|
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (13):
Nôm-na từ thuở Tây Thi
Nguyên Nguyên
Qua những bài trước chúng ta đă thấy ảnh hưởng hay đóng góp của nhóm dân
Lạc Việt từ hai xứ Ngô (Phù Sai) và Việt (Câu Tiễn / Tây Thi) trên tiếng
Việt có vẻ hết sức khiêm nhường so với hai nhóm Việt khác: nhóm Đông Di hay
Bộc từ miền Sơn Đông, có hậu duệ bên Tàu là người Hakka (Hẹ) ngày nay, và
nhóm Mân, từ khu vực Phúc Kiến-Triều Châu. Chúng ta có thể viện dẫn nhiều lư
do để giải thích cho hiện tượng này, như sau.
- Khoảng một thế kỷ, sau khi Việt đánh bại và chiếm được xứ Ngô, nước
Việt mở rộng bị nước Sở từ phía Tây đến dứt điểm vào năm 333 TCN. Từ dạo
đó cho đến lúc nhà Hán xua quân tiến chiếm các xứ miền Hoa Nam, như Mân
Việt và Nam Việt, phong trào chạy loạn, di cư xảy ra khắp mọi nơi trên
nước Tàu. Đặc biệt Hoa tộc hoặc các nhóm du mục Đông Di, như người Bách
Bộc (tức Hakka và Hmong sau này), chạy từ miệt Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây &
Sơn Đông xuống miền Giang Tô & Chiết Giang. Một số đông khác xuôi hướng Hồ
Bắc, Hồ Nam và Giang Tây. Trong khi dân Giang Tô-Chiết Giang (tức Ngô &
Việt) chạy xuống xứ Mân hoặc qua miền Đông Việt, tức Giang Tây ngày nay.
Do đó, rất có khả năng có hiện tượng dân xứ Việt của Câu Tiễn, đă di tản
sang xứ Mân và các vùng lân cận, rồi định cư, sinh sống tại các nơi đó một
thời gian, cũng hằng trăm năm, trước khi chạy tiếp đến nơi khác, như Việt
cổ chẳng hạn.
- Ảnh hưởng phương ngữ Bách Bộc (Hẹ) và Mân (Phúc Kiến) trở nên đậm nét
trong tiếng Việt (Nam), đặc biệt ở khu lưu vực sông Hồng, một phần lớn nhờ
ở hai triều đại tự chủ kéo dài khá lâu xử dụng hai thứ phương ngữ đó: nhà
Lư (1010-1225) và nhà Trần (1225-1400). Mỗi triều đại kéo dài khoảng 200
năm. Nhà Lư chính là hậu duệ đám Bách Bộc từ khu Sơn Đông, trong khi nhà
Trần có gốc gác ở xứ Mân.
- Di dân xứ Ngô và Việt mang đến ảnh hưởng ít hơn trong tiếng Việt, cũng
bởi giới ê-lít của họ 'nắm được' chính quyền hơi trễ và chỉ trong một thời
gian ngắn ngủi: nhà Hồ (1400-1407) với Hồ Quư Ly và nhà Tây Sơn
(1789-1801) với Quang Trung Nguyễn Huệ. Cũng vào lúc nhà Hồ và Tây Sơn nắm
chính quyền, nhất là vào thời Tây Sơn, chuỗi tŕnh tiến hoá h́nh thành dân
tộc và tiếng nói người Việt được xem như đă hoàn tất.
Gần đây, LaPolla [1] cho một bài viết khá chi tiết về các đợt di dân từ
vùng này đến vùng kia trên khắp nước Tàu, từ thời Thượng Cổ cho đến thế kỷ
20, và ảnh hưởng kèm theo đó, trên ngôn ngữ. Chúng ta có thể để ư đến 2 điểm
khá quan trọng. Thứ nhất, dân nói tiếng phương Bắc tràn vào phía Nam: Nam
Kinh (Giang Tô - An Huy) trở thành kinh đô của nước Đông Tấn (317-420) và
Nam triều (420-589). Trong khi Hàng Châu (Chiết Giang) ghi nhận du nhập của
rất nhiều người di tản từ phía Bắc khi nhà Tống dời đô đến đó vào năm 1127.
Thứ hai, những vùng đất chung quanh thành phố Bắc Kinh luôn bị xâm nhập và
nhận di dân từ những tộc người phía cực Bắc như Măn Châu và Khiết Đan. Nhiều
đến nỗi sử sách phải ghi nhận rằng trong suốt 1000 năm qua, chỉ trừ thời đại
nhà Minh kéo dài khoảng 300 năm, thành phố Bắc Kinh luôn được xem là thủ đô
chính trị của những tộc người khác với Hoa tộc. Tức phát âm theo kiểu Bắc
Kinh cũng như rất nhiều từ vựng tiếng quan thoại không nhất thiết là của
người Hoa 'chính cống' ngày xưa, hay đă biến đổi rất nhiều trong thiên niên
kỷ vừa qua. Ngược lại, giọng nói các phương ngữ vùng bờ biển phía Nam lại
mang ít nhiều ảnh hưởng của Hoa tộc thuần túy chạy giặc từ phương Bắc.
Cũng trong một bài trước, chúng ta đă xác nhận thêm một lần nữa, hai điểm
rất quan trọng, như sau:
1. Nhiều từ trước giờ vẫn tưởng thuần Nôm, nhưng thật ra thuần Hẹ, thuần
Mân hoặc thuần Ngô. Thuần Nôm, theo quan điểm thông thường, là tiếng nói
riêng của người bản địa, tức thứ tiếng Việt không có dấu vết của chữ Hán.
Theo 'truyền thuyết giải mă' ở đây, chỉ có tiếng Thái cổ và Môn-Khmer mới là
tiếng Nôm nguyên thủy và cơ bản. Xin tạm gọi tiếng Nôm lớp dưới cùng. Tiếng
Nôm lớp trên thật ra lại là thứ tiếng Nôm do các nhóm di dân thuộc khối Bách
Việt, như Âu-Việt (Lưỡng Quảng), hay Lạc Việt thuộc Hẹ-cổ, Mân, Ngô, từ nước
Tàu mang đến.
2. Tiếng Hán Việt cũng vậy. Cũng là một số rất lớn các từ vựng của các
nhóm Âu và Lạc, đa số Lạc Việt, đă từng được xử dụng bên Tàu trước khi nhập
khẩu vào xứ Việt cổ. Quan điểm này khá mới mẻ, bởi theo thiển ư, chuyện
tiếng Việt có hơn 60% những từ mang gốc Hán (thường gọi 'Hán Việt') được xử
dụng rất thoải mái tại Việt Nam từ xưa đến nay, có thể được lư giải khá hợp
lư, qua giả thuyết cho rằng tiền nhân xứ Việt, đă từng xử dụng những từ mang
'gốc Hán' này, ngay từ thời họ c̣n ở bên Tàu.
Thật ra hai điểm trên ngày trước đă được Lê Ngọc Trụ đề cập đến, trong
hoàn cảnh hạn hẹp, thiếu thốn phương tiện, nhất là kiểm chứng với các phương
ngữ của khối Bách Việt cổ, hoặc nhóm Hakka. Nhưng quan điểm của học giả họ
Lê thật ra khác với những lư giải tŕnh bày trong loạt bài này [11]. Theo
[6] và [10], Lê Ngọc Trụ cho rằng những từ Nôm đều mang gốc Hán, hoặc biến
chuyển từ Hán tự, dựa trên tiếng 'Hán Việt'. Thí dụ:
- 'Ch́m' xuất phát từ 'trầm';
- 'Trễ' xuất phát từ 'trệ';
- 'Đâm' biến đổi từ 'châm',
- 'Giặc' có gốc là 'tặc', v.v.
Khác biệt với 'lí thuyết' ở đây:
- Không phải từ Nôm nào cũng mang gốc Tàu. Chúng tôi phân biệt và tách
ra được tầng lớp Nôm na ở dưới cùng của hai nhóm bản địa lâu đời nhất: Môn-Khmer
và Thái cổ. Thí dụ: Chân/Cẳng => Jeung (Khmer) / Kaat (Chăm-pa) / Ka (Phúc
Kiến). Cơm/Gạo => Kow (Thái) mang âm nằm giữa 'cơm' và 'gạo'. Hoặc /cơm/,
/gạo/ và /kow/ chỉ là 3 lối kí âm khác nhau của một âm vị duy nhất của tộc
Thái xa xưa;
- Thứ gốc Hán mà Lê Ngọc Trụ đề cập đến, đa số, thật ra không Hán chút
nào hết. Chúng là những từ thuộc các thứ phương ngữ Bai-Yue (Bách Việt).
Hán luôn có những từ rặc Hán, cùng mang một nghĩa. Thí dụ: Xuyên= Sông =>
tson (Hakka) => Chhoan (Mân) => xyun (Quảng Đông) => ts'uan (Ngô) => Chuan
(quanthoại) => Sungai (Mă Lai) => XUYÊN ('Hán Việt') { 川 }. 'Xuyên' mang
gốc 'Bách Việt' chứ không phải Tàu. Chữ tương đương của người Tàu: Hà =>
He { 河 }. Thí dụ khác: Bích= Vách (tường): 'Vách' là tiếng Nôm 'Hẹ': [Biak]
rất giống phát âm Nam Bộ, [Biách]. Các phương ngữ khác: Bik (Quảng Đông)
sinh ra 'Bích' ('Hán Việt') => pI? (Ngô) => piah (Mân/Phúckiến) => Bi (quanthoại)
{ 壁 }. 'Bích' và 'Biak' thật ra chỉ là hai cách phát âm khác nhau của 2
nhóm Bách Việt, chứ không phải Hán.Tiếng Tàu tương đương với ‘Bích’:
'Tường' => [qiang 墻 ].
Tiện dịp chúng tôi xin đưa ra thêm một vài thí dụ minh giải hai điểm quan
trọng trên.
Cưới vợ - lấy vợ - gả chồng
Từ thuần Hán nhất của 'cưới vợ', 'lấy chồng' chính là: 'kết hôn', phát âm
theo quanthoại: jie-hun { 結婚 }. Phát âm rất gần với 'kết hôn' chính là phát
âm Hẹ và Mân: [Kiat hun (hay 'get fun')] kiểu Hẹ; [kat hon] kiểu Mân (Phúckiến).
Tiếng Việt c̣n có 'gả chồng' mang nghĩa 'gả con gái cho một người đàn ông
nào đó làm chồng'. Mới nh́n ai cũng tưởng 'Gả' là một từ thuần Nôm. Nhưng
không, 'gả' thật ra thuần Hakka. Tiếng Tàu viết bằng 'Nữ'+'Gia': 嫁 đọc theo
quanthoại là [jia], 'Hán-Việt' thành [giá] (giấy hôn nhân giá thú). Theo Hẹ
thành [ga] giống như [gả] tiếng 'Nôm'. Phương ngữ Ngô (Chiếtgiang/Thượng Hải)
đọc thành [ka] và Mân (Phúckiến) đọc [ke]. Để ư, tiếng Khmer của 'kết hôn'
hoặc 'cưới' là [kar]. Chúng ta thấy rơ, [kar] Khmer rất gần [ka] Ngô-Việt,
và [ke] Mân Việt. Và [ka] hay [ke] rất dễ chuyển âm sang [cưới]. Như vậy
trong tiếng 'Nôm', [gả] và [cưới] viết chung 1 tuồng chữ Hán: 嫁 [giá] => {xuất
giá}. Nhưng [gả] xuất xứ từ nhóm Hẹ (nhà Lư), và dùng cho phái 'nữ': 'gả
chồng', trong khi [cưới] thường dùng cho phái nam: 'cưới vợ', mang gốc gác
từ tiếng Mân (nhà Trần).
Thế 'lấy vợ' lấy ở đâu ra? 'Lấy' tương đương với tiếng Anh: to take.
Quanthoại chính là [qu] 取 , gọi nôm na theo Hán-quốcngữ là 'thủ'. ‘Lấy’ thật
ra là một từ thuần Nôm bản địa ở tầng lớp dưới cùng: Thái-cổ. Tiếng Thái
ngày nay là: [lêuak] => 'lấy' [4].
Xin quansát tiếp 'chồng' và 'vợ'. 'Chồng' xưa nay vẫn thường được xem hết
sức 'Nôm-na'. Nhưng không. 'Chồng' trong tiếng Hán có rất nhiều lối gọi khác
nhau: phu quân, lang quân, v.v. Mỗi phương ngữ có vẻ thích dùng một thứ từ
riêng, y như: hà, xuyên, giang, v.v. dùng để chỉ 'sông'. Một trong những từ
dùng để chỉ 'chồng' khá phổ thông chính là 'trượng', thường gọi chung với 'phu':
trượng phu. [Trượng] là lối kí âm quốcngữ của [zhang] theo quanthoại, [jeung]
theo Quảngđông, [zaz] theo Ngô-Việt, [tiuN] theo Mân, và [Chong] theo Hakka
tức Hẹ. [Chong] không kể đến thinh, có đánh vần y hệt như quốc ngữ [chồng].
Do đó: Chồng <=> [chong] Hẹ <=> [zhang] QT <=> [trượng] quốcngữ 丈 . Cặp tối
đa: [Chồng] Việt= [Chong] Hẹ, cho thấy, một lần nữa, ảnh hưởng rất đậm nét
của người Hakka (tức Hẹ) trong ḷng tộc người Việt-Nam. Và ‘chồng’ cũng
không thuần Nôm, thật ra thuần ‘Hẹ’.
Trong một bài trước, chúng ta cũng để ư tại Inđônêxia, cũng giống như ở
Việtnam, người ta có thói quen dùng 'Nhà tôi' để chỉ 'Vợ tôi'. Nhà tôi:
Rumah Saya; Vợ tôi: Istri Saya. Thông thường, Rumah Saya được dùng luôn cho
Istri Saya. Tức ở Inđônêxia và Việtnam, người ta có thói quen dùng ‘nhà tôi
/ rumah saya’ để chỉ ‘bà boss’ tức ‘vợ tôi’. Trong tiếng Hán, người ta cũng
có thói quen tương tự. Thói quen liên kết người vợ với 'mái nhà'. Tiêu biểu
trước hết là từ 'AN' trong hai chữ 'b́nh an'. AN được viết theo Hán tự bằng
'mái nhà che lên người nữ' 安 , y như hàm ư 'chỉ khi có phụ nữ trong nhà, nhà
mới thật ... an b́nh'. Một ư niệm thời Mẫu Hệ. Rất nhiều từ mang nghĩa 'nhà',
nhất là 'pḥng', cũng được dùng để chỉ 'Vợ'. Thí dụ: Thất => shi 室 => nhà /
pḥng => 'vợ'. Pḥng => fang2 房 = nhà/pḥng/buồng, cũng dùng để chỉ 'vợ'
[8]. Đặc biệt trong tiếng Hmong (Miêu-Dao), từ mang nghĩa 'vợ' chính là 'po
nia', với 2 âm [po] và [nia] rất gần [vợ] và [nhà]. Tiếng Thái Lan:
Mia, hay: penaya; Myanmar: măya; Khmer: priya, hay Măai, v.v..
Nhưng trước khi quansát tiếp 'vợ' biến chuyển hoặc mang cùng gốc với từ
nào trong hàng chục phương ngữ Âu-Lạc khác nhau, chúng ta hăy truy tầm ở
thời chưa có quốcngữ, 'vợ' thông thường đă được phát âm ra sao?
Người Mường có 2 cách phát âm 'Vợ': [byợ] và [vợ]. [Byợ] giống kiểu Nam
và [Vợ] theo kiểu Bắc. Tra từ điển tiếng Nôm của Vũ Văn Kính, ta thấy [vợ]
có lối đánh vần chữ Nôm gần như luôn luôn dựa vào âm đầu 'hai môi' tỏ [B].
Tức, thời chưa có quốcngữ, người nước Nam thường phát âm [vợ] như [bợ] hay [byợ].
Một cách nômna hơn, đánh vần chữ Nôm cho biết [vợ] đại khái được viết theo
những kiểu thông dụng như sau:
(i) Vay mượn âm Hán [thê] 妻
(ii) Kẹp chữ [Thê] 妻 với [Bị] 備 . [Thê] cho nghĩa, [Bị] cho âm [B]: 妻備 =>
[bợ]
(iii) Viết liền hai chữ [Nữ] 女 và [Bị] 备 với nhau: 女备, mang âm đầu [B] =>
[bợ]
Tức thời chưa có quốcngữ, [vợ] thường được phát âm như: [bợ] hay [byợ].
Do đó khi truy tầm từ cùng gốc với [vợ] chúng ta bắt buộc phải xem xét
những từ thuộc các phương ngữ mang âm đầu bằng [B] hay [P].
Có rất nhiều phương ngữ, đúng hơn tiểu chi phương ngữ, có từ mang nghĩa /vợ/,
với âm đầu giống [B], rất có khả năng cùng gốc với [bợ] hay [vợ]:
- tiếng Ngô-Việt (Thượng Hải): lao bo => bo => bợ => vợ
- tiếng Triều Châu: cha bau => bau => bợ => vợ
- tiếng Mân: pong / bou => bợ => vợ
- tiếng Hakka (Hẹ) gọi 'vợ' bằng: pu-ngiong, mang âm đầu [p]: Pu => Po =>
Bo => Vợ
Cũng ở khía cạnh phương ngữ của người Hakka (Hẹ), xin để ư đến từ 'Ốc'
tức quanthoại [Wu] 屋 dùng để chỉ cả 'nhà' lẫn 'pḥng', thí dụ: địa ốc. Theo
với ư niệm 'nhà' gắn liền với 'vợ', ta có thể thấy phát âm tương đương của [ốc]
tức [wu]-quanthoại, theo phương ngữ Hakka (Hẹ) chính là: [Vuk] hay [Vu],
theo thinh thứ 3. [Vu] trong tiếng Hẹ đôi khi được dùng để chỉ 'nhà tôi' tức
'Vợ tôi', hay 'Vợ'. [Vu] có thể biến thái sang [Vợ] rất nhanh và dễ dàng.
Nói một cách khác, [Vu] và [Vợ] chỉ là 2 lối kí âm hơi khác dùng cho một âm
vị duy nhất của một vài nhóm Hẹ-cổ nào đó, mang nghĩa: 'vợ'.
Như vậy cả hai 'Vợ' & 'Chồng' ngày xưa đều mang gốc gác ở các phương ngữ
Hoa Nam.
Ăn Uống
Nếu có những động từ nào người Việt thường đoan chắc 'thuần Nôm', 'Ăn' và
'uống' phải đứng hàng đầu. Nhưng thật ra: Không hoàn toàn như vậy. 'Ăn uống'
vừa thuần Nôm - tầng lớp Môn-Khmer, vừa thuần Hán kiểu Lạc Việt, vùng bờ
biển phía Đông.
* Nôm kiểu Môn-Khmer: ma-ka?ân / ka?ân / ?ân [5] => giống Mă-Lai: makAn
=> ăn
'Uống' tiếng Khmer phát âm như [pwk], rất giống [ực] tiếng Việt.
Để ư trong tiếng Thái-Lan: Ăn => [Gin], Uống => [Deum].
* Quansát các từ chỉ 'Ăn' và 'uống' trong các phương ngữ 'Lạc Việt':
Hán |
Việt |
Hẹ |
Q. Đông |
Q.Thoại |
Ngô |
Mân |
Ghi-chú |
食 |
thực |
sit |
sik |
shi |
za? |
chiah |
= sực |
吃 |
ngật |
ngat |
gat |
chi |
tshiơ? |
khit |
ăn |
喝 |
hát |
hot |
hot |
he |
hok |
hat |
uống |
用 |
dùng |
jung |
yung |
yong |
iong |
eng |
ăn & uống* |
飲 |
nhẩm |
jim/lim |
yam |
yin |
yin |
i-ing |
ẩm (uống) |
呷 |
hạp |
hap |
haap |
xia |
hop |
hap |
hớp / hút |
茹 |
như |
ri / ji |
yue |
ru |
nyo |
ju |
nhấm / ăn |
餌 |
nhĩ |
nhiap |
nei |
er |
** |
ji |
nháp / ăn |
饈 |
tu |
siu |
sau |
xiu |
** |
** |
ăn |
蝕 |
thực |
set /sat |
sit |
shi |
za? |
sih |
xơi => thời |
口焦 |
tiêu |
ts'iau |
jau /jiu |
jiao |
** |
** |
ăn chậm |
Trong bảng đối chiếu phía trên, cột 'Việt' bao gồm lối đánh vần quốcngữ
của những từ thường gọi Hán-Việt. Cột 'Ngô' dùng để chỉ phương-ngữ Wu tức
Ngô của miền ChiếtGiang-GiangTô. Dấu ** cho biết phương ngữ không dùng những
từ này.
Từ bảng đối-chiếu các từ Hoa-Nam dùng để chỉ chuyện 'ẩm-thực', ta có thể
đi đến một số nhận xét như sau:
- Cũng giống như thí dụ về 'vợ-chồng', phương ngữ này thích dùng từ này,
phương ngữ kia lại quen dùng từ kia. Thí dụ: Quảng Đông và Hẹ thích dùng [sik]
hay [sit] 食 tức [xực] để chỉ 'ăn'; trong khi Quan-thoại ưa dùng [chi] tức
'ngật' Hán-Việt: 吃 .
- Rất nhiều từ 'Hán-Việt' có lối phát âm y hệt trong phương ngữ Bách
Việt. Thí dụ: 'Ngật' tức [Chi]-quanthoại, có phát âm y hệt: [ngat] trong
tiếng Hẹ. [Hát]-HánViệt phát âm như [He]-quanthoại, mang nghĩa 'uống', 'hớp',
tương đương phát âm [Hat] trong tiếng Phúckiến (Mân): [Hát] Việt => [Hát]
Mân.
- Rất nhiều từ trông có vẻ rất Nôm-na, nhưng lại mang gốc 'Hán-Việt' Hoa
Nam. Thí dụ: 'Nhấm nháp' chỉ lối ăn nhâm nhi, chầm chậm, có từ Hán tương
đương: [như] và [nhĩ]. Đặc biệt [nhĩ] tức [nháp] giống y hệt phát âm tiếng
Hẹ: [nhiap].
- Nhưng quan trọng nhất: 'Ăn' và 'Uống' lại xuất phát từ một từ Hán dùng
để chỉ cả hai động tác: [Yong]-quanthoại, tức 'dùng': 'Thưa bà, bà muốn
dùng thứ chi?'. [Dùng] ở đây bao hàm luôn 'dùng thức ăn' hay 'thức uống'.
Khi [Yong] chuyển sang tiếng Ngô, âm [Y] đầu bị lột mất, thành ra âm [I]-ngắn,
y hệt như tiếng Việt. [Yong] trở thành [I-ong] rất dễ chuyển thành, hay
mang cùng gốc với [uống]. Tương tự, sang tiếng Mân (Phúckiến), [Yong]-quanthoại,
tức [Dùng]-Việt, biến thành [Eng], sau khi bị lột mất âm đầu [Y]. 'Eng
không eng taét đèn đi ngủ?', chính là phương ngữ Mân chạy đến xứ Việt,
qua từ [Eng]-Mân, tức [Ăn]-Việt. [Ăn]-Việt cũng có bà con gần với [?ân]
thuộc tiếng bản địa Môn-Khmer.
TÓM TẮT: [Dùng] một từ mang hai nghĩa: 'ăn' và 'uống', có tương đương
100% trong tiếng Hán: [Yong]. Sang tiếng Ngô, thành [i-ong] sinh ra [uống].
Qua tiếng Mân biến thành [Eng] tức [Ăn].
- Những từ Hán tuy cùng mang nghĩa 'ăn' hay 'uống', nhưng cách thức ăn
hoặc uống thường khác nhau. Đặc biệt nhiều phương ngữ không xử dụng từ này
hoặc từ kia. Y như trong tiếng Việt, khi dùng hơi trang trọng, ta dùng:
DÙNG chứ không xài 'Ăn' hay 'Uống' như kiểu b́nh dân. Cũng giống như 'Xơi'
(Bắc) hay 'Thời' (Trung). Thế 'Xơi' và 'Thời' xuất phát từ đâu? Trước hết
như loạt bài 'Từ chữ Nôm...' đă nhận xét, có một quy luật hoán chuyển, âm
đầu [X] hay [SH] hay [CH] của Tàu sang tiếng Việt thành [TH]:
- [Shi] => [Sikh]-qđ => [Xực] => Thực (Ăn)
- [Shui] => [Seoi]-Hẹ => Thủy (nước)
- [Shu] => [Chu]-Mân => Thư (sách:=> thư viện)
Biến chuyển này cũng phản ánh tương tự trong tiếng Myanmar, đă do chính
chánh phủ Myanmar ra lệnh thay đổi cách đánh vần dùng [th] trở lại, thay cho
[s]. Thí dụ:
Bassein => Pathein (tên thành phố), và
Salween => Thanlwin (tên sông).
Chấp nhận [S], tức [X]-Việt, có thể biến chuyển qua lại với [Th] (8) sẽ
cho thấy động từ 'xơi' (Bắc) hay 'thời' (Trung) rất có khả năng xuất phát từ
một hay tất cả những thứ động từ Hoa Nam sau đây:
- Thực => Quảng Đông [xik], Ngô [za?] {âm [?] là tắc âm thanh môn [5]}
- Tu => Hẹ [xiu], Quảng Đông [xau]
- Thực => Hẹ [xat], Quảng Đông [xit], Mân [xih]
Nhất là tiếng Mân [xih] (= thực), rất dễ tiến đến [xơi].
[Xơi] không những có vẻ cùng gốc với âm-vị các phương ngữ Hoa Nam, mà lại
c̣n rất giống với tiếng Khmer có phát âm cho độngtừ 'Ăn': [sIu] (giống Hẹ)
và [biSa].
[Xơi] dễ dàng biến qua [Thời] theo qui luật [X] => [TH], như:
[xực] ó [thực], [xủi] ó [thủy], [xanh] ó [thanh].
Như vậy hầu như tất cả những từ Việt dùng để chỉ ‘ăn’ và ‘uống’ đều cùng
gốc với những từ thuộc các phương ngữ người ‘gốc’ Lạc Việt ở Hoa Nam
Sơ lược tiếng Lạc từ xứ Ngô
Xin để ư những thứ từ mang cùng một nghĩa xuất phát từ các phương ngữ Lạc
Việt:
* Gả / Cưới: Hẹ dùng [ga]5, rất giống [gả]. Trong khi, Phúckiến (Mân)
dùng [ke]3 có phát âm gần với [cưới], và cũng gần tiếng Khmer: [kar]. Tiếng
Nôm bản địa xưa nhất là: [lấy] => 'lấy vợ', mang cùng gốc với tiếng Thái: [lêuak].
Có thể nhận xét một vài điểm khá đặc trưng như sau:
- Từ đến sau, như 'gả' (Hẹ => nhà Lư), 'cưới' (Mân => nhà Trần) được dùng
trang trọng hơn từ bản địa có sẵn: 'lấy'. Không bao giờ người Việt dùng:
'Đầu tháng sau, nhân dịp 'lễ lấy' của con trai lớn chúng tôi, v.v.', mà
lại thích dùng hoặc những từ đến sau, như 'cưới' hoặc Hán-ṛng như:
thành hôn, lễ thành hôn, trưởng nam, v.v.
- Gả / Cưới, từ xưa đến giờ vẫn tưởng 'thuần Nôm', nhưng thật ra 'thuần
Hẹ' và 'thuần Mân'. Tức loại tiếng Nôm, nhập khẩu từ các đám Lạc Việt ở bên
Tàu.
* Xanh lục / xanh lam: 'Xanh' cũng thường lầm thuần Nôm, và 'thanh' Hán
Việt. Thật ra, 'xanh' biến đổi qua lại với 'thanh', theo quy luật 'X' <=> 'TH',
và 'xanh' cũng là một từ Lạc Việt, Triều Châu - một nhóm Mân: [xuênh]. Phát
âm từ tương đương phía quanthoại là [ts'ang] hoặc Hakka (Hẹ) [ts'ong] 蒼 hoặc
quanthoại [qing] hay Hẹ [ts'iang] 青 . Cả hai thứ [ts'ang] hay [qing] tương
đương với [Thanh], và đều mang nghĩa [xanh], hai thứ: 'xanh lục' và 'xanh
lam'. 'Xanh lục' c̣n gọi 'xanh lá cây', và 'xanh lam' là 'xanh da trời'.
Thật ra tiếng Tàu khi phân biệt 'lục' hay 'lam' họ chỉ dùng có một từ 'lục'
hoặc 'lam' chứ không cần phải kèm theo 'thanh' để chỉ màu xanh. 'Lục' 绿 quan
thoại phát âm [lu], tương đương với Hẹ: [luk], quảngđông [luk], Ngô [lo?],
Mân [lek]. 'Lam' 蓝 phát âm theo quanthoại bằng [lan], Hẹ [lam], Quảngđông [laam].
* Dù / Ô: Hai từ này cũng thường lầm Nôm. Thật ra 'jù' và 'ô' chỉ là hai
cách phát âm khác nhau của từ chỉ MƯA dùng bởi người Hẹ: [Yũ] hay [Jũ], và
người Mân: [Ôh]. Dù / Ô là một cặp từ có một lối viết Hán tự chung: [Yu]3 雨
. Tiếng Hán viết thật đúng phải kèm theo chữ 'san' (quốcngữ đọc: [tản]) 伞 ,
mang nghĩa ' vật che': Yu-san hay O-san { 雨伞 } do đó mang nghĩa 'vật che mưa',
tức cái dù, hay cái ô. Để ư dưới sức ép của từ đơn âm, người Hẹ và Mân định
cư ở xứ Việt cổ đă vô t́nh lột mất từ cốt lơi chỉ 'vật che' là 'san' tức 'tản'
mà chỉ để dành một âm duy nhất, nhưng lại chỉ 'Mưa' là [Yu] và [Ô].
Chúng ta thấy được 3 điểm quan trọng về Hán-Nôm:
1. Nhiều từ hằng tưởng thuần Nôm, nhưng thật ra lại thuần Hakka, hoặc
thuần Mân. Rất thường những từ đó chỉ là biến thái của những từ Hán, hoặc
lối gọi một sự vật hay một động tác, v.v. của những người Lạc Việt gốc Mân,
gốc Hakka, hoặc gốc Ngô, ngay từ khi họ c̣n ở bên Tàu;
2. Nhiều từ thường cho là Hán Việt, cũng mang gốc gác Lạc Việt như vậy.
Thí dụ: xuyên (biến thái của [sung] Hẹ, hay [sông], hoặc [chhuan] Mân); Bích
(biến âm của [Bi] quanthoại, [Biak] Hẹ, tức 'vách' tiếng Nôm). Tuy vậy, cũng
có những từ hoàn toàn nhập khẩu từ Hán tộc: 'thành hôn', 'kết hôn' thay v́ 'lấy
chồng', 'cưới vợ', v.v.;
3. Những từ hoàn toàn đồng nghĩa, viết cùng một tuồng chữ Tàu, nhưng lại
có âm vị khác nhau, cho ta thấy dấu vết của đóng góp từ vựng của những bộ
tộc, những tộc người khác nhau vào trong tiếng nói chung, hay ngôn ngữ của
một tộc người hiện đại. Xa hơn một chút, ta thấy số thinh (thanh điệu / dấu)
giữa các tiểu chi phương ngữ (bên Tàu) thường khác nhau, có thể đưa
đến lư giải cho một số hiện tượng trong tiếng Việt, về một số từ nào đó mang
cùng nghĩa tương tự, nhưng thinh lại khác, và nhiều khi đối chọi với nhau.
Thí dụ:
- dải núi => dăy nhà, dăy ghế: [dải] ? & [dăy] ~
- sài => sói: [sài] ` & [sói] '
- đôi ngả đôi ta => ngơ hẻm: [ngả] ? & [ngơ] ~
- băng (thiết băng) => bổng: [băng] ~ & [bổng] ?
- khoảng đường => quăng đời: [khoảng] ? & [quăng] ~
Trong một bài tới, chúng tôi sẽ mượn 12 con Giáp để minh giải thêm 3 phát
hiện quan trọng này, đặc biệt điểm thứ ba, về việc tộc người này gọi một sự
vật hay động tác, v.v. bằng từ này, tộc kia dùng một từ khác.
Trước khi chấm dứt bài này, xin tóm tắt một vài điểm đặc trưng của thứ
tiếng Việt xứ Ngô, tức tiếng nói của khu Chiết-Giang / Giang-Tô ngày nay,
hoặc xứ Ngô của Phù Sai và Việt của Tây Thi-Câu Tiễn vào thời Xuân Thu Chiến
Quốc xa xưa.
1. Tiếng Ngô là phương ngữ lớn nhất nước Tàu - sau tiếng quanthoại
Mandarin, hay tiếng phổ thông. Hiện có đến khoảng 100 triệu người xử dụng
tiếng Ngô.
2. Theo thống kê ghi trên mạng, có tất cả 94 tiểu chi phương ngữ Ngô khác
nhau. Số 'thinh' (thanh điệu / dấu) và phát-âm thinh thường khác nhau, giữa
tiểu chi (phương ngữ Ngô) này với tiểu chi kia. Thông thường tiếng Ngô có từ
6 đến 8 thinh khác nhau. So với quanthoại 4, quảngđông 9, việt (bắc) 6, việt
(trung-nam) 5, thái 5, myanmar 5, v.v. Đặc biệt tiếng Ngô có biến-đổi thinh
sandhi rất phức tạp, so với tiếng quanthoại.
3. Tử Âm (phụ âm) bao gồm
- các âm tỏ: {b d g v z zh dz j r m n l ...};
- các âm điếc không hơi thở: {p t k}.
- các tử âm có hơi thở: {ph th kh}. Đặc biệt ba loại tử âm này {ph, th,
kh}, rất có khả năng mang phát âm giống tiếng Việt. Một trang web về tiếng
Thượng Hải (zanhe.com) nhấn mạnh đừng lẫn lộn âm vị [ph] với âm [f]. Thí dụ:
PH:
- Phi (thường) => Pi (quanthoại) => Phi (Ngô / Thượng Hải).
- Phi (bay) => Fei (quanthoại) => Fi (Ngô)
- Phách (vỡ, đập) => pai (qt) => Pha (Ngô)
- Phổ (thông) => pu (qt) => pu (Hẹ) => phou (Mân) => Phu (Ngô)
TH:
- Thoát (- y, - hiểm) => Tuo (qt) => Thuô (Ngô) {thoát y => tuột quần áo}
- Tả (anh ta, cô ta, y) => ta (qt) => ta (Hẹ) => Tha (Ngô / Mân)
- Thiên (trời) => tian (qt) => t'ian (Hẹ) => thiN (Ngô / Mân)
KH:
- Khách => ke (qt) => kak / hak (Hẹ) => Kha? (Ngô)
- Khẩu (miệng) => kou (qt) => hau (qđ) => Keu (Hẹ) => Khaw (Ngô)
- Khốn (khó khăn) => kun (qt / Hẹ) => kwan (qđ) => khun (Mân) => khuơn (Ngô)
Theo thiển ư, âm vị [ph] của tiếng Việt (xưa) mang ảnh hưởng của tiếng
Ngô và Mân, trong khi [kh] & [th] có thể có cùng gốc với tiếng Mân, Ngô, và
Hẹ.
Âm tỏ [V] có biến thái không hoàn toàn từ [W]-quanthoại như tiếng Hẹ.
Nhiều khi [V]-Ngô tương đương với âm [F]-quanthoại. [V]-Ngô thường biến thái
với [F]-quanthoại, bởi cả hai đều là 'sát-âm' môi răng, một tỏ (v) một điếc
(f).
- Wen (văn) (quanthoại) => ven (Ngô / Hẹ), nhưng:
- Feng (phụng) (quanthoại) => fung (Hẹ) => vong (Ngô)
- Fan (phàn = cơm) (qt) => faan (qđ) => fan (Hẹ) => vE (Ngô)
- Tử âm đầu cũng có cặp {nh ng} giống tiếng Việt và nhiều phương ngữ Lạc
khác.
NH:
- Nhiệt => re (qt) => ngiet / nhiat (Hẹ) => yịt (qđ) => nhI? (Ngô)
NG:
- Ngă (đói) => E (qt) => ngo (qđ) => ngo (Hẹ) => Ngou (Ngô)
4. Mẫu âm (nguyên âm) tiếng Ngô cũng rất thường kết thúc bằng tắc âm
thanh môn (màng họng), rất khác với nhiều phương ngữ khác của tiếng Hoa.
Xin xem qua bảng so sánh các cặp tối đa giữa tiếng Việt và Ngô, đối chiếu
với các phương ngữ Lạc Việt khác.
Việt |
Ngô |
Hẹ |
Q. Đông |
Q.Thoại |
Mân |
GHI CHÚ |
ăn-uống |
i-ong |
jung/yung |
yung |
yong |
eng |
dùng= i-ong = eng |
liềm |
lI? |
liap |
lap |
li |
liap |
liếm-láp |
thỏ |
thu |
tu |
tou |
tu |
thou |
thố |
mắt |
mo? |
muk |
muk |
mu |
bak |
[m] => [b] Mân |
cố / cũ |
ku |
gu |
gu |
gu |
kou |
cũ = ku (Ngô) |
bạn hữu |
ban hiw |
pen jiu |
pang-yau |
peng-you |
pang-iu |
giống Ngô nhất |
hổ / khổ |
khu |
ku |
fu |
ku |
khou |
hổ qua = mướp đắng |
tiếu |
sio |
siau |
siu |
Xiao |
chhiau |
tiếu = cười |
ông |
Ong |
vung |
ung |
wung |
ang |
ông => tiếng Ngô |
túc |
ts'o? |
zuk |
zeok |
zu |
chiok / tui |
? = tắc âm thanh môn |
dung |
iong |
jung/yung |
yung |
rong |
iong |
dung = chứa |
yêu quỉ |
io |
jau/ jeu |
yiu |
yao |
iau |
Ngô/Mân/Việt lột [Y] |
phủ |
vu |
fu |
fu |
fu |
hu |
phủ-phục. [F] => [V] |
cẩu |
kâw |
geu / kieu |
gau |
gou |
kau |
Việt = Mân = Ngô |
song (2) |
sang |
song |
seung |
shuang |
xiang |
= đôi. Việt= Ngô= Hẹ |
Để ư:
(a) Có một số cặp tối đa cho thấy tiếng Việt giống tiếng Ngô hơn các
phương ngữ khác. Nhất là: khổ = đắng = khu, cũ = ku, bạn hữu = ban hiw, ông
= Ong, cầu = kâw, yêu = io. Cặp {yêu & io} cho thấy tiếng Ngô cũng giống Mân
và Việt có khuynh hướng lột mất âm [yờ] đầu của quanthoại và quảngđông, và
Ngô-Mân-Việt mang cùng gốc với nhau trong việc cho phát âm từ bắt đầu bằng
/Y/ trong quốcngữ y hệt như âm [I]-ngắn: Yêu => [iêu].
(b) Trong khi âm [F] quanthoại, quảngđông và hẹ, có khuynh hướng chuyển
sang âm [H]-mạnh trong tiếng Mân, khi chuyển sang Ngô, [F]-quanthoại có 3
khuynh hướng. Hoặc chuyển thành [F] như thường, hoặc chuyển sang âm [PH],
hoặc biến sang [V] (phủ=> vu).
(c) Âm cuối tiếng Ngô có vẻ phân biệt rơ rệt [at], [ak] và [a?], [iat],
[iak] và [ia?]; [wat], [wak] và [wa?]; v.v. cũng có thể gợi cho ta cách phân
biệt rơ các âm như [ách], [ác] và [át] trong lối phát âm tiếng Việt ở phía
Bắc.
KẾT
Qua phần tŕnh bày ở trên, nhất là việc minh giải hai cặp động từ 'Ăn -
Uống' và 'Cưới - Gả' có gốc gác từ 3 phương ngữ: Ngô, Mân và Hẹ, chúng ta,
một lần nữa, thu thập thêm chứng liệu quan trọng hỗ trợ cho đẳng thức cơ bản
của tộc người Việt Nam:
Việt (Nam)= Âu Việt + Lạc Việt (Hẹ +Mân +Ngô) // Môn-Khmer + Đa đảo +
Nêgritô
Để ư trong đẳng thức hợp tộc đó, đặc biệt tộc Âu Việt, tức Thái cổ, cũng
có thành phần bản địa có sẵn tại xứ Việt cổ, y như dân Môn-Khmer.
Điểm đáng chú ư trong đẳng thức tộc nguồn ở trên có lẽ xoay quanh so sánh
giữa ảnh hưởng của hai nhóm Việt tộc làm chủ đất nước tổng cộng trên dưới
400 năm. Đó là nhà Lư (1010-1225) và nhà Trần (1225-1400). Tiếng Việt do thị
tộc nhà Lư mang đến chính là thứ tiếng Hẹ cổ. Tiếng Việt nhà Trần là tiếng
Việt xứ Mân pha trộn với xứ Ngô.
Với nhà Lư và nhà Trần, nền chính trị và quân sự ở nước Nam bắt đầu nổi
bật, nếu không nói sáng chói. Chúng ta có thể tạm lư giải hiện tượng này
bằng cách cho rằng, bởi là những nhóm người di cư đến sau, họ đă học được
nhiều bài học từ ở, và đối tác với, người Hoa trong nhiều thế kỷ c̣n bị kẹt
ở bên Tàu.
Chính nhà Lư và nhà Trần đă tạo dựng được đầy đủ các định chế và cơ viện
rất vững chắc, để về sau, khi Lê Lợi đánh đuổi được giặc Minh, ông thiết lập
nên triều đại nhà Lê (1428-1788) huy hoàng và lâu dài nhất (360 năm) cho
nước Nam.
Ghi Chú
[1] Randy J. LaPolla (2000) The Role of Migration and Language Contact in
the Development of the Sino-Tibetan Language Family. IN: Areal Diffusion and
Genetic Inheritance: Case Studies in Language Change. Ed. by R.M.W. Dixon &
A.Y. Aikhenvald. Oxford University Press.
[2] B́nh Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb
Xuân Thu, tái bản tại Hoa Kỳ.
[3] Ngô Sĩ Liên và cộng sự (1497). Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Thanh Việt và
Phạm Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông
Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xă Hội Việt Nam được tŕnh bày đầy đủ trên
mạng internet: perso.wanadoo.fr/charite
[4] 'Lấy' thật ra có thể mang một nghĩa hơi khác với 'kết hôn' hoặc 'cưới
vợ'. Có thể mang nghĩa 'ăn ở', 'ăn nằm' (have sex with), chứ không chính
thức có cưới hỏi đàng hoàng.
[5] Dấu [?] trước [ân] là kí hiệu của 'tắc âm thanh môn', hay âm màng
họng. Đó là thứ âm thật ngắn chuyển tiếp giữa [uh] và [oh] khi đọc nhanh:
[uh-oh]. Trong tiếng Việt, chữ 'ác' thường được kí âm như [?ák]. Phát âm dấu
ngă [~] thường được biểu diễn bằng một con số chỉ thinh thấp, tiếp theo bằng
tắc âm thanh môn [?], rồi kết bằng thinh cao: [2?5].
[6] Lê-Ngọc-Trụ (1959) Việt Ngữ Chánh-tả Tự-Vị. Nxb Thanh-Tân
[7] Biến chuyển giữa [S] và [TH] có thể gây nên bởi đổi âm hoặc trong
tiếng Quanthoại, hoặc trong các phương ngữ Hoa Nam, trong hằng ngàn năm
qua..
[8] Tiếng Việt, vẫn thường dùng ‘pḥng’ để chỉ ‘vợ’: ‘Nghe nói, anh Ba
dạo này đă có pḥng nh́ rồi’ => ‘pḥng nh́’ ở đây mang nghĩa ‘vợ 2’ hay ‘đào
nhí’..
[9]
http://www.chineselanguage.org/cgi-bin/query.php?table=hakka&mode=english&sound=no&beijing=pinyin&canton=jyutpin&hakka=default&fields=pinyin,english&lang=en&show=frequent
[10] Lê Ngọc Trụ (1960) Chánh Tả Việt Ngữ. Nxb XuânThu 1991. Trường Thi
Xuất Bản
[11] Khác biệt quan trọng nhất: Lê Ngọc Trụ và gần như tất cả học giả xưa
và nay, Việt và Tây, đều cho rằng nếu có giống nhau giữa từ vựng Việt ngữ và
những từ thuộc các thứ ngôn ngữ khác, như tiếng Chăm, Khmer, Thái, Tàu,
v.v.; đó là kết quả của 'vay mượn'. Lư thuyết ở đây đặc biệt nhấn
mạnh ở chỗ: Có thể không có vay mượn. Người Việt và tiếng Việt biến đổi và
tiến hoá theo thời gian, và theo sự hợp chủng giữa những tộc người mang
nhiều điểm đặc trưng văn hoá giống nhau, và có cùng một hướng nh́n về tương
lai.
|