|
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (15):
Tháng Giêng, tháng Chạp và 12 con Giáp
Nguyên Nguyên
Qua bài này chúng ta sẽ mượn 12 Con Giáp để thử xem lại tên gọi 12 địa-chi,
với mục đích kiểm chứng một vài điểm khá quan trọng trong 'truyền thuyết
giải mă' [1] ở đây.
Nhưng trước hết xin thử xem lại phát hiện rất quan trọng trong một bài
trước. Đó là chuyện [1] người Tàu rất thích phân loại 'nhóm ngôn
ngữ Hán Tạng', với hàm ư: tất cả các phương ngữ bên Tàu, nhất là khối Bách
Việt ngày xưa, có cùng chung một gốc với tiếng Hán ṛng ở miệt Hoa Bắc của
Hoa tộc 'thuần túy', gộp chung nhau thành nhóm Sino-Tibetan tức Hán Tạng.
Tiền đề này thật ra hoàn toàn tương phản với lư thuyết chúng tôi ở đây.
Nói nôm-na, các lư thuyết lớn về Hoa chủng tương phản với lư thuyết chúng
tôi ở chỗ, cả hai bên đều giành người Hẹ, người Mân, người Ngô, người Yuệt
(Quảng) ở thời xa xưa, về phía tộc người của ḿnh. Người Tàu có hỗ trợ của
rất nhiều học giả Tây Phương lúc nào cũng cho rằng các phương ngữ miền Hoa
Nam, khi xưa có chung một gốc với tiếng Hán, và hai khối tộc người, Hán và
Bai-Yue (Bách Việt) ở Hoa Nam đó tuy hai mà một. Rất tiện nghi cho mô h́nh
một nước Tàu nhất thống kéo luôn đến Tây Tạng. Bởi trong tên gọi 'Hán-Tạng'
đă bao gồm sẵn 'Tây Tạng'.
Một trong những hệ luận hoặc kết quả của thứ tiền đề này chính là công
tŕnh tạo dựng lại cách phát âm tiếng Tàu ở thời cổ đại và thời Trung cổ.
Nổi tiếng nhất là công tŕnh của nhà ngữ học Bernhard Karlgren. Trong đó
việc tái thiết lại các âm cổ bên Tàu, nhất là thời Trung cổ (từ thế kỷ thứ
6 đến 10), đă dựa vào những trang sách rời rạc của một hai bộ sách 'văn
vần', như quyển Qie-Yun 切韻 tức Thiết Vận, của Lu Fayan và cộng sự, 'xuất
bản' vào năm 601 (đời nhà Tùy), và đối chiếu với lối phát âm của ... các
phương ngữ Bách Việt hiện nay. Quan trọng nhất trong các nhóm ngôn ngữ họ
jùng để đối chiếu thường bao gồm tiếng Hẹ, Mân, Ngô, và đặc biệt tiếng Hán
Hàn, tức tiếng Hán 'du nhập' vào xứ Triều Tiên, và ... tiếng Hán Việt, xử
dụng ở thế kỷ 20 tại Việt Nam. Thí dụ: (i) 'Thác' trong 'phó thác' tiếng
quanthoại hiện tại gọi [tuo]. Mấy học giả căn cứ vào phát âm Hán-Việt gọi
'thác', Hán-Hàn gọi [thak], Mân đọc [thok], Hẹ [t hok] rồi kết luận tiếng
Tàu Trung cổ đă phát âm: [thak]. (ii) Pḥng= Buồng. Quanthoại hiện nay:
[fang]. So với Hán-Hàn: [pang], Hẹ: [fong] (=> pḥng), và Mân (Phúc Kiến):
[bang]. Rồi để ư tiếng Việt: 'buồng', họ cho tiếng Tàu thời xưa phát âm:
[bwang]. (iii) Từ 'Văn' trong 'văn chương / văn hoá', quanthoại đọc [wen],
Hẹ: [Vun] (=> văn), Ngô-Việt: [vâng]. Họ dựa thêm vào một chứng liệu nào
khác rồi phối hợp với âm quảngđông: [man], và âm Hán-Hàn là [mwun] rồi cho
phát âm trungcổ là [mun] [2] (iv) Dù có dễ dăi tạm chấp nhận thứ lí luận
'tầm nguyên' hoặc 'phiên thiết' loại này, theo thiển ư, ai cũng có thể
thấy kiểu truy nguồn phát-âm 'cổ đại' hay Trung-cổ của các học giả Tây Tàu
có vẻ hơi lủng củng, ngay ở chỗ họ cho ông vua, có lẽ nổi tiếng xưa nhất
của họ là Nghiêu, ngày nay tuy mang phát âm [Yao]-quanthoại, nhưng vào
thời cổ đại mang phát âm y hệt như tiếng Hẹ và tiếng Việt (Nam) ngày nay:
[Ngieu]. Tại sao vậy? Bởi họ luôn cho rằng người Hẹ là người Hoa nguyên
thủy nhất, và đă từng sinh sống ở lưu vực sông Hoàng Hà gần chỗ ông vua cổ
xưa của 'Hán tộc' mang tên Nghiêu đó. Hoàn toàn lướt qua, không để ư đến
câu hỏi then chốt: 'Thế nhỡ người Hẹ-cổ không phải thuộc Hoa tộc th́
sao?'. Hoặc: 'Nền tảng tiếng Hán Việt là ǵ?' Truy tầm phát âm Hoa cổ đó
chỉ có thể đúng khi chính tiếng Hoa đă được phát âm y hệt như vậy vào thế
kỷ thứ 6-10 tại xứ An Nam, hay tại Triều Tiên. 'Có thật như vậy hay
chăng?' Chúng ta có thể thấy rất rơ và rất nhanh, rằng nếu trả lời các câu
hỏi trên nằm trong dạng phủ định, hay ngay cả lưng chừng, lừng khừng, tất
cả kết quả các công tŕnh tầm nguyên phát âm tiếng Tàu thời Trung-cổ cần
được xem lại kỹ hơn.
Thật ra, nếu đứng ở bờ sông bên này - phía lư thuyết tŕnh bày ở đây -
chúng ta có thể nhận ra thêm một vài điểm khá lấn cấn của việc xử dụng
tiền đề 'Hán-Tạng' như một nhóm ngôn ngữ chung của các tộc người ở Trung
Hoa ngay từ thời cổ đại, trong việc truy tầm phát âm Trung-cổ tiếng Hán,
như sau:
(i) Trước hết, ta thấy Hoa tộc, cũng như rất nhiều tộc người ‘thông
minh’ khác trên thế giới, rất ít khi chịu khó kiểm chứng lại mớ tiền đề
sẵn có. Họ có vẻ rất dễ dăi hoan nghênh chấp nhận công tŕnh nghiên kíu có
vẻ rất khoa học của mấy học giả Tây phương. Không để ư rằng những công
tŕnh này hoàn toàn dựa trên những tiền đề do người Hoa đă bày sẵn. Điển
h́nh, rất nhiều học giả Âu Mỹ cho rằng Hoa ngữ ngày xưa y hệt như các
phương ngữ Hoa Nam, nhưng nay bị biến đổi khá nhiều. Thí dụ, Hoa ngữ theo
kiểu quanthoại nay bị mất các âm cuối như {p t k m nh} và chỉ c̣n lại {n
ng}: Yue NaN / YaNG Gui Fei (Việt Nam / Dương Quư Phi). Nếu để ư đến thứ
tiền đề này, người ta có thể thắc mắc: 'Tại sao các phương ngữ Hoa Nam
(của người Bách Việt cổ) vẫn giữ được nhiều sắc thái ngôn ngữ như xưa
trong khi Hoa tộc thuần túy lại không?'
(ii) Nếu người Hẹ là Hán tộc thuần túy, tại sao ngôn ngữ họ lại giống
với phương ngữ Hoa Nam (và ... Việt Nam) nhiều hơn giống với tiếng Hán.
Tương tự, nếu họ người Hán thuần túy tại sao họ lúc nào cũng cố gắng ǵn
giữ tập tục ông cha, juy tŕ văn hoá và tiếng nói dữ dội như vậy, và trong
tất cả những bản chất văn hoá họ dzuy tŕ và ǵn giữ được qua cả ngàn năm
đó, rất ít điểm giống với thứ của Hoa tộc? Thí dụ: Người Hẹ không hề theo
tập tục Hoa chủng, trong việc bắt phụ nữ phải bó quặp bàn chân cho sang.
(iii) Mô h́nh tŕnh bày trong loạt bài này cho thấy tiếng Hán-Việt và
ngay cả một phần khá lớn của tiếng Nôm, đều có gốc gác với các thứ phương
ngữ Bách Việt, nhiều hơn với tiếng quanthoại ở phương Bắc [2]. Nhiều dấu
hiệu cho thấy tiếng 'Hán-Việt' thật sự chỉ phát triển tại nước Nam, bắt
đầu từ thế kỷ 11, tức sau khi đă tạm vượt khỏi ách đô hộ 1000-năm của Bắc
phương. Một phần lớn tiếng Hán-Việt đó đă do các người thuộc tộc Lạc Việt
từ bên Tàu mang sang, tiêu biểu bằng nhà Lư và nhà Trần. Do đó việc đối
chiếu tiếng Hán Việt (phát triển tại Đại Việt từ thế kỷ 11 về sau) để truy
tầm phát âm tiếng Hán ở thế kỷ 6-10 bên Tàu là một việc làm dựa trên tiền
đề có thể vướng khá nhiều lấn cấn.
(iv) Quan trọng nhất, việc phiên thiết âm vận xưa dựa vào những quyển
sách (không đủ bộ) như Qie-Yun cũng có thể dựa vào một số điểm cơ bản
không được chuẩn. Nhất là huyết thống của tác giả những quyển văn vần đó.
Bởi nếu chính tác giả mang Việt tộc, hoặc sinh sống ở khu vực có đa số là
Việt tộc, âm vận của tác giả vẫn có thể không phải thứ âm vận do người Hoa
cổ phát ra vào thời đó. Nói một cách khác, người Hoa hiện nay thật sự cũng
hăy c̣n mù mờ trong phân bố của các tộc người, nhất là Hoa tộc thuần túy,
vào thời cổ đại ở miền Hoa Bắc (phía bắc sông Dương Tử).
Bây giờ chúng ta hăy 'thử xem lại' 12 con Giáp.
Văn hoá xoay quanh '12 Con Giáp' được thể hiện tại hầu hết các quốc gia
vùng Đông Á và Đông Nam Á, trừ một vài nước mang nặng ảnh hưởng Hồi giáo
như In-đô-nê-xia, và Mă Lai Á, dù rằng cộng đồng người Hoa tại những nước
này vẫn c̣n hâm mộ việc ăn Tết và xem tuổi coi ngày theo 'Tử Vi 12 Con
Giáp', gọi 'Sinh Tiêu' (生肖 [shengxiao]).
Bảng đối chiếu sau sẽ tóm tắt 12 con Giáp, tiếng Tàu gọi 12 địa-chi.
Dấu [*] cho thấy tương đồng của phương ngữ Hoa Nam với tiếng Hán Việt.
Địa-chi |
Hán |
Hẹ |
Quảng |
Q.Thoại |
Ngô |
Mân |
Hải-Nam |
Cầm-Thú |
Hán |
Tư |
子 |
zii* |
chi |
zi* |
tsưi |
chi |
zi* |
Chuột |
鼠 |
Sửu |
丑 |
chiu |
chau |
chou |
ts hơw |
thiu |
siu* |
Trâu (Ḅ) |
牛 |
Dần |
寅 |
Jin* |
Yan* |
yin |
iing |
in |
yan* |
Cọp |
虎 |
Măo |
卯 |
mau* |
maau* |
mao* |
mo |
myo |
mao* |
Thỏ (Mèo) |
兔 |
Th́n |
晨 |
shin* |
san |
chen |
---- |
sin |
dièn |
Rồng |
龍 |
Tỵ |
巳 |
tsih* |
ji |
si |
----- |
chi |
ki |
Rắn |
蛇 |
Ngọ |
午 |
ng |
ng |
wu |
ngu* |
ngou |
ngo* |
Ngựa |
馬 |
Mùi |
未 |
Mui* |
Mei* |
wei |
vi* |
bi+ |
muat |
Cừu (Dê) |
羊 |
Thân |
申 |
shin |
san* |
shen* |
seng |
sin |
diẹn |
Khỉ |
猴 |
Dậu |
酉 |
ju / riu |
Yau* |
you |
----- |
yu |
jiu |
Gà |
雞 |
Tuất |
戌 |
sut* |
seut* |
xu |
----- |
sut |
tuat* |
Chó |
狗 |
Hợi |
亥 |
hoi* |
hoi* |
hai |
----- |
hai |
hai |
Heo |
豬 |
Sự thật, 12 địa-chi có lẽ xuất phát đầu tiên từ 12 tháng tính theo
âm-lịch, tức theo chuyển động mặt trăng. Người xưa, sau vài ngàn năm sinh
sống trên trái đất bắt đầu phát hiện cứ thấy 12 lần trăng tṛn th́ thấy
khí hậu trở lại giống như cái 'chu kỳ' cũ: Ấm áp (xuân), nắng chói (hạ),
mát mẻ / lá rơi (thu), và băng giá/lạnh lẽo (đông). Từ đó sinh ra 12
tháng. Thường gọi chung với ‘trăng’ bằng một từ duy nhất. Tức ‘tháng’ mang
nghĩa nguyên thủy ‘một chu kỳ Trăng’. Thí dụ: Tiếng ‘Hán’ (Hẹ) gọi cả
‘trăng’ lẫn ‘tháng’ bằng [ngiet], quốcngữ đă kư âm thành: [nguyệt], có lẽ
sau khi phối hợp âm Hẹ [ngiet] [1], với lối phát âm Mân [goeh] và Hải-Nam,
[guet].
Rất nhiều ngôn ngữ do đó dùng chung một từ cho 'trăng' và 'tháng'.
Tiếng Persia / Ba-Tư (Iran) gọi cả 'trăng' lẫn 'tháng' bằng [măh]. Tiếng
Tàu quanthoại có [yue], Hán-Việt đọc [nguyệt] theo kiểu Hẹ, mang nghĩa
'tháng' và 'trăng'. Tiếng Khmer cũng vậy: [khai] mang hai nghĩa 'tháng' và
'trăng'. Tiếng Myanmar: [lá] => tháng & trăng. Người dân tộc A-Kha gọi
‘tháng’ bằng [bala] và ‘trăng’ [pala]. Người P’u-Noi, tháng= trăng= [ula].
Tiếng Mă-Lai: [bulan] => tháng & trăng. [Bulan] sinh ra [blang] => [blăng]
=> tiến đến [trăng] do tác động của kí âm quốc ngữ. Nhưng [bulan] không
tiến thẳng đến [tháng] trong Việt ngữ. 'Tháng' lại có vẻ phối hợp [blăng]
hay [tlăng] với một từ tiếng Thái chỉ 'mặt trăng' và 'tháng': [deuang].
[Duang] tiếng Thái mang hai nghĩa: {tháng} và {trăng}. Đối với {trăng} rất
thường tiếng Thái kèm theo [Jan]: [Duang Jan]. [Jan] sinh ra [giăng] tại
một số khu vực Bắc Bộ. [Duang] sinh ra 'tháng' cũng như một lô từ chỉ
'tháng' của các nhóm người dân tộc. Người Pu-Noi gọi 'tháng Giêng' bằng
[Dưon Chieng]. Người Mường: 'khảng Chiêng' (tháng Giêng {1}), 'khảng Môch'
(tháng 11), 'khảng khảu' (tháng 6), 'khảng chap' (tháng chạp). Người
Tày-Nùng [6] yùng [Bươn chiêng] cho 'tháng Giêng', [Bươn nhỉ]: tháng
hai, [Bươn êt]: tháng một (mười một), [Bươn lap]: tháng
Chạp.
Theo thiển ư, ‘tháng’ có vẻ khác với ‘trăng’ do ở kí âm quốcngữ cố tổng
hợp 2 âm [duang] và [tlăng]:
Tháng = {duang} + {tlăng}.
Hoặc đă dựa vào lối phát âm [thang] của người Mân cho từ 朣 , mang nghĩa
'trăng mọc'.
Theo Jeanne Cuisinier [7], dẫn từ các công tŕnh của Coedès và Maspéro,
người Mường cũng có chu ḱ 12 năm tương ứng với 12 con Giáp. Nhưng có vẻ
như rằng 10 thiên-can (Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quư) đến với
các mường bản rất trễ. Rất giống với thư tịch tối cổ của Tàu, ít
thấy miêu tả đến chu kỳ 60 năm, phối hợp 10 thiêncan với 12 địachi. Theo
[5] cho đến đời Đông Hán bên Tàu (tương đương với Hai Bà Trưng xứ Việt
cổ), vẫn chưa thấy xuất hiện 10 thiên-can. Tuy vậy người Mường vẫn có thói
quen chia 1 tháng ra làm 3 tuần, mỗi tuần 10 ngày. Đặc biệt một ngày có 12
giờ, mỗi giờ xưa như vậy tương ứng với 2 giờ ngày nay. Giờ Tư đầu tiên bắt
đầu từ 11giờ đêm và chấm dứt lúc 1 giờ sáng. Tiếp đó giờ Sửu: 1giờ-3giờ
sáng, v.v. Tuy nhiên, theo Cuisinier, 12 con Giáp du nhập sang Thái Lan và
các mường bản, từ người Khmer.
Người Yi [4] [8], với dân số ngày nay khoảng 8 triệu tập trung tại Tứ
Xuyên, Quí Châu và đông nhất tại Vân Nam - giáp giới với Việt Nam, ngày
trước dùng lịch 10 tháng. Mỗi tháng 36 ngày, tức một năm 360 ngày. Năm (5)
ngày c̣n lại của năm họ dùng để ăn...Tết, không tính vào năm [5]. Có lẽ họ
tính lịch theo chuyển vận hằng ngày của mặt Trời. Một năm gồm {360 + 5}
lần vận chuyển 'mọc' và 'lặn' của mặt trời. Năm 10 tháng của người Yi,
được chia thành 5 quí. Một (1) quí = 2 tháng, tức 72 ngày. Mỗi tháng có 3
tiết khí [4]. Mỗi tiết khí có 12 ngày. Tức vào thuở cổ thời, có hai con số
đáng nhớ trong khung đối chiếu ngày, tháng, và năm. Đó là số 12 và số 10.
Ngoài ra, c̣n có thêm một con số đáng nhớ nữa. Con số 5. Số 5 tiêu biểu
cho thuyết 'âm dương' Ngũ Hành, rất thông thường liên hệ mật thiết đến 12
địa chi và 10 thiên-can (Giáp - Ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân -
Nhâm - Quư).
Điểm đáng ghi nhớ: Vân Nam, tức Đại Lư năm xưa, là một ngă 3 rất quan
trọng nối liền Trung quốc, Việt Nam với văn minh phương Tây vào lúc cổ
thời. Nhiều sách vở mới của Trung Quốc [5] [8] cho biết Vân Nam chính là
cái nôi văn hoá Đông Nam Á, do ở vị trí ngă ba đường, tiếp xúc với ba nền
văn minh Đông, Tây và Nam, cũng như phong cảnh thần tiên u linh, khí hậu
mát mẻ. So với nhiều 'xứ' ở khu vực Bách Việt - Hoa Nam, nền độc lập 'địa
phương' của khu Vân Nam (Điền Việt / Nam Chiếu / Đại Lư), cũng được giữ
khá vững, cho đến khi nhà Nguyên của tộc Mông Cổ quyết định dứt điểm xứ
này vào giữa thế kỷ 13.
Bây giờ xin phép trở lại vấn đề then chốt của bài này: 'Thử mượn 12 con
Giáp để tiếp tục minh giải câu chuyện 'hợp chủng' của tộc người Việt Nam'.
Đặc biệt chúng ta sẽ t́m cách lư giải tại sao nhiều tộc người tại Đông
Dương và khu vực Lưỡng Quảng - Vân Nam lại có thói quen gọi 'tháng 1' bằng
'tháng Giêng' hay những âm vận tương tự. Với chút ít trực giác, chúng ta
thấy nếu t́m được lư giải cho 'tháng Giêng / tháng Chạp' chúng ta có thể
hiểu rơ hơn một chút những điểm hết sức mù mờ từ trước đến giờ trong ḷng
cổ sử dân tộc, cũng như của các khối người láng giềng.
Tuy nhiên trước hết xin ghi lại một số nhận xét thu thập được từ sách
vở và internet.
- Hệ thống tử vi Đông và Tây tính theo lịch 12 tháng hoặc chu kỳ 12
năm (địa chi) xoay quanh với 10 thiên-can là một hệ thống hết sức tinh
vi. Những tộc người nào phát triển chúng đến nơi đến chốn bắt
buộc, theo thiển ư, phải hội đủ các điều kiện sau đây: (a) Phải có sẵn
một hệ thống số đếm và chữ viết. Bởi quá phức tạp để phát triển bằng lối
truyền miệng trong dân gian; (b) Phải kinh qua hằng trăm hằng ngàn năm
để thu thập dữ kiện, tạo nên các định luật tổng hợp; (c) Phải thu thập
được rất nhiều chứng liệu lịch sử qua giao tác giữa người với người, dân
tộc này với dân tộc kia. Cá tính và cuộc đời của rất nhiều cá nhân khác
nhau; (d) Có sự đóng góp trong cốt lơi của các nhà khoa học hay những
‘tu sĩ’ cỡ bự, dù dưới dạng đồng bóng, phù thủy hay tiên tri thời tiết,
chứ lê dân b́nh thường không đủ sức để phân tích / tổng hợp hằng ngàn
hằng trăm ngàn dữ kiện khác nhau để hệ thống hoá phương cách 'sinh tiêu'
tức xem tử vi bằng 12 con Giáp (Tây và Đông) đối chiếu với ngày năm sinh
và cuốn lịch; và quantrọng nhất: (e) vào cổ thời các dân tộc này phải
rất quenthuộc với 'con Ngựa' thuộc địachi thứ 7 của 12 'con Giáp'. Xin
xem chi tiết phía sau.
- Trên góc độ thuần lư, chúng ta có thể thấy những tộc người đă thật
sự góp công phát triển hệ thống ‘tử vi 12 con Giáp’ đến nơi đến chốn,
rất khó hiện thực được nếu địa bàn cư trú của họ nằm ở những nơi xảy ra
chiến tranh triền miên, hay họ đă sinh sống bằng lối 'ju mụk' nay đây
mai đó. Chúng tôi thật sự cố ư dùng động từ ‘phát triển’ thôi, chứ không
dám dùng ‘phát minh’, bởi thật ra hệ thống tử vi biểu tượng bằng sự vật
hay sinh vật, đă hiện diện ngay từ thời xa xưa, từ Trung đông sang Âu
châu, kéo đến Á châu. Theo nhà nghiên cứu người Hoa, Thường Tuấn [5],
cổ Ai Cập, cổ Babylon, Ấn Độ, Hy Lạp và Trung Quốc đă có tập tục ghi
lịch bằng 12 loài vật từ rất sớm. Tại cổ Ai Cập và Hy Lạp, 12 con
Giáp gồm có: trâu đực, dê, sư tử, lừa, cua, rắn, chó, chuột (hoặc mèo),
cá sấu, hồng hạc, vượn, chim ưng. Cổ Ấn Độ có 12 con giáp rất giống với
Trung quốc: chuột, trâu, sư tử, thỏ, rồng, rắn độc, ngựa, dê, khỉ
Ma-các, gà, chó, heo. Để ư, con sư tử trở thành 'hổ' (cọp) khi đến Trung
Hoa, hoặc ngược lại, bởi bên Tàu, sư tử rất hiếm. Mười-hai con giáp của
xứ Babylon ở thời cổ đại là mèo, chó, rắn, bọ-hung, lừa, sư-tử, dê đực,
trâu đực, chim cắt, khỉ, hồng hạc, và cá sấu. Trong 12 con giáp Nhật Bản
hiện tại, con lợn biến thành lợn rừng giống đực, đồng thời lịch của họ
cũng đă biến đổi từ âm-lịch sang dương-lịch. Trong khi, tại nước
Hung-ga-ri, do ở ảnh hưởng chiếm đóng ngày xưa (thế kỷ 4-5) của dân
'Hun' (lănh tụ Hốt Tất Liệt - Attila), 12 con giáp xứ này giống y như
của Trung Hoa. 12 con giáp kiểu Tàu cũng được áp dụng trong khối dân
Turkestan, và dân xứ Bul-ga-ri ở Đông Âu.
- Chúng ta cũng có thể thấy trong khi tử vi Tây Phương quây quần với
12 giáp: Bảo B́nh, Song Ngư, Miên Dương, Kim Ngưu, Song Nam, Bắc Giải,
Hải Sư, Xử Nữ, Thiên Xứng, Hổ Cáp, Nhân Mă, và Nam Dương, tương ứng với
khoảng thời gian trung b́nh 30 ngày, bắt đầu từ 'khoảng' ngày 20 mỗi
tháng tây, tử vi Đông phương vượt luôn qua chu ḱ 12 tháng, lên đến 12
năm và 10 phân loại (thiêncan), phối hợp với nhau thành 1 chu kỳ chung
là 60 năm, tương ứng trên dưới một đời người. Sở dĩ, Đông phương tiến
mạnh đến một chu ḱ con giáp 12 năm, chứ không phải 12 tháng có lẽ bắt
nguồn ở chỗ các nhà thiên văn Đông phương, đă dựa 'khoa tử vi' theo sát
với vận chuyển của các tinh tú, đặc biệt 'nhị thập bát tú', tức 28 cḥm
sao trên trời. Những nhà thiênvăn thuộc các tộc người 'phát triển' tử vi
12 'năm-giáp', đă quan sát chuyển động các hành tinh và biết được rằng
Tuế tinh, tức sao Mộc, đi được một ṿng quanh bầu trời trong khoảng thời
gian đúng 12 năm [5]. Tuy nhiên, có vẻ chưa có luận cứ 'chắc nịch' tương
tự về chu ḱ thiên-can gồm 10 thứ: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân
Nhâm Quư, ngoài việc cho rằng số 10 cho 10 năm, có lẽ xuất xứ từ lịch cổ
10 tháng (mỗi tháng 36 ngày) của người Yi ở xứ Điền Việt (Nam Chiếu/Đại
Lư) xa xưa, hoặc, theo thiển ư, thuyết Âm-Dương Ngũ Hành, bao gồm 5
hành, nhân (x) với nhị nguyên (2) 'Âm' và 'Dương' (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
(5) nhân với Âm Dương (2) cho ra 10).
- Xin được phép nhấn mạnh, tất cả các thư tịch cổ cũng như sách vở
hiện đại của người Hoa, không bao giờ ghi chép tên của 12 địa-chi là tên
của 12 con cầm-thú tương ứng. Thí dụ: {Mùi} chỉ là địa chi thứ 8, chứ
không phải {Mùi} mang nghĩa {con Dê}. Trong chữ Hán ghi ở bảng phía
trên, ta để ư, một lần nữa, phát âm Việt giống phát âm Hẹ nhất: [Mui].
{Mùi} viết theo Hán tự: 未 có nghĩa 'mùi vị' được thể hiện khá đầy đủ
trong các phương ngữ Hoa Nam. [Mùi] tương ứng với quanthoại [Wei] chính
là [vị] theo tiếng Việt. Phát âm y hệt [vi] trong tiếng Ngô-Việt (Chiết
Giang / Thượng Hải). [Vi] lại được phát âm [bi] trong phương ngữ Mân
(tức PhúcKiến / TriềuChâu), khá giống [byị] phát âm Nambộ, kí âm quốc tế
(lột [y]) thành [bi]. Kiểm chứng với bất cứ người Hoa nào chúng ta sẽ
thấy, tên 12 địachi không mang nghĩa 12 con thú hoặc cầm đó. Cả hai
quyển từ điển về tiếng Hán và Nôm, của Húnh Tịnh Của và Đào Duy Anh,
đều cho kết quả tương tự. Không bao giờ có sự việc: Tư = con Chuột, Sửu
= con Trâu, Dần = con Hổ, v.v. Tuy nhiên, ở phía dưới, chúng tôi sẽ mạo
muội thử t́m ṭi, và kiểm chứng, với tính cách sơ lược và tiêu biểu, mối
dây liên hệ trong ngôn ngữ giữa tên địachi với tên con cầm-thú tươngứng.
Bây giờ xin xem lại 10 thiêncan theo phát âm giữa các phươngngữ, như
sau.
Thiên-Can |
Hán |
P'u-Noi |
Dao |
Hẹ |
Quảng |
Q.thoại |
Ngô |
Hai-Nam |
Mân |
Giáp |
甲 |
Cáp |
Chạp |
gap |
gaap |
jia |
tsia? |
ga |
kah |
Ất |
乙 |
Hăp |
Dật |
jat/ jet |
yut |
yi |
́I? |
yat |
it |
Bính |
丙 |
Hoài |
Pềnh |
biang |
bing |
bing |
ping |
bing |
peng |
Đinh |
丁 |
Mừng |
Tềnh |
den |
ding |
ding |
ting |
ding |
teng |
Mậu |
戊 |
Púc |
Mù |
meu |
mou |
wu |
----- |
mao |
bou |
Kỷ |
己 |
Căt |
Kỳ |
gi |
gei |
ji |
i |
ki |
ki |
Canh |
庚 |
Côt |
Cành |
gang |
gang |
geng |
keng |
keng |
keN |
Tân |
辛 |
Nuông |
Phiền |
sin |
san |
xin |
----- |
tien |
sin |
Nhâm |
壬 |
Táu |
Nhiêm |
nhim |
yam |
ren |
----- |
jam |
jim |
Quư |
癸 |
Ca |
Cuồi |
gui/ kui |
gwai |
gui |
----- |
hui |
kui |
12 địa chi, phát âm theo các thứ tiếng Mường, Thái, Cam-Bốt, và các thứ
tiếng người dântộc P'u-Noi và A-Kha được thu thập từ tài liệu của
Cuisinier [7] và Roux [10], hoặc internet [13], bổ túc với bảng đối chiếu
12 địachi ở phía trên, được ghi lại như sau. (Tài liệu về tiếng Dao được
trích từ một quyển sách mới xuất bản về 'người Dao' [11]).
Địa-chi |
Hán |
Mường |
khmer |
Thái |
P'unoi |
Dao |
Cầm-Thú |
Thú (Mường) |
Tư |
子 |
ti |
jut |
chuat |
cḥ |
chây |
Chuột |
tsuôt |
Sửu |
丑 |
kheu |
chlauv |
châlu |
páu |
tsáo |
Trâu (Ḅ) |
tlu / klu |
Dần |
寅 |
rân |
khal |
khăn |
nhi |
diền |
Cọp |
khal/khan |
Măo |
卯 |
mẻo |
thoss |
thóh |
mau |
mảo |
Thỏ (Mèo) |
tho |
Th́n |
晨 |
sin |
raung |
mărong |
si |
chiàn |
Rồng |
ṛng |
Tỵ |
巳 |
tê |
msagn |
maseng |
so |
chẩy |
Rắn |
ran / zan |
Ngọ |
午 |
ngọ |
momi |
mamia |
sănga |
hử |
Ngựa |
ngưa |
Mùi |
未 |
mùi |
momê |
mamaê |
môt |
mảy |
Cừu (Dê) |
dê /tê /bê |
Thân |
申 |
thân |
vok |
wó?k |
san |
siên |
Khỉ |
vok |
Dậu |
酉 |
râu |
roká |
raka |
hau |
diểu |
Gà |
ka |
Tuất |
戌 |
tất |
tso |
tso |
sêt |
phút |
Chó |
tsó |
Hợi |
亥 |
hơi |
kau |
kun |
khơ |
hơi |
Heo |
kwi / kul/ kun |
Quan sát 3 bảng đối chiếu 12 địachi và 10 thiêncan, ta có thể đi đến
các nhận xét sau.
- Tất cả các tên địachi và thiêncan ở tiếng Việt đều có âm tương ứng
ngay trong các phương ngữ Hoa Nam. Giống nhất là các thứ tiếng Hẹ, Quảng
Đông và Hải Nam. Trong khi Hẹ cho ra 2 từ đặc sệt Việtnam: [Mui] (mùi)
và [Hoi] (hợi), Hải Nam cho biết [Ngo] và [Tuat] phát âm y hệt như vậy
trong tiếng Việt: [Ngọ] & [Tuất]. Tiếng Quảng Đông cho thấy người Yuệt ở
đó có phát âm 12 địachi và 10 thiên-can giống tiếng Việt nhiều nhất,
cũng như ảnh hưởng phát âm [Y] cho chữ [D] theo kiểu Nambộ: [Yan] =>
[Dần] và [Yâu] => [Dậu]. Xin nhắc lại, trong các phươngngữ BáchViệt cổ,
chỉ có phân nửa khối người nói tiếng Hẹ có phátâm [Y] quanthoại thành ra
[J]: Duyên-phận (Yuan fen) => [Jen-fen]. Tộc người khác cũng có chút
khuynh hướng đổi biến âm [Y] quanthoại chính là người Mân (Phúc Kiến) và
Hải Nam. Thông thường tiếng Mân sẽ lột âm [yờ] của [Y] để biến thành [I]
như tiếng Việt: [Yao] quanthoại => [iau] Mân => [yêu= iêu] Việt. [Yang]
quanthoại (= dê / cừu) => [yeung] quảngđông (= dương) => [jong] Hẹ =>
[iong] Mân. Trong khi tiếng Hải-Nam chỉ biến một số âm [Y]-quanthoại ra
âm [J] mà thôi. Thông thường vẫn giữ âm [Y]: [Yuan fen] => [Juan-fen].
Nhưng [Yao] (dược=thuốc) vẫn giữ [Y]: [Yuk].
- Có một điểm trùng hợp: {Măo}, địa chi thứ 4, có phát âm rất giống từ
tiếng Việt dùng để chỉ con Mèo. Tiếng Hán Việt thật ra là [miêu] hay
[mao], tương ứng với quanthoại [miau] hay [mao], quảngđông [maau] và Hẹ,
hai thứ [miau = miêu] và [meu = meo]: Nam xực như hổ nữ thực như
miêu. Thật ra địachi {Măo} viết Hán tự 卯 rất khác với Miêu = Mèo: 貓
. Địachi {Măo} mang tên một ngôi sao của 'nhị thập bát tú' ở trên trời.
Địachi {Măo} thông thường tương ứng với 'con Thỏ'. Đến xứ Việt đổi thành
con Mèo. Rất giống hiện tượng 'sư tử' ở Ấn-Độ, nhưng 'hổ' (cọp) tại Đông
Á và Đông-Nam-Á
- Theo [5], các loại cầm thú liên kết với 12 địachi trong tử vi
Đôngphương mang xuất xứ từ những vật tổ totem của thời bộ lạc xa xưa.
Nhiều bộ lạc khác nhau, tuy cùng một tộc người, vẫn có thể có vật tổ
khác nhau. Đó là một giải thích cho việc biến đổi giữa con Thỏ
với con Mèo, trong địachi thứ 4 {Măo}. Đặc biệt con Hổ rất phổ biến là
một totem chung cho rất nhiều tộc người miền rừng núi Á Châu: Sở Hùng,
Xuyên (Thục), Điền Việt, v.v. Con cừu cũng khá phổ biến, và totem của
siêu tộc Khương. Để ư từ Khương [qiang] 羌 mang cách viết y hệt hàm ư
'người chăn cừu (hay dê): [Qiang] 羌 giống như [yang] (dương) mang nghĩa
'cừu': 羊 viết chung với [ren] (nhân), tức 'người': 人 . Cũng có bộ lạc
như Thái Hạo thờ 'con Rồng', Thiếu Hạo thờ 'con Chim' (tiến đến 'con
Gà', tức địachi 'Dậu). Các thần thánh cổ thời như Phục Hy, Nữ Oa, Thần
Nông đều có thân rắn: Rắn cũng là một totem khá phổ biến. Con Hổ với con
Gà từ ngàn xưa nổi tiếng trong việc 'trấn tà, trị iêu ma'. Khai quật tại
Hemudu thuộc tỉnh Chiết Giang (tức xứ Việt của Câu Tiễn hồi xưa) t́m
thấy nhiều đồ sứ có h́nh con Heo, chứng tỏ con Heo có thể là một totem
của nhiều bộ tộc ở đó. Ngành khảo cổ cũng cho biết trong số những động
vật hoá đá t́m thấy trong nhiều hang núi, con Nai và con Thỏ xuất hiện
nhiều nhất, với 'tuổi đời' cũng đến 50000 năm. Nhiều vụ khai quật gần
đây tại Tứ Xuyên (địa bàn xưa của rất nhiều tộc 'man-di', như Khương,
Thái cổ, ...) [14] t́m thấy một di vật con rắn đầu chó uốn ḿnh quanh
thân cây dài 4 thước tây. Trong khi mô-típ h́nh 3 con Thỏ đuổi nhau
thành ṿng tṛn, với tai chạm vào đầu, t́m được ở miền Tây nước Tàu (khu
Tứ Xuyên) cũng rất giống với 3 con thỏ rượt đuổi tương tự tại các thánh
đường thời Trung Cổ ở Anh Quốc. 'Chó' cũng là một loại totem khá phổ
biến, ở các sắc dân: Mông Cổ, Yi (một nhánh của tộc Khương), Choang
(Quảng Tây), Tạng, Miêu, Bố-Y, v.v. Ngoài ra, người ta cũng để ư đến
liên hệ giữa cầm thú với địa chi qua tiến tŕnh thuần thục của thú vật,
làm bạn hoặc giúp việc với loài người, hay nuôi trong nhà: Chó, heo, ḅ,
trâu, gà, dê, cừu, ngựa, v.v. trước đây khoảng 5000 năm.
- Tên tháng dùng tên địa chi có lẽ xuất hiện trước tiên, có thể do ở
chỗ tên tháng được đặt nên trước khi số đếm được phổ biến trong dân
gian. Cũng như vậy, mới liên kết được với thiên văn, bói toán và không
lệ thuộc hoàn toàn vào số đếm. Tây phương cũng trải qua kinh nghiệm
tương tự. Tên tháng thường nối kết với tên của thánh thần, vua chúa La
Mă. Thí dụ: Tháng Ba March, tên gọi thần chiến tranh Mars - ngày xửa
ngày xưa chính là tháng số 1. Tháng Bảy July, sau tên hoàng đế Julius
Caesar. Tháng tám August đặt theo tên hoàng đế LaMă Augustus. Tháng Chín
September đăt theo số 7: septem, bởi ngày trước chính ra tháng thứ 7.
Tháng Mười October, thật ra trước là tháng 8. Số 8: octo. Xin nhắc lại:
bát độ trong âm nhạc: octave. Tử vi đôngphương khi xưa cũng quen gọi
tháng theo sát với địachi: tháng tư, tháng sửu, tháng dần, tháng măo,
tháng th́n, v.v.
- Qua 3 bảng đối chiếu trên, để ư phương ngữ Ngô Việt có nhiều khoảng
chừa trống nhất. Không có từ xử dụng hằng ngày tươngứng với Hán tự đối
chiếu trong cột thứ hai. Hoặc họ là tộc người ít liên hệ đến việc ‘phát
triển’ hay thích thú xử dụng 12 con giáp. Hoặc rất có thể người Ngô-Việt
gọi thẳng những địachi này bằng tên con Giáp. T́nh trạng này cũng thể
hiện qua những thứ tiếng khác như: Mường, Thái, Khmer, P'unoi. Chúng ta
lại có thể giải thích điểm gút mắt này bằng 'lí thiết' ở đây, cho rằng
tiếng Việt, nhất là Hán Việt, thật sự do tiền nhân các tộc người thuộc
khối Bai-Yue như: Hẹ, Quảng Đông, Mân, Hải-Nam, Ngô-Việt, mang đến xứ
Việt-cổ, ngay từ thời xa xưa. Tộc người Việt Nam chính là hỗn hợp của
các tộc người Bách Việt di tản xuống phối hợp với các dân bản địa chủ
lực: Môn-Khmer và Thái cổ. Nhiều từ chỉ 'con Giáp' tiếng Thái, Khmer
cũng rất giống tiếng Việt: chuat => Chuột; Thoh => Thỏ. Đặc biệt để ư
đến: Trâu và Khỉ. 'Trâu' trong tiếng Việt do tôn-sư quốc-ngữ kí âm ra.
Có thể dựa theo tiếng Chăm-pa [trêy]. Nhiều giả thuyết ngày trước dựa
trên các thư tịch hồi quốc-ngữ mới ra đời cho rằng: ‘Trâu’ xuất thân từ
[Tlu] biến thể từ [Klu] hay [Blu], y như: Chúa Blời => Chúa Tlời => Chúa
Trời. Để ư tiếng ‘nước’ nào cũng vậy, thường có ít nhất hai từ để
chỉ cùng một sự vật. Do ở đóng góp của các bộ tộc khác nhau, sống gần
hoặc chung tại một địa bàn. Tiếng Chăm-pa (tộc chủ lực: Môn-Khmer)
có ít lắm hai từ chỉ con Trâu, do đóng góp vài bộ tộc khác nhau:
[trêy] và [kabau] (hay [kapau]). [Trây] rất gần với [Trâu]. [Bờlu] có âm
sau [lu] rất giống tiếng Khmer và Thái: [Chalu]. [Kabau] lại có vẻ
(chỉ ‘có vẻ’ thôi) hợp thức giống kiểu tiếng Tàu: [Thủy Ngưu] tức [Shui
Niu], 'Ngưu' mang nghĩa {Ḅ}, 'Thủy' = nước. Tiếng Champa cũng vậy:
'Bau'= ḅ (giống tiếng P'unoi= pau); [Ka] một tiếp vĩ ngữ hoặc tiếp đầu
ngữ của vài từ Chăm chỉ ‘nước’ như: [nưKar] hay [Karam]. Trâu, tức Ḅ
sống dưới nước: Shui Niu / Ka-bau. [Shui niu] tức ‘ḅ nước’ hay ‘trâu’
có thể dẫn ta đến một giả thiết kiểu bỏ túi: ‘Phải chăng con giáp thứ 2:
{Sửu}, đại diện bằng ‘con Trâu’, chính là lối phát âm biến từ nhị âm
{Shui Niu} sang đơn âm [Shui] đọc nhanh thành [Sửu]’? Một giả thiết
khác, mới nhất và có lẽ hữu lí nhất, dựa trên cách phát âm của tiếng Hẹ,
so với quan-thoại. Hễ quanthoại đọc [Zou]1, tức ‘Trâu’ (Trâu: một nước
gần Lỗ ở Sơn-Đông. Trâu chính quê hương Mạnh Tử), th́ Hẹ phát âm như
[zeu], tức [Sửu]. C̣n 'Khỉ' tiếng Khmer đọc [vok], Thái [wo?k] và Mường
[vok] th́ sao? Ta nhớ tiếng Việt thỉnh thoảng ưa dùng từ kép: 'khỉ dộc',
và 'dộc' có bà con rất gần với [vok] tiếng Khmer hiện tại. Truy cứu
tiếng Môn-Khmer [15], ta thấy có đến cả chục từ dùng để chỉ 'khỉ'. Nhưng
một số lớn mang âm cuối [wak]. Thí dụ: 'Khỉ' = [rawak]. Có nơi: [riwak]
hay [reyak]. [Riwak] hay [wak] sinh ra [vok] Mường và Khmer, hoặc [wo?k]
tiếng Thái hiện nay, và [reYak] => [dộc] trong tiếng Việt. Cũng có bộ
tộc dùng [uKi] hay [duk]. [uKi] và [duk] có thể mang cùng gốc với ‘Khỉ
đột’.
- Thử quan sát con Dê hay con Cừu. Cừu hoặc Dê chính là một yếu điểm
của tiếng Tàu, bởi Hoa ngữ dùng chung một từ 'Yang' (Dương) 羊 để chỉ cả
hai, Cừu và Dê. Tuy thỉnh thoảng người Hoa phân biệt 山羊 'sơn dương'
[shan yang] (sơn= núi) để chỉ con Dê, và 绵羊 'miên dương' [mian yang]
(miên= tơ sợi= mien Hakka) chỉ con Cừu, rất thường họ ưa dùng chỉ một từ
羊 [yang] để chỉ cả Dê lẫn Cừu. Vào bất cứ một tiệm ăn Tàu nào, nếu nh́n
thực đơn tiếng Anh thấy món 'Lamb Hotpot' hay 'Lamb steam-boat' (tiếng
Tàu: [shuang yang rou]), ta phải hiểu đó chính là món 'lẩu Dê' chứ không
phải 'lẩu cừu non (lamb)' ǵ hết. So sánh 'cừu' và 'dê' ở phương diện
môi trường sinh sống, cũng giống như 'Thỏ' với 'Mèo'. Cừu và Thỏ thường
thích hợp với khí hậu miền ôn đới hơn là Dê và Mèo. Đó là lí-jo chính tử
vi con Giáp tại Việt Nam lại dùng 'Dê' và 'Mèo' thay cho 'Cừu' và 'Thỏ',
tuần tự, của tử vi Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật, Khmer, và Thái-Lan. Một
điểm khác, có liên hệ về ngôn ngữ giữa 'Mùi' với 'Dê' hoặc 'Cừu' hay
chăng? Cũng có thể: Có. Hai dẫn chứng tuy không đủ mạnh, nhưng vẫn là
dẫn chứng cho những công việc tiếp nối về sau. Thứ nhất, theo bảng trên,
địachi 'Mùi' ở tiếng Thái là [mamaê] và Khmer [momê]. Nhưng trong tiếng
Ấn Độ, con Cừu được gọi [Memnaa] và tiếng Samoa, thuộc Đa-đảo, là
[Mamoe]. Cả hai có phát âm bắt đầu với [M] như [Mùi] nhưng mang nghĩa
'con Cừu'. Thứ hai, tiếng kêu 'be he' của cả cừu lẫn dê trong tiếng Tàu
thường bắt đầu bằng âm [M]: Hakka (Hẹ): [moi] hay [mai]; Quảng đông:
[me] hay [mai], và quanthoại, 咩 [mie] hoặc [mai]. Tất cả đều giống âm
[Mùi].
- Con Heo tức con Lợn th́ sao? Rất nhiều người Việt thường nhầm lẫn
'Bắc-Nam' giữa 'ô' và 'dù', 'hoa' và 'bông', 'heo' và 'lợn', v.v. Loạt
bài này đă giải toả rất nhiều ngộ nhận như vậy. Xin nhắc lại, [ô] chỉ có
nghĩa [mưa] trong phương ngữ Phúckiến (Mân), giống y như [jù] hay [yù]
đọc theo kiểu Hakka, hay 'HánViệt' là [vũ] hay [yũ], mang nghĩa 'mưa'.
Thật ra tiếng Tàu jùng để chỉ 'cây Dù' phải dùng nguyên hai chữ [Yu San]
(quanthoại) hoặc [Oh San] (phúckiến). [San] mới thật sự mang nghĩa 'vật
che' viết tượng h́nh giống như cái Ô hay 'cây Dù': 伞 . Quốcngữ học thói
đơn-âm rất nồng nhiệt nên tự ư gạt bỏ từ then chốt [san] để giữ lại [ô]
và [dù], thuần mang nghĩa 'cơn mưa' mà thôi. Lí luận này đă được dùng để
lí giải địachi [Sửu] có thể là lối đơn-âm-hoá một từ kép [Shui Niu]
'Thủy-Ngưu' (chỉ giữ [Shui] => Sửu) dùng để chỉ con Trâu. 'Hoa' và
'Bông' đúng hơn một chút. 'Hoa' xuất xứ từ 花 [hua], đọc theo quảngđông
hoặc Hẹ là [waa] hay [faa]. Ngô-Việt: [ho] giống một hai địaphương tại
ViệtNam và Phúckiến, y hệt đánh vần: [hoa] [17]. Nhưng [bông] lại cùng
gốc với tiếng Môn-Khmer, Chămpa, và Mă-Lai: [bunga], và, rất đặc biệt,
cũng cùng gốc với một từ Hán rất cổ ít khi dùng: 菶 [beng] hay [peng].
Hakka và Quảngđông đọc [bung] y hệt như tiếng Môn-Khmer bị đơn-âm-hóa,
và tiếng Hán-Hàn có phát âm y hệt: [pong]. Heo và Lợn cũng y như vậy.
Người Nam-bộ rất ít khi dùng 'Lợn' để chỉ 'Heo' nhưng họ vẫn giữ một
thói quen xa xưa gọi một thứ bánh ngọt rất phổ biến: 'bánh Da Lợn'.
'Lợn' thật ra mang cùng gốc với tiếng người bản địa: Môn Khmer. Có chừng
cả chục từ khác nhau của các bộ lạc xưa, nhưng có nhiều từ mang phát âm
cùng gốc với 'Lợn': [ja-lo] (Semelai), [kaLek] (Danaw), [Le?] (Palaung)
(? tắc âm thanhmôn, giống âm giữa [uh] và [ah] khi nói: 'uh-ah'), và
[Lik] (proto-Waic). Nhưng 'Hợi' lại mang chút ít gốc Hoa-Nam. Tiếng Hoa
chính cống là 'Trư' tức 猪 [zhu]. Tiếng Hẹ chỉ 'Heo' là 豨 [Hi] mà người
Quảngđông đọc [Hei] rất giống [Hợi] và [Heo]. Để ư tiếng Hẹ và Quảng đọc
địachi 'Hợi' y hệt như tiếng Việt: [Hoi]. Thêm một trườnghợp cho thấy
tên địachi giống tên ... conthú? [18].
- Con Ngựa có lẽ là con thú định đoạt nơi 12 con Giáp được phát triển
đến độ hoàn chỉnh. Bởi 2 lí do. Thứ nhất, nó là một trong những con thú
chủ lực và ṇng cốt của 12 con Giáp. Con Trâu có thể thành Ḅ. Thỏ thành
Mèo. Heo ra Voi [19], Lợn ra Lợn Rừng, Cừu thành Dê, Sư Tử ra Hổ, v.v.
Nhưng Ngựa nói chung vẫn giữ nguyên con Ngựa, con chiến Mă. Thứ hai –
con Ngựa xuất phát từ vùng b́nh nguyên phía Tây nước Tàu, địa bàn xưa
của người Hung Nô / Mông Cổ, cách đây trên dưới 5000 năm. Ở miền Hoa Nam
kéo xuống Đông Nam Á, con Ngựa đến khá muộn. Ở những vùng này, con ‘Woi’
phổ biến hơn [20]. ‘Ngựa hơn Voi’ trong chiến tranh, cũng là lư do chúng
tôi đă viện dẫn cho thế giặc mạnh như vũ băo của Hoa tộc khi họ kéo quân
tiến chiếm Hoa Nam vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên. Chúng tôi đă liu
ư phải tốn đến 800 năm mới nhất thống được Hoa Bắc trong khi chiến trận
thôn tính Hoa Nam chỉ kéo dài trên dưới 8 năm. Chung quy cũng tại con
Ngựa. Theo nguyên lí của ngôn ngữ, nơi nào sự vật xuất hiện đầu tiên, từ
vựng nguyên thủy của địa phương đó có khuynh hướng được giữ rất vững, dù
'chuyển ngữ' sang những ngôn ngữ khác. Thí dụ: cà-phê, xuất hiện đầu
tiên ở Trung Đông, nơi đó người ta gọi [kaffa] để ghi nhớ nơi chốn t́m
ra càphê đầu tiên. Con Ngựa cũng vậy. Rất nhiều tiếng tả Ngựa bằng âm
đầu [M] như [momi] (Khmer), [mamia] (Thái) và nhất là [Mă] (Hoa), tất cả
đều mang gốc với tiếng Mông-Cổ: [Morb]. Chỉ có tiếng Việt gọi con Mă
bằng Ngựa và dính với địa-chi Ngọ, y như tiếng Hải Nam [Ngo] jùng cho
địa chi thứ 7 [21]. Xem thật kỹ các thứ tiếng khác, ta sẽ thấy Ngựa (hay
Ngọ) có thể mang cùng gốc với các thứ tiếng sau đây:
* Hindi (Ấn Độ): [ghoraa]; Bengali (Bengladesh): [ghora];
* Sinhalese (Tích Lan): [aswaya] và Hmong-Mien (Miêu-Dao): [nees]
Cũng rất có thể người Yi, người Bạch, người Thoăn, người Điền, người
Ai-Lao ở Vân Nam, ít ra vào thuở cổ thời, có phát âm cho con Mă giống với
kiểu Ấn-Việt: [Gho] => Ngọ => Ngựa. Vân Nam tức nước Điền xa xưa, rồi Nam
Chiếu rồi Đại Lư của ngón Nhất Dương Chỉ, chính là nơi có nhiều truyền
thuyết về một con ngựa đen tuyền thật tốt mang tên Nguyên Mă [8]. Địa điểm
xuất phát của những con Thiên Lư mă này là hai ngọn núi gần nhau mang cả
hai tên [Mă] và [Ngọ]: 'Mă Đầu' và 'Ngọ
Trà Sơn'. Presto! Truyền tích về loại ngựa đặc biệt này ở xứ Vân Nam (nơi
có vẻ hội đủ rất nhiều tiêu chí chúng tôi đề ra ở phía trên) đă được Kim
Dung xử dụng trong truyện 'Lộc Đỉnh Kư' ở đoạn đua ngựa do Vi Tiểu Bảo và
thái-tử kiêm thái-giám Ngô Ứng Hùng (con trai tướng Ngô Tam Quế) tổ chức.
Xin quay về với đề tài chính: Các vị tiền bối phát triển 'thuyết tử vi
12 con Giáp', xin tạm cho ở khu vực Vân Nam, có liên hệ huyết thống với
tộc người Việt Nam sau này hay chăng. Thưa Có. Qua liên hệ giữa tộc Thái
cổ hoặc Khương (Di & Bạch, v.v.) ở Vân Nam, với người Mường tại xứ An Nam.
Việt Nam Sử Lược [12] có ghi rằng vào cuối đời nhà Đường bên Tàu, dân
Mường Mán bất măn với chế độ đô hộ, lôi kéo đồng chủng
thuộc xứ Nam Chiếu kéo quân qua can thiệp nội bộ An Nam. Ở xứ Nam Chiếu,
người ta gọi 'vua' bằng 'Chiếu'. Có tất cả 6 xứ: Mông Huề, Việt
Thác, Lăng Khung, Đằng Đạm, Thi Lăng, và Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở cực Nam
nên gọi Nam Chiếu. Khoảng những năm 713-742, chiếu Bi-La-Cóp lo đút lót
quan tiết độ sứ ở Kiếm Nam là Vương Dục để thôn tính 6 chiếu lại làm 1. Từ
đó Nam Chiếu rất mạnh, đem quân đánh Thổ Phồn (Tây Tạng). Năm Bính Dần
(846) quân Nam Chiếu tràn sang cướp phá Giao-Châu bị quan kinh lược sứ Bùi
Nguyên Dụ đánh đuổi đi.
Giặc giă với Nam Chiếu kéo dài đến năm Quí Mùi (863) khi Nam Chiếu
chiếm được xứ An Nam và phong Đoàn Tù Thiên (họ hàng với Đoàn Dự) làm
Tiết-độ-sứ Giao Châu. Sau 10 năm loạn lạc với Nam Chiếu, trung-tướng Cao
Biền chiếm lại được xứ An Nam cho nhà Đường vào năm 856. Cao Biền chính là
người đề xuất xây lại thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch năm xưa.
Bây giờ xin dùng chuỗi tŕnh lí thuyết ở đây để thử minh giải một vấn
đề khá lí thú: Tại sao người Việt có thói quen gọi tháng Mười Một, tháng
Mười Hai, và tháng Một, tuần tự, bằng tháng Một, tháng Chạp và tháng
Giêng?
Với chút ít trực giác, chúng ta thấy nếu dùng lí thuyết Âu Lạc ở đây lư
giải được cội nguồn của tên gọi 3 tháng cuối năm và đầu năm này, lí thuyết
sẽ được tăng thêm sức thuyết phục, và người Việt sẽ có dịp t́m hiểu thêm
những nét văn hoá cổ thời của tộc người Việt Nam. Tệ nhất, lí giải cũng sẽ
tạo nên được một đường hướng mới để thử nh́n lại con đường mà tiền nhân đă
đi qua.
Cộng thêm vào chút ít trực giác đó với một mớ lô-gích căn bản, chúng ta
có thể thấy 'bí ẩn' của cả ba tên gọi tháng 1, tháng Chạp và tháng Giêng,
có thể được giải quyết cùng một lượt, bằng một phương pháp phân tích
chung.
Trước hết, tháng Một. Hồi c̣n tuổi ấu thơ, chúng tôi
nhớ có nghe đâu đó gọi tháng 11 bằng tháng Một. Xưa nay, vẫn tưởng đó chỉ
là một lối gọi tắt: 'Mười Một' => 'Một'. Nhưng không phải. Xem lại phần
tóm tắt phía trên, ta thấy ngài Mường gọi tháng 11 bằng [khảng Môch].
'Môch' chính là 'Một'. Người Tày-Nùng cũng vậy [6]. Họ gọi tháng 11 bằng
[Bươn Êt]. [Bươn] = tháng, và [Êt] = 1. Như vậy, người Việt xưa chắc chắn
không thể nào nhầm lẫn hoặc gọi tắt 11 thành 1 được. Họ có ít lắm hai
'đồng minh' thuộc tộc Thái cổ, là Mường và Tày - Nùng [22], cùng gọi tháng
Mười Một là tháng Một.
Xem lại 12 con Giáp chúng ta sẽ thấy các tên gọi tháng được phân bố như
sau:
Tháng Tư= tháng 11; tháng Sửu= tháng 12; tháng Dần= tháng 1; tháng Măo=
tháng 2; tháng Th́n= tháng 3; tháng Tỵ= tháng 4; tháng Ngọ= tháng 5; tháng
Mùi= tháng 6; v.v.
Như vậy tháng 11 người xưa ưa gọi tháng Tư. Tư là địa chi đầu tiên hay
địa chi số 1 của 12 địa chi. Từ đó tháng Tư, tháng số 1 của 12 địa chi,
được gọi 'tháng 1'. Tháng Mười Một gọi theo địachi là tháng Tư, tức tháng
Một.
Tháng Chạp? Chính là tháng thứ 2, theo kiểu 12 con
giáp. C̣n gọi tháng Sửu. 'Sửu' phát âm ra sao trong các phương ngữ bên
Tàu? Tiếng Hẹ: [chiu], Quảngđông: [chau], Quanthoại: [chou], Ngô-Việt: [ts
hơw], Mân: [thiu], Hải-Nam: [siu]. Phát âm Hải Nam giống 'Sửu' nhất, và
Quảngđông & Quanthoại giống [chạp] nhất.
Xin để ư tóm tắt phía trên, cho biết người Tày Nùng gọi tháng Chạp bằng
[Bươn Lap]. Tại sao [chap] lại biến thái với [lap]. Tra cứu vài quyển từ
điển tiếng Tàu trên internet (thí dụ [16]) chúng tôi phát hiện ra 3 từ đặc
sệt Hoa, thuần túy dùng để chỉ tháng 11, tháng 12, và tháng Giêng. Phía
dưới sẽ bàn đến tháng Giêng. Tháng 11 người Tàu xưa gọi [Dong Yue] 冬月
(Đông Nguyệt), dần dà về sau tách Đông 冬 ra dùng để chỉ mùa Đông. Tháng 12
họ gọi [La Yue] 腊 月 'tháng Lạp' giống người Tày-Nùng thuộc tộc Thái-cổ.
'Lạp' 腊 nghĩa là ǵ? 'Lạp' tiếng Hẹ đọc y hệt [lap]. Quảng: [laap].
Quanthoại: [la]. Ngô: [la?]. Mân: [lah]. Mang nghĩa: (i) lễ tế vật săn bắn
vào cuối năm; (ii) khoảng thời gian cuối năm âm lịch; (iii) làm muối, hoặc
phơi khô thức ăn (Thí dụ: lạp xưởng 臘 腸 laap cheung, là thứ 'xúc xích'
phơi khô của người Quảng Đông); (iv) giỗ cúng tháng Chạp. (Để ư từ điển
của Húnh Tịnh Của [23] không có ghi 'tháng Lạp' mà chỉ ghi 'tháng Chạp'
với ư nghĩa của 'Lạp'. Luận cứ chúng tôi nhấn mạnh cội nguồn âm [CH] trong
[Chạp], và đầu tiên phô trương ra chữ 'Lạp'.
Như vậy ta thấy rơ tháng 12 xưa được gọi tháng Sửu, tức [chou]
quanthoại và [chau] quảngđông. Đồng thời, có những bộ tộc khác bên Tàu gọi
tháng 12 bằng 'tháng' Lạp, dựa trên một tập tục khác không dính dáng đến
12 địachi. Người Tày-Nùng vẫn giữ lối gọi 'Lạp' này. Nhưng người Việt ở
nước Nam, bao gồm nhiều tộc người khác nhau, ra sức tổng hợp hai âm [Chau]
và [Lạp] với nhau thành ra [Chạp]:
{Chạp} = {Chau} + {Lạp}
Tháng Giêng? Lư giải về 'tháng Giêng' cho thấy chỉ có
'lí-thiết' của loạt bài này mới có thể đưa đến một giải thích (đầu tiên)
ăn khớp với tháng Một - tháng Chạp. Người Hoa vào lúc cổ thời ưa yùng [Zou
yue] 陬 月 để chỉ tháng Giêng. [Zou] phát âm theo Hẹ chính là [zeu], và
quảngđông: [zau]. Không liên hệ đến 12 con giáp đếm theo tháng, tuy âm
hán-việt chính là 'tchâu' như nước 'Trâu' của Mạnh Tử. Thế nhưng đối với
hệ thống tử vi 12 địa-chi, tháng Giêng chính là tháng Dần. 'Dần' phát âm
ra sao ở các phương ngữ Bách Việt? Quanthoại đọc [Yin], với âm [Y] ở đầu
giống Quảng Đông: [Yan]. Ngô-Việt: [Iing]; Mân: [In] và Hải-Nàm: [Yan],
giống Quảngđông.
Để ư 2 âm tiếng Hẹ chỉ tháng Giêng: [zeu] và [Jin]. [JIN] chính là phát
âm 'Dần' (Jần) trong tiếng Hẹ. Tháng Jần chính là tháng Giêng. [JIN] =>
'Giêng'. Âm [zeu] và nhất là âm [JIN] (chỉ tháng Dần) đều có thể tiến đến
âm [Giêng] với trợ júp của quốc-ngữ:
(Tháng) GIÊNG = {zeu} + {JIN} từ tiếng Hẹ. QED.
TÓM TẮT
Qua bài này chúng tôi thử quan sát 12 con Giáp dưới góc độ của 'truyền
thuyết giải mă' ở đây. Nhân tiện, một số lư giải mới đă được đề ra, dựa
trên lư thuyết hợp chủng, để giải thích tại sao người Việt có thói quen
dùng tháng Một, tháng Chạp, tháng Giêng để chỉ, tuần tự, tháng 11, 12 và
tháng 1.
Đi sâu vào vấn đề lư thuyết và tiền đề, chúng ta bắt đầu thấy rất nhiều
công tŕnh hàn lâm rất nổi tiếng xưa nay, vẫn có thể dựa vào một số các
tiền đề mà nền tảng hăy c̣n chứa ít nhiều lấn cấn. Quan trọng nhất là thứ
tiền đề đă đưa đến hệ luận t́m ṭi lối phát âm xưa của người Tàu dựa trên
phát âm của tiếng Hán Việt, hoặc tiếng Hẹ, tiếng Mân ngày nay. Đặc biệt
tiếng Hán Việt. Nếu nhớ lại hầu hết sách vở các tiền bối tại Việt Nam đều
cho rằng tiền nhân nước Nam đă 'biến chế' cách đọc chữ Hán của người Tàu,
theo kiểu Việt để giữ vững tinh thần độc lập kiểu ta. Từ đó sinh ra thứ
phát âm Hán Việt.
Thế nhưng ở phần đầu, chúng ta đă thấy các học giả hàng đầu Tây Tàu lại
ưa dùng tiếng Hán Việt để truy tầm phát âm cổ tiếng Tàu bởi họ cho rằng,
người An Nam học cách phát âm y như người Tàu hồi thời An Nam đô hộ phủ.
Chúng tôi t́nh cờ phát hiện được điểm tréo cẳng ngỗng ở trên trong tư
duy Việt và Hoa, và đă dẫn Lê Ngọc Trụ [3] trong việc nh́n nhận phát âm
Hán Việt nhất là các dấu, các thinh. đă được quy định khá cấp tốc, thiếu
thốn kiểm chứng với âm Hán tiêu chuẩn. Thêm vào đó chúng tôi đă minh giải
trong 3 bài vừa qua, tiếng Hán Việt thật ra là một hỗn hợp rất ḱ diệu
giữa các phương ngữ Hoa Nam, đặc piệt: Hẹ, Quảng Đông, Phúc Kiến - Triều
Châu, và Hải Nam. Tiếng Nôm cũng y hệt như vậy. Xưa nay vẫn tưởng là sản
phẩm bản địa, nhưng một phần lớn lại chính do người Việt mang sang từ bên
Tàu. Rất nhiều thanh điệu được biến đổi, và nhiều từ hoán chuyển tổng hợp
với mớ từ vựng có sẵn ở người bản địa: Môn Khmer và Thái cổ.
Giữa một t́nh trạng rối bời như vậy, tiền nhân nước Nam lại nhất thống
được tiếng nói - cả Nôm lẫn quốc-ngữ - và chữ viết (quốc-ngữ) và để lại
cho hậu thế cả một kho tàng văn hoá và thi văn bất hủ. Trong những t́nh
huống luôn luôn khẩn trương với đe dọa từ những thế lực bên ngoài. Đặc
biệt, họ đă để lại rất ít dấu vết về những khó khăn đă kinh qua. Trong
trang sử cũng như trong ngôn ngữ.
CẢM TẠ: Xin thành thật cám ơn anh Nguyễn Cung Thông (Melbourne), đă gợi
ư 'thử xem lại 12 con giáp', cùng những trao đổi email, tài liệu riêng về
đề tài khá quan-trọng này.
Ghi Chú
[1] Phát âm 'chuyện' => 'chiễn' trong tiếng Mường. Để ư âm vận tiếng
Mường khá giống phát âm một số vùng Nam Bộ, trên rất nhiều âm, trong đó có
'uyê', như 'truyền thuyết', đọc như [triền thiết]. Thí dụ: 'chuyện' người
Mường phát âm như 'chiễn', 'duyên' Mường đọc như 'diên'. Rất giống biến
thái giữa quanthoại và quảngđông: âm [chuan] thường tương ứng với
'chuyền', 'chuyển', 'chuyện' - nhưng biến thái với Hakka rất thường [chon]
mang chỉ một mẫu âm [o], quảngđông [chyun] như đảo ngược với tiếng Việt.
Biến thái từ [chuan] có vẻ giống Mân nhất bằng âm [chhoan], nhưng đôi khi
Mân cũng chuyển thành một mẫu âm, [chheng] hay [chhun]. Một trong những
dẫn chứng khá gay cấn chính là 'Việt' trong 'Việt Nam'. Quảngđông đọc
'Yuet' gần giống với 'yuyệt', và quanthoại [yue], cũng một thứ nhị- âm có
[u] ở đầu. Một âm nữa của 'việt' chính là 'vượt'. Hakka đọc [zat] hay
[jet]. Nhưng Mân đọc [oat] hay [wat], vẫn mang âm [u] trước. Như vậy một
kư âm khác có thể lối đọc tiền nhân chính là [vuat] hay [vuợt] với âm [u].
Nhưng các tôn sư quốc ngữ không sáng tác nhị âm [uơ] và đành phải dùng
[iê] => [việt]. Như vậy âm [iê] kiểu Mường / Nam bộ thay cho [uyê]:
[chiện] < [chuyện] / [Việt] < [Vuyệt] hay [vuật] lại một điểm cần để ư.
Tương tự: [giả thiết] mặc dù mang nghĩa hẹp hơn [giả thuyết] nhưng cũng
cho thấy tương cận giữa [thuyết] > [thiết].
[2] 'Phiênthiết' của học giả Tây phương và Tàu có vẻ không khác với lối
'phiênthiết' của các tiền bối tại Việtnam vào đầu cho đến giữa thế kỷ 20,
khi họ t́m cách đánh dấu lại các từ Hán Việt ít dùng (bởi không ai biết
tiền nhân thật sự phát âm ra làm sao). Thí dụ: Lê Ngọc Trụ [3] phân tích
phiên thiết 'cây BÚT' và cho rằng đáng lẽ 'Bút' được phát âm 'Bất' mới
đúng. Lư giải thật ra, với kính phục hăy c̣n đó, đă dựa vào một cái ṿng
lẩn quẩn: {bút}= {bi + ất}, viết và phân âm theo ... tiếng Hán Việt. Thật
sự, tra từ điển liên phương ngữ chúng ta sẽ thấy: Hẹ: [bit] => cây biết.
Quảng: [bat]=> bất, giống Lê Ngọc Trụ [3]. Quanthoại: [bi3]. Ngô: [pI?] (?
tắc âm thanh môn). Mân: [pit], giống Hẹ, nhưng âm đầu [b] => [p].
[3] Lê Ngọc Trụ (1960) Chánh tả Việt ngữ. Nxb Xuân Thu 1991. Trường Thi
tái bản.
[4] Người Yi có lẽ thuộc nhóm Môn-Khmer. Ngôn ngữ họ thuộc nhóm
Tạng-Miến, và có chữ viết cổ lâu đời khắc trên những mảnh đá hoặc trong
động đá. Tộc gốc của họ theo sách vở Tàu chính là siêu tộc Để (hay Địch) +
Khương (Di Qiang). Cũng có thể, theo thiển ư, họ thuộc tộc Thái-cổ. Tiền
thân của họ chính là nhóm người tạo dựng nên xứ Nam Chiếu, tức Đại Lư của
‘Nhất Dương Chỉ’ Đại sư Đoàn Nam Đế trong truyện của Kim Yung.
[5] Thường Tuấn (2005) Văn Hoá về 12 Con Giáp. (Hàn Ngọc Lan biên tập).
Nxb Tổng Hợp Tp HCM.
[6] Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí (1974) Từ điển
Tày-Nùng-Việt. Nxb KhoaHọc XăHội (Hànội)
[7] Jeanne Cuisinier (1946) Les Mường - Géographie humaine et
Sociologie. Institut d'Ethnologie. Paris
[8] Chiêm Toàn Hữu - Lư Tinh Ích (hiệu đính) (2004) Văn hoá Nam Chiếu
Đại Lư. Bản dịch: Nguyễn Thị Thanh Huệ, Nguyễn Mai Lan, Nguyễn Hương
Giang, Phan Minh Thanh. Nxb Văn Hoá Thông Tin.
[9]
http://www.chineselanguage.org/cgi-bin/query.php?table=hakka&mode=english&sound=no&beijing=pinyin&canton=jyutpin&hakka=default&fields=pinyin,english&lang=en&show=frequent
[10] Henri Roux (1954) Quelques Minorités Ethniques du Nord-Indochine.
France-Asie. Janvier-Février 92-93. Tome X.
[11] Vơ Mai Phương (Chu Thái Sơn chủ biên) (2005) Người Dao. Nxb Trẻ
[12] Trần Trọng Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu của Bộ
Giáo Dục xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
[13] http://eprints.anu.edu.au/archive/00000512/00/thai_time.html
[14] Benjamin Robertson (2005) Ancient ruins rewriting China history.
IN:
http://english.aljazeera.net/NR/exeres/6D639A4C-D735-4CD2-A215-A593EC27D5D9.htm
[15] http://home.att.net/~lvhayes/Langling/Glossary/glosspg1.htm
[16] www.njstar.com / www.zhongwen.com /
www.chineselanguage.org/cgi-bin/cedict.php?dbase=ce&query=81D8&first=0&encoding=utf8-tw
[17] Những người học quanthoại sẽ dễ thắc mắc tại sao chử ‘Hoà’ tiếng
Việt lại tương đương với lối đọc [He] 和 quanthoại. ‘Hoà’ chính là kí âm
của tiếng Mân [hoa] hay Hẹ [wa]. [Wa] giống phát âm Nam Bộ hơn. Chúng ta
thấy các tôn-sư quốcngữ đă hết sức lúng túng ở việc kí âm rất nhiều từ sau
khi quyết định không dùng chữ cái [W]. Điển h́nh họ đặt ra [qua] để chỉ
‘Tôi’ theo lối nói Phúckiến, Mường, Nhật và Nam bộ. Thật ra [qua] chỉ
{tôi} phải kí âm [wa] mới đúng, bởi người nam bộ không hề phát âm như
[kwa] mà chỉ có [wa]: ‘Ngày mai nếu em ở nhà, wa sẽ (k)wa thăm em’. Thí jụ
khác: con Quạ (chim) người Hẹ phát âm như [vua], [v] thay [w], vẫn nhẹ hơn
[kwạ]. Hiện tượng dùng [kw] thay [w], và [v] thay cho [w] và [by] nhẽ ra
phải được nghiên kíu từ lâu. Đối với [v] thay cho [w], mọi việc sẽ đâu ra
đó nếu chỉ thay cho [w] y như phát âm người Hẹ và người Sơn Đông hiện nay.
Nhưng sai lầm ở chỗ [v] ôm đồm thay luôn cho [by]: ông byua => ông Vua.
Hiện tượng [v] biến thái với [w] có thể dễ dàng t́m thấy trong ngôn ngữ Âu
Châu: Rượu vang (chát): Vino (Ư) => Vin (Pháp) => Wine (Anh). [V] <=> [W].
[18] Xem bảng đối chiếu phía trên, sẽ thấy c̣n một từ nữa để chỉ con
Heo: [cúi] theo kiểu Mường [kwi] / [kul], hoặc Khmer [kau], hay Thái
[kun]. Hiện ‘cúi’ vẫn c̣n dùng tại một số khu vực bắc Trung bộ. Thêm lần
nữa: mỗi bộ tộc có lối dùng từ riêng để chỉ cùng một sự vật. Tiến bộ của
văn minh qua phương tiện truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền
h́nh, internet, v.v. đă dẫn đến việc chiết lược bớt những từ đồng nghĩa,
và chỉ dùng những từ quen thuộc nhất do người thành thị xử dụng.
[19] Nguyễn Cung Thông (2005) Trao đổi i-meo về 12 con Giáp. (Tháng 8 -
2005)
[20] Thời hai bà Trưng, rồi bà Triệu, xứ Việt cổ vẫn dùng Voi. Hoa tộc
đă dùng ngựa trước đó ít lắm cũng 500 năm. Hoa tộc ưa chế giễu Bà Triệu (khởi
nghĩa năm 284), ra trận dùng voi bằng cách miêu tả bà không mặc áo để lộ
vú dài 3 thước. Sử gia Ngô Sĩ Liên và rất nhiều vị khác đă vô t́nh không
minh giải vấn đề này và ghi lại y chang từ thưtịch cổ của Tàu. Thật ra vú
dài 3 thước, theo thiển ư, được dùng để tả cái ‘ṿi’ của con voi. ‘Thước’
đọc theo Hải Nam là [xiớk] (Hán-Bách-Việt), HánViệt là [xích]. Hẹ: ch’ak,
Quảng đông: [tsek], Ngô: [tsha?], Mân: [chhek]. 1 thước = 0.3333 thước tây
(m). Do đó 3 thước xưa gần bằng 1 mét tây. Đúng với chiều dài b́nh quân
của cái ṿi đi trước con voi.
[21] Người Hải Nam ngày nay là hậu duệ của hai sắc tộc cổ thời: Lê tộc
và Miêu tộc, cộng với nhiều đợt ji tản từ Hoa lục, đông nhất người Mân tức
Phúc Kiến - Triều Châu. Tộc Lê có bà con xưa với người Choang ở Quảng Tây,
và Tày-Nùng, Mường ở ViệtNam, thuộc chủng Thái cổ.
[22] Nên nhớ, trong tiếng Tày-Nùng hoàn toàn KHÔNG có dấu 'ngă' ~.
[23] Huỳnh Tịnh Paulus Của (1998) Đại Nam Quốc Âm Tự Vị - ấn bản
1895-1896. Nhà xuất bản Trẻ
|