Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (14):
Hán Việt vào lúc xưa khi bên Tàu
Một trong những điểm thường được
nhấn mạnh trong loạt bài này nằm ở chỗ mô h́nh 'nguồn gốc dân tộc' Việt Nam
rất giống với các nước ở miền Đông Nam Á. Trong đó, tộc người ngày nay, nước
nào cũng vậy, gồm hợp chủng vài ba tộc người khác nhau ở thời xa xưa, từ
chốn khác, cộng với lớp dân bản địa đă có mặt tại đó từ trước. Phân bố thành
phần hỗn hợp khác nhau tùy theo từng quốc gia. Có xứ chứa nhiều nhóm dân Môn
hoặc Khmer, hoặc cả hai thứ Môn-Khmer, có xứ nhiều tộc Thái cổ. Cũng có nơi
gồm cả thành phần các tộc Lạc Việt từ miền biển Đông nước Tàu, như tại Việt
Nam. Một điểm đặc trưng khác của mô h́nh này là những khối dân tộc ít người
tại khắp các quốc gia ở Đông Nam Á đều có t́nh bà con gần xa với khối người
Kinh, nhất là ở vào thời xa xưa. Lư do chính họ trở thành người dân tộc là
bởi ngay từ đầu họ vẫn có ư thích yêu chuộng tự do, thích duy tŕ nếp sống
cổ truyền của tổ tiên, và rất dị ứng với chế độ phong kiến do người Hoa áp
đặt trên lănh địa của ông cha.
Ghi
Chú
[1]
Chiêm Toàn Hữu (2004) Văn Hoá Nam Chiếu Đại Lư. Nxb Văn Hoá Thông Tin
[2] Khuyết Danh (1377-1388) Đại
Việt Sử Lược. Bản dịch của Nguyễn Gia Tường. Nhà Xuất Bản Thành Phố HCM. Bộ
Môn Châu Á Học Đại Học Tổng Hợp TP.HCM.
[3]
Nguyên lí cơ bản di tản: 'Người di tản luôn luôn có khuynh hướng chạy giặc
về hướng đi tổ tiên, ông cha, bà con họ hàng hoặc bạn bè đă đi qua từ trước'.
[4]
Vơ Mai Phương (Chu Thái Sơn chủ biên) (2005) Người Dao. Nxb Trẻ
[5]
Xin tạm dùng từ Hẹ hoặc Hakka để chỉ dân Bách Bộc hay Bộc Việt, hoặc Đông Di,
từ khu Sơn Đông.
[6]
Trần thị Thu Thủy (Chu Thái Sơn chủ biên) (2005) Người Hmong. Nxb Trẻ.
[7]
Tại Việt Nam, thường gọi họ 'Khách trú', biến thành 'Cắc chú'. Có lẽ mô
phỏng theo tên gọi nhóm Việt tộc chạy xuống miền Nam sau cùng vào thế kỉ
10-13, lúc loạn thập quốc - ngũ đại rồi đến Mông Cổ: 'Khách gia', phát âm
theo vài phương ngữ khác thành: Hakka, tức Hẹ.
[8]
Con số 1,3, 2 đi theo phiên âm pinyin, dung để chỉ số thanh điệu. Quanthoại
có 4 thanh: B́nh=1 {-}, Thượng=2 {'}, Khứ=3 {v}, Nhập=4 {`}.
[9]
Lê Ngọc Trụ (1991) Chánh tả Việt ngữ. Nxb Xuân Thu (tái bản). Trường Thi
xuất bản.
Lê-Ngọc-Trụ (1959) Việt Ngữ Chánh-tả Tự-Vị. Nxb Thanh-Tân
[10] Tiếng Hmong-Yao đặc biệt cho thinh (dấu) bằng ghép chữ cái ở cuối: {b
i g v m s} (6 thinh). Thí dụ: [MUAg] => sell / bán. Thinh [g] bắt đầu ở
giữa rồi hạ thấp, gần giống dấu huyền tiếng Việt. Trong khi [MUAs} => buy /
mua, với thinh [s] rất giống [mua] tiếng Việt.
[11] Để ư phát âm [rượu] ở tiếng quảngđông là [jau] > mường: [răo]. Thêm một
chứng tích rất nhỏ: Mường thuộc tộc Thái-cổ.
[12] B́nh Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân
Thu, tái bản tại Hoa Kỳ.
[13] Ngô Sĩ Liên và cộng sự (1497). Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Thanh Việt và
Phạm Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông
Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xă Hội Việt Nam được tŕnh bày đầy đủ trên
mạng internet: perso.wanadoo.fr/charite
[14] Lau
Chun-Fat and Man Vicky Ching Han (2004) Reconstruction of the ‘Old
Yue’ dialect and its relationships with Modern Cantonese.
http://218.193.48.222/works/liuzhenfa/NACCL-12%20(2).doc
|