thường biến thái thành [V] - một số từ 'quan thoại' bắt đầu bằng [W] khi
chuyển sang tiếng Mân biến đổi ra nhiều âm khác, trong đó có âm [u], [w],
[b] và [m]. Riêng trong tiếng Mân, [b] và [m] thường phát âm lẫn lộn với
nhau. Y hệt như trường hợp "[l] và [n]" trong nhiều phương ngữ Hoa Nam và
Việt ngữ: Anh nàm (làm) ǵ thế? Bởi ở ní do, trong môi trường thuần Hán và
Nôm, không biết ǵ đến thứ mẫu tự A-B-C do mấy ông Tây bày ra, cặp '[l] và
[n]' đều là âm nứu, [b] và [m] âm môi-môi, nhất là [p] và [b] trong tiếng
Tàu cũng môi-môi và một thứ tắc âm với nhau, tuy một tỏ, một điếc. Lúc phát
âm các từ dùng đến âm vị của những cặp như vậy, động tác môi lưỡi đều không
thể phân biệt, trong môi trường không biết ǵ đến A-B-C. Thí dụ về biến thái
một số từ 'quanthoại' (hay quảngđông) bắt đầu bằng [W] sang Phúc-Kiến, hoặc
biến đổi qua lại giữa [m] và [b]:
- wu (qt) = yeh (qđ) = mih' (pk) =
vật (Để ư: w => m, và m có thể => b)
- wazi (qt) = maht (qđ) = be' (pk).
Be' (pk) có thể chuyển: bí-tất + vớ (byớ, Nam bộ)
- yundong (qt) = wan-duhng (qđ) =
'Uhn-dong (pk) = vận động
- man (qt) = măahn (qđ) = ban (pk) =
mạn (= chậm)
- wen (qt) = mahn (qđ) = mng / buhn
(pk) = vấn (= hỏi).
- xi-wang (qt) = hei-mong (qđ) =
'ing-bong = hy vọng. Để ư: vọng <=> bong
- mạỉ (qt) = mảaih (qđ) = buáe (pk)
=> mua (b <=> m)
- mái (qt) = maaih (qđ) = buae (pk)
=> bán (m <=> b)
* Sau đây xin thử quan sát những
cặp tối đa giữa tiếng Mân và tiếng Việt:
Bảng đối chiếu vài từ Mân xâm
nhập vào tiếng Việt, xưa và nay:
Tiếng Việt |
Phúc Kiến |
Quan thoại |
Ghi Chú |
bay |
b-pe |
fei |
fei => phi. bpe => bay. b-p = âm
giữa /b/ và /p/. [Bpe] rất giống [Bay] |
béo (mập) |
Bui |
fei |
Mă Lai: mập => leMak. béo = bự
=> besar |
bị (bịch) |
Biek |
dai hoặc bao |
biek => bịch. |
chống |
Kiong |
fan dui |
Việt thu nhập 2 từ: chống & phản
đối |
đương nhiên |
diah nhioun |
dang ran |
'Đang' thường hoán chuyển với
'đương' |
đũa |
Duu |
kuaizi |
tiếng Mă Lai giống Phúc Kiến:
Duu |
âm nhạc |
Iam nyak |
yin yue |
/Iam nyak/ Phúc Kiến rất giống
tiếng Việt |
hoan hỉ |
huan hi |
gao xing |
gao xing = cao hứng; hỉ hoan
(QT)= xi huan, mang nghĩa khác => 'thích' |
hành lư |
hieng li |
xing li |
Quan thoại có khuynh hường: X =>
H |
không khí |
kong kih |
kongqi |
âm /k/ trong tiếng Tàu bao gồm
/kh/ |
kén (chọn) |
GKieng |
xuan |
/gK/ phát âm giữa /g/ và /K/ |
nguyệt (tháng) |
Guet |
yue |
Quảng Đông: yuht |
Ô (dù) |
hOh-san |
Yu-san |
hOh = Yu = yũ = mưa. 'san' có
nghĩa 'che'. 'Ô' bắt chước 'hOh' (PK), 'Dù' = Yu (QT) |
học đường |
houh dang |
xue xiao |
xue xiao= học hiệu |
quê (làng) |
Gkue |
cunzi |
cunzi= thôn tử= chyun (QĐ). gKue
=> Kẻ =>quê=> Kuel (Mường). Mă Lai => T'lang |
quảng (rộng) |
kuah' |
Kuo de |
từ ‘Hán Việt’ ‘quảng’ thật ra
gốc ‘Mân’ |
sau (về sau) |
i'au |
yi hou |
yi hou = dĩ hậu. ‘I’au’ có âm
giống ‘sau’ |
sợ hăi (kinh) |
g-kianh |
hai pa |
gkianh = kinh sợ. /gk/ phát âm
giữa /g/ & /k/ |
tranh (họa) |
Tsiong |
huar |
QĐ => wa. Tiếng Mường: Wă => Wẽ:
Vẽ |
trạm cảnh sát |
gkieng-chat-gkiek |
Jing cha ju |
cảnh sát cục = cảnh sát cuộc |
quần |
Gkun |
qunzi |
QĐ: qwahn => quần; PK: gKun =>
củn |
mắt kính |
bahk-gKianh |
yen jing |
QĐ: ngahn geng. Âm /bahk/ giống
/mahk/ |
vải vóc |
Boh |
bu |
boh => biok (vóc), đọc theo Nam
bộ |
khoẻ (dũng) |
'Iong |
xiong |
xiong=> hùng. 'iong => dũng.
Yũng => iong |
chân (cẳng) |
ka-tui |
zu |
zu => túc. Ka => cẳng. Tui =>
túc |
Từ bảng đối chiếu ‘Mân-Việt’, có thể
ghi lại một số nhận xét sau:
(a)
Một số từ Phúc Kiến, rất giống tiếng Việt. Ta để
ư, khi th́ tiếng Việt giống Hẹ, khi giống Quảng Đông, khi giống Phúc Kiến.
Nhưng lúc từ nào đó giống Phúc Kiến chẳng hạn, rất ít khi lại giống luôn cả
Hẹ, hoặc Quảng Đông, Thượng Hải (Ngô), hay Quan thoại. Đôi khi, một dạng
giống Hẹ, dạng khác giống Phúckiến: Gả => Ga (Hẹ) => Kẻ (Việt) => [Ke]
(Phúckiến). Nhưng [gả] = [kẻ], khác [jia] qt.
(b)
Có nhiều từ xưa cũ tiếng Việt, rất giống tiếng
Phúc Kiến. Đó là: làng (kẻ), béo (bui), quần (củn, gKun),
chim (chiau), cũ (Ku), tôi (wa => 'wa' tiếng Mường, 'qua'
Nam bộ, watashi tiếng Nhật), sợ (kinh), v.v.
Đặc biệt để ư đến KẺ. Nhiều học giả Việt đă để ư đến từ
này, nhưng có thói quen quan sát qua từ 'Hán Việt' tương đương 'Cổ': Cổ
Nhuế, Cổ Chiên. Nếu quan sát 'Kẻ' trực tiếp, người ta ưa nhắc đến 'Kẻ Chợ'
tức thành Thăng Long. Quan sát của chúng tôi, xuyên qua các phương ngữ các
tộc Việt cổ ở pên Tàu cho biết một sự việc khá bất ngờ: 'Kẻ' đọc theo tiếng
Mường là 'Kuel', và tiếng Mân: 'gKue'. Âm [gK] giống [g] và [K], nhưng cũng
rất giống [Q]. Như vậy 'Kẻ' chính là ‘gKue’ hay 'Quê'. ‘Kẻ’ và ‘Quê’ là hai
từ mang cùng gốc. Tương đương: 'T'lang' tiếng Mă Lai. Kẻ= gKue= Quê= Làng=
T'lang.
(c)
Những từ xuất hiện khi bắt đầu có tí văn minh:
tháng (nguyệt= guet), học đường, chọn (kén), đũa (đuu)… cũng đều có
chung gốc với tiếng Phúc Kiến.
(d)
Những từ liên hệ với nền văn minh trong vài thế kỷ
qua: hộ chiếu, thêu, mắt kiếng, không khí, bị (bịch), cảnh sát cuộc, v.v.
cũng tương ứng với những âm giống giống của Phúc Kiến.
(e)
Đặc biệt, tiếng Mân cho thấy khuynh hướng mô thức
chuyển biến giữa cặp âm [m] và [b], cặp [d] và [t] (tắc âm nứu). Một chuyện
ắt có, đối với các thứ tiếng không dùng kiểu ráp mẫu tự như quốc ngữ, với
a-b-c. Thí dụ về biến thái giữa [d] và [t]: Phiên âm Wade Giles dựa trên
phát âm Hokkien: Mao Tse Tung, Teng Hsiao Ping; khác với phiên âm
pinyin ngày nay: Mao Ze Dong, Deng Xiao Ping. [T] => [D]
(f)
Đổi mới chia sẻ chung giữa tiếng Mân và Việt, rơ
rệt nhất, mà các tôn sư đă kí âm ngay vào quốc ngữ, chính là âm đầu từ của
chữ Y-dài: Yao (qt) => iau (pk) => Yêu (Việt), đọc lột luôn âm [yờ] ở đầu,
thành ra => iêu. Yũ (mưa, yusan: cây dù, ô) => Ô-san (pk) => Ô. ‘Ô’ chính là
[yô] trại từ [yu], bị lột mất âm [yờ]: [yô] biến thành => Ô. Thật ra cả hai
‘yu & ô’, chỉ mang nghĩa ‘mưa’. ‘San
伞’
mới chính là ‘dụng cụ’ để che mưa, viết chữ Tàu rất giống cái ‘ô‘ (dù):
伞.
(g)
Đổi mới chia sẻ, cũng khá đặc trưng, chính là biến
đổi âm [F] quanthoại sang [H]-phúckiến, [F]-Nhật, và [PH] trong tiếng Việt.
Gong fen (công PHân, cm) => gKong Hun (pk). Yuan fen (duyên phận) => wan Hun
(TC). Zheng Fu (chính phủ)=> tsieng Hu.
(h)
Một đổi mới nữa, cũng chỉ chia sẻ giữa PhúcKiến và
Việtngữ: [J] quanthoại => [K] phúckiến và Việtngữ. Thông thường,
[J]-quanthoại=> [GI] Việt: jiang: giang. Nhưng một khi [J] quanthoại tương
ứng [K] phúckiến, nó cũng ưa chuyển thành [K] tiếng Việt: jing=> keng (pk)=>
kinh (đô). Jiao (cầu)=> kiau (pk)=> kiều (cầu).
(i)
Quan trọng nhất, chúng ta đă và sẽ thấy, rất nhiều
từ, xưa nay thường xem thuần Nôm hay Hán-Việt, thật ra không thuần Nôm, hay
gần Hán, tí nào hết. Đó chính là những từ thuần Việt, của các tộc thuộc khối
Bách Việt xa xưa. Thí dụ: Fei (qt)= Phi (Bay, V)= B-pe (TC & PK): B-p đọc
giữa B và p. ‘Phi’, Phúc Kiến đọc giống như ‘Bay’. BAY: một từ tưởng ‘thuần
Nôm’, nhưng không Nôm, thật ra chỉ là biến dạng âm-vị của ‘Fei’ hay ‘Phi’,
hoặc ‘Bpe’. Thí dụ khác: ‘quần’ phát âm có vẻ y hệt ‘gKun’ Phúckiến, tương
đương: [qun zi] quanthoại. ‘Quần’ cũng không Nôm.
Có một phát hiện khác hết
sức gay cấn đă tŕnh bày trong loạt bài ‘Từ chữ Nôm…’ cho thấy một từ tiếng
Việt có phát âm kiểu phía Bắc chỉ giống phát âm Phúckiến-Triềuchâu và của Hẹ
mà thôi. Chứ không giống quanthoại, HảiNam, Quảng Đông hoặc Chiếtgiang ǵ
hết. Đó là DUY, phát âm đúng nhất: ‘Dzuy’. ‘Dzuy’ mang nghĩa: ‘nối liền’
维
(duy tŕ), hoặc: ‘chỉ có’, ‘thiên về’, ‘duy nhất’:
唯
hay
惟
như trong: Duy Vật,
Duy Tâm, … Quan thoại đọc [Wei], chứ không phải [Yei] hay [Yui]. Quảng
Đông cũng [Wei]. Hải Nam: [Uy]. Thượng Hải-Chiết Giang: [Uw]. Hakka (Hẹ)
miệt Meixian thuộc tỉnh Quảng Đông: [Vui]. Thật lạ, các tôn sư quốc ngữ hoặc
tiền nhân đă chôm âm DUY từ ở đâu - khiến DUY có vẻ không đồng thuận với các
âm Hán chung quanh? Đây cũng một thắc mắc khá nhức đầu. Tự nhiên có một từ
ngoại lệ không theo quy luật nào cả. Và rất có thể DUY xuất hiện từ lâu,
ngay từ thời mấy ông thánh hiền Tàu cho tung ra bao nhiêu triết thuyết, lời
dạy khuôn vàng thước ngọc lưu lại muôn đời.
Hay không bằng hên, qua một người
bạn Triều Châu chính gốc chúng tôi biết được: DUY được phát âm ‘Jzuee‘
trong tiếng Triều Châu – Phúc Kiến. Chỉ có người Triều Châu - Phước Kiến
và người Hẹ ở Taiwan (mang ảnh hưởng dân Mân) mới đọc Dzuy như kiểu Việt. Hẹ
(Taiwan) đọc DUY như [zu’iux] theo một từ điển trên mạng. Những phương ngữ
khác của tiếng Hoa đọc theo âm chữ /W/: [Wei] hay [Wui]. Thật ra ‘DUY’ là
một từ thật hiếm gốc ‘Hán Mân’ hay ‘Hán Hẹ’ chúng tôi đă xác định được mang
phát âm ‘Dz’ của người Việt cổ, do ảnh hưởng Phúc Kiến-Triều Châu. Những từ
khác ở tiếng Việt mang âm chữ ‘D’ ở đầu rất khó khẳng định ngày trước phát
âm theo ‘Dz’ hay ‘Y’. Thông thường 50:50 theo kiểu người Hakka và Hải Nam
(xin xem các bài trước), y như phân cực Bắc Bộ (Dz) và Nam Bộ (Y) ngày nay.
Như vậy tiếng của người nước Nam từ
ngàn xưa đă có mối liên hệ thật chặt chẽ với Hoa ngữ, đặc biệt thứ Hoa ngữ
xuất phát từ xứ Mân Việt cũ, tức Phúc Kiến - Triều Châu ngày nay. Mối liên
hệ này thật sâu sắc. Bởi hơn cả tiếng Quảng Đông, dù gần gũi ở mặt địa lư,
và quan thoại, qua quan hệ chánh trị, liên hệ Phúc Kiến (Mân Việt) đi sâu
đến lời ăn tiếng nói của người nước Nam, từ thời cổ đại cho đến thế kỷ 19.
Riêng trong khối Lạc Việt, tức không kể đến Âu Việt (Thái cổ), ảnh hưởng
tiếng Mân trên tiếng Việt có lẽ, nếu thua, chỉ thua nhóm Bách Bộc tức Hakka
hay Hẹ mà thôi.
Ghi Chú
[1]
www.culturalprofiles.org.uk/Viet_Nam/Directories/Vi_ACYAIw-7879_ADs-t_Nam_Cultural_Profile/-3590.html
[2]
http://berclo.net/page00/00en-sea-people.html
[3] B́nh Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc
Mă Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu, tái bản tại Hoa Kỳ.
[4] Ngô Sĩ Liên và cộng sự (1497).
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Thanh Việt và Phạm Ngọc Luật hiệu đính theo bản
dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xă
Hội Việt Nam được tŕnh bày đầy đủ trên mạng internet:
perso.wanadoo.fr/charite
[5] Để ư điểm khác biệt văn hoá:
Người Anh-Mỹ ưa gọi 'nhà tôi', tức 'vợ tôi' bằng 'my other half' hoặc 'my
better half', mang nghĩa 'phần nửa kia tốt hơn tôi'. Có thể có liên hệ đến
câu chuyện Chúa Trời tạo dựng nên Adam và Eve, theo thánh kinh Cựu Ước.
[6] Để ư tiếng Chăm, có thể gọi hậu
duệ của Môn Khmer, chỉ có 4 thanh âm (dấu); tiếng Khmer hiện nay không có
phân biệt thinh; tiếng Quảng Đông, Thái, Mường có 5 thanh âm. So với 6 thanh
trong tiếng Việt. Thiếu thốn phân biệt hỏi (?) ngă (~) trong giọng nói của
người Trung và Nam bộ, theo thiển ư, là một chuyện khá hiển nhiên.
[7]
http://www.economicexpert.com/a/Fujian.htm
[8] Thời tiền chiến, tại Việt Nam
phát âm [ph] hăy c̣n khác với phát âm [f] như ngày nay. Âm [PH] thật ra là
âm [P]-kéotheo-hơithở-[H]. Rất gần giống tiếng Anh: pen, poor, possible,...
Trong khi âm [P] trơn, tiếng 'Việt quốc ngữ' không có. [P]-trơn trong tiếng
Anh không mang hơi thở, như: spear, spit, span, ... Trong băng video 'Vân
Sơn in Bangkok', người ta thấy ở phần cuối, trong phóng sự những người Việt
chạy giặc thời xưa sang định cư ở Thái, một ông cụ phát âm [ph] rất chuẩn
theo kiểu [P]-hơithở, trong những từ như: phương pháp, phong phú, v.v.
[9] David Bradley, Jason Roberts,
Joe Cummings, Anita Ramly, Paul Woods, Kristina Sarwao Rini, Jonh U Wolff
and Nguyen Xuan Thu (1997) Southeast Asia Phrasebook. Lonely Planet
Publications Pty Ltd
[10] Vicky Bowman (2001) Burmese
Phrasebook. (3rd Ed). Lonely Planet Publications Pty Ltd
[11] Những đợt di dân sau thế kỉ 15,
tức sau thời nhà Minh bên Tàu và nhà Hậu Lê tại nước Nam, có thể được sắp
xếp vào phần ngoại kiều. Bởi vào lúc đó dân tộc Việt (Nam), có thể nói, đă
hoàn toàn h́nh thành.
|