|  |  
    Bản thông điệp 12.000 
                năm của tổ tiên người Việt   
                
                HÀ VĂN THÙY  Nhà 
    nghiên cứu Trương Thái Du có bài:
    
    “Những con chữ khởi thuỷ và một áng văn rất sớm của 
    loài người” trên mạng vannghesongcuulong.org ngày 3.5.06. Đọc bài 
    điểm báo và đi sâu vào nguồn tư liệu do ông giới thiệu, chúng tôi nhận ra 
    đây là vấn đề rất lớn, cần được t́m hiểu thấu đáo.
 
    
                                                    
    1/ Tóm 
    lược tài liệu.  
     Nhờ 
    tác giả bài báo, chúng tôi t́m được những tài liệu sau: 
      
     1.a/ 
    ‘Chữ viết cổ nhất’ t́m thấy ở Trung Quốc. BBC News 17.4.2003.(1) 
      
    Trong 
    24 ngôi mộ được khai quật tại làng Giả Hồ, di chỉ có tuổi 6.600 đến 6200 năm 
    TCN thuộc tỉnh Hà Nam, tiến sĩ Garman Harbottle thuộc Pḥng thí nghiệm Quốc 
    gia Brookhaven, New York, Hoa Kỳ cùng nhóm khảo cổ Trường Đại học Khoa học 
    và công nghệ tỉnh An Huy Trung Quốc xác định được 11 kư hiệu đặc biệt được 
    khắc trên mai rùa. Harbottle cho biết: Điều rất có ư nghĩa là những kư hiệu 
    trên có sự gần gũi với chữ Trung Quốc cổ. Trong những kư hiệu đó có cả biểu 
    tượng về “mắt’ và “cửa sổ”,  số Tám và 20, tương đồng với những kư tự được 
    sử dụng hàng ngh́n năm sau vào thời nhà Thương (1700 đến 1100 TCN). Chúng 
    sớm hơn những kư tự được phát hiện tại Mesopotamia hơn 2000 năm.
 
	Trong một vài vỏ rùa người 
    ta cũng t́m thấy những ḥn sỏi nhỏ. Nhóm nghiên cứu Giả Hồ cho rằng những vỏ 
    rùa chứa đá cuội được dùng làm nhạc cụ phát tiếng kêu lách cách trong nghi 
    lễ Shaman. Trong một ngôi mộ có 8 vỏ rùa cùng bộ xương của người đàn ông bị 
    mất đầu. Những vỏ rùa được phát hiện vào năm 1999, khi nhóm nghiên cứu khai 
    quật những ngôi mộ trong đó có những ống sáo cổ làm bằng xương. Đó là những 
    nhạc cụ sớm nhất được biết tới.  Nghiên cứu này được công 
    bố trên tạp chí Antiquity.     1.b Ống sáo cổ. BBC News 
    23.9.1999 (2)   Tiến sĩ Garman Harbottle 
    thuộc Pḥng thí nghiêm Quốc gia Brookhaven New York cùng đồng nghiệp Trung 
    Quốc phát hiện những ống sáo làm bằng xương chim hạc tại di chỉ Giả Hồ tỉnh 
    Hà Nam Trung Quốc. Những ống sáo 9000 tuổi làm bằng xương chim được khoét từ 
    5 đến 8 lỗ, chiếc dài nhất đo được 24 cm. Đáng chú ư là một trong những ống 
    sáo đó vẫn c̣n thổi được. Giả Hồ là di chỉ lớn, có tới 300 ngôi mộ được phát 
    hiện, trong đó có nhiều đồ tuỳ táng. Sưu tập sáo Giả Hồ là những ống sáo sớm 
    nhất của người hiện đại được phát hiện, tuy người ta đă biết đến những ống 
    sáo 45.000 tuổi của người Neanderthal tại Slovenia năm 1995.   1.c Khảo cổ chữ viết.(3)   Chúng ta biết nhiều về làng 
    Bán Pha tỉnh Sơn Tây Trung Quốc nơi phát hiện mộ Tần Thuỷ hoàng với hàng 
    ngh́n tượng lính đất nung cùng nhiều hiện vật bằng đồng. Ngay dưới làng Bán 
    Pha 3,5 m là di chỉ khảo cổ khác, được gọi là Bán Pha 2, niên đại 12.000 năm. 
    Tại đây người ta t́m được một b́nh gốm dính ở đáy một chất giống như cặn chè. 
    Đặc biệt là bề mặt b́nh có một văn bản khắc chữ tượng h́nh giống chữ Trung 
    Hoa cổ, mang tính biểu tượng cao nhưng không giống với tự dạng chữ Hán hiện 
    đại. Nhóm của tiến sĩ Jeff Schonberg Đại học Angelo bang Texas Hoa Kỳ cố 
    gắng t́m mối liên hệ với tiếng Trung Quốc để giải mă câu chuyện. Một câu 
    chuyện đạo đức như là nghi lễ chữa bệnh. Để hiểu hiệu lực của câu chuyện cần 
    t́m hiểu cảnh quan tinh thần vùng Tây An. Miền quê này có nhiều g̣ đất 
    thiêng mang tinh thần bái vật giáo, được coi như những ông thày dạy cách 
    canh tác cũng như phép ứng xử… Câu chuyện trên cái b́nh liên quan đến “hành 
    vi xấu” mà ngôn ngữ ngày nay gọi là “sự kiêu ngạo”. Sự kiêu ngạo này không 
    phải do con người đối xử với nhau mà với thần linh, thể hiện ở chỗ phớt lờ 
    hay không tôn trọng sự khôn ngoan của các vị thần. Câu chuyện trên cho thấy: 
    hành vi xấu làm sa đoạ tinh thần cùng sự cứu rỗi.   Có một thời đen tối Thế giới bị đảo lộn.   Thời kỳ ảm đạm xảy ra do 
    con người ứng xử tồi tàn và xúc phạm Thuỷ thần. Do vậy con người bị bệnh 
    tật. Quan hệ giữa người và người 
    trở nên rối loạn.   Phương thức cứu chữa: Con người đến thưa với Sơn 
    thần. Sơn thần biết lư do khiến 
    Thuỷ thần giận dữ. Thần khuyên con người phải 
    làm cuộc hành hương cứu rỗi. Trên dải núi xa sẽ thấy một 
    loại cây, hăy mang về chế thành chè uống. Sự tha thứ xảy ra, bệnh sẽ 
    khỏi và bóng tối biến thành ánh sáng.   Dân địa phương cho biết: 
    câu truyện trên vẫn được truyền miệng trong vùng Tây An. Tiến triển lịch sử 
    cùa Trung Quốc hầu như thúc ép con người hiện nay sống với tâm trạng giận dữ. 
    Có nhiều nguyên nhân nhưng lư do thuyết phục nhất là trẻ con ở đây thường 
    được đưa tới trường rất sớm. Nhà trường giáo dục một lề thói chống lại 
    truyền thống gia đ́nh. Hầu như những đứa trẻ này không trở về làng nữa.   
	2/ Ư kiến các nhà khoa học:
 2.a Ư kiến các nhà khoa học Mỹ.
 
 Phát hiện trên mai rùa đă gây tranh luận mà người cầm đầu cuộc khai quật cho 
	là “một dị thường”. Tiến sĩ Harbottle nói với BBC News: “Nếu bạn nhặt lên 
	một cái chai có h́nh đầu lâu xương chéo, bạn sẽ biết ngay đó là chất độc, dù 
	không có bất cứ lời giải thích nào. Chúng ta dùng kư hiệu để chuyển tải 
	những khái niệm và tôi không ngạc nhiên về những ǵ chúng ta thấy nơi đây.”
 
 Tuy nhiên, giáo sư David Keightley của Đại học California, Berkeley Hoa kỳ 
	nhấn mạnh đến mối liên hệ của chúng với những nguyên bản đời Thương. Ông nói: 
	“Một khoảng cách 5000 năm mà giữa chúng vẫn có sự liên hệ, thật là điều đáng 
	ngạc nhiên.” “Tuy vậy mối liên hệ cần được chứng minh kỹ lưỡng hơn.”
 
 Nhưng Gs Harbottle nhấn mạnh đến sự liên tục của những kư hiệu xuất hiện tại 
	những vị trí khác nhau dọc theo sông Hoàng Hà suốt từ thời kỳ Đồ đá mới đến 
	đời Thương, khi một hệ thống chữ viết phức tạp được phát hiện. Ông không cho 
	là những kư hiệu thời Đá mới có cùng ư nghĩa với những kư hiệu giống với nó 
	ở đời Thương.
 
 G.s Keightley nói thêm: “Điều này thật khó hiểu và không b́nh thường; nó có 
	sớm đến mức kinh ngạc. Chúng ta không thể coi đó là chữ viết khi chưa có 
	bằng chứng thuyết phục hơn.”
 Ông nhấn mạnh, những chỉ dấu của văn hoá Đá mới Giả Hồ có thể không đủ phức 
	tạp để cần đến hệ thống chữ viết. Nhưng ông cho rằng những kư hiệu đó mang 
	tính biểu tượng hoặc được cách điệu hoá cao. Nó là một dạng đặc biệt của chữ 
	viết Trung Quốc. Chữ “mục” là mắt tương tự với những chữ khắc mới t́m thấy 
	gần đây.
 
 W. Boltz, giáo sư tiếng Hoa cổ Đại học Washington, Seattle: “Cách quăng hơn 
	5000 năm… Sao quá tŕnh phát triển chữ viết của Trung Quốc diễn ra lâu thế? 
	Suy diễn dựa trên tương quan h́nh thể đơn độc, dọc khoảng thời gian dài như 
	vậy, gần như vô nghĩa. Bằng cách nào người ta biết rằng h́nh nọ trong thực 
	tế là h́nh con mắt?” Theo ông, nó có thể giống ‘con mắt’ với ngưới này, mà 
	cũng có thể là cái khác với người kia. “Không có một văn cảnh, bao gồm cà sự 
	am hiểu về ngôn ngữ liên quan, không thể nói những dấu hiệu này là chữ viết.”
 
 2.b Ư kiến các học giả Trung Quốc
 
 Tác giả Trương Thái Du cho biết: “Khi tôi liên lạc trực tiếp với giáo sư 
	Trương Cư Trung - người đứng đầu nhóm nghiên cứu- để hỏi về sự chính xác của 
	thông tin mà tiến sĩ Jeff Schonberg đề cập trong một hội thảo tại Mỹ, ông 
	Trương khẳng định: cách nay 12000 năm Trung Quốc chưa thể có chữ viết. Chỉ 
	chắc chắn rằng chiếc b́nh trà nọ có niên đại từ 5000 năm trở lên.”(bđd)
 
 3/ Nhận định của chúng tôi
 
 3.a Về ư kiến các nhà khoa học Mỹ:
 
 Đối với sự thận trọng của các học giả Mỹ, tác giả Trương Thái Du đă trả lời 
	khá thoả đáng: “Một người Trung Hoa b́nh thường nhất cũng có thể giải thích 
	để Keightley hết ngạc nhiên: hơn 3000 năm từ Thương – Ân, tiếng Hoa hiện đại 
	vẫn c̣n rất nhiều từ không hề thay đổi, chữ “mộc” và chữ “khẩu” là thí dụ rơ 
	nhất. Trong ư nghĩa nào đó của sự tương đối, 5000 năm từ thời Đá mới đến đời 
	Thương chưa chắc đă dài bằng 3000 năm tiếp theo.” (bài đă dẫn)
 
 Nhưng sự thận trọng thái quá ở đây lại mang yếu tố mâu thuẫn và nguỵ biện.
 Nói rằng “những chỉ dấu của văn hoá Đá mới Giả Hồ có thể không đủ phức tạp 
	để cần đến hệ thống chữ viết.” là không có cơ sở. Một di chỉ lớn, có tới 300 
	ngôi mộ, tại đó phát hiện nhiều ống sáo bằng xương chim, có những vỏ rùa 
	khắc chữ. Vỏ rùa không chỉ khắc chữ mà c̣n là dụng cụ bói toán. Những ḥn 
	sỏi trong đó có khả năng là những vật dùng trong bói dịch… Chứng tỏ một xă 
	hội phát triển cao, chữ viết là nhu cầu tất yếu.
 
 Chúng tôi không hiểu v́ sao, khi phân tích những mai rùa Giả Hồ, nhóm nghiên 
	cứu không hề liên hệ tới văn bản trên b́nh Bán Pha 2. Văn bản Bán Pha 2 sẽ 
	soi sáng rất nhiều cho việc giải mă những kư hiệu trên mai rùa Giả Hồ. Không 
	những chỉ sớm hơn 3000 năm, văn bản Bán Pha 2 là tập hợp những kư tự được tổ 
	chức theo quy luật nhất định khiến người ta đọc được. So với văn bản Bán Pha
 
 2, những ǵ trên mai rùa Giả Hồ không c̣n ‘quá sớm’.
 
 Không hiểu v́ sao các tác giả không cho biết chủ nhân của những vỏ rùa hay 
	b́nh cổ? Khi xác dịnh họ là ai, th́ việc giải mă những đồ tuỳ táng sẽ có cơ 
	sở hơn. Chúng tôi nghi rằng đó là những người Indonesien, Melanesien từ Đông 
	Nam Á đi lên. Nếu đúng vậy th́ việc phát hiện ra ống sáo và chữ viết không 
	đáng ngạc nhiên.
 
 3.b Về phát biểu của giáo sư Trương Cư Trung.
 
 Chúng tôi nhận thấy câu trả lời của giáo sư Trương không thuyết phục. Một 
	b́nh gốm t́m thấy trong di chỉ 12.000 tuổi mà ông lại bảo là có niên đại “từ 
	5000 năm trở lên” th́ tính trung thực khoa học phải hiểu thế nào đây? Tuổi 
	của đồ gốm phụ thuộc tuổi di chỉ kháo cổ. Trong trường hợp b́nh gốm này, nếu 
	trung thực khoa học th́ phải nói: “có tuổi từ 12.000 năm trở lên.” Bởi lẽ ai 
	biết b́nh được làm từ bao giờ, nó theo con người bao lâu? Chỉ v́ được chôn 
	xuống cùng con người nên bị định theo tuổi con người ?
 
 Chúng tôi biết, việc hạ thấp tuổi b́nh Bán Pha 2 và phủ định chữ viết 12000 
	năm không đáng ngạc nhiên. Tại sao giáo sư Trương lại đưa ra con số 5000 năm 
	mà không phải con số khác? Phải chăng cần bỏ đi 7000 năm để cho chiếc b́nh 
	nằm trong phạm vi văn minh Trung Hoa? Phải chăng đó là tiếp nối truyền thống 
	của những Sanxingdui?(4)
 
 
	3.c T́m về sự thật lịch sử:     Giáo sư Trương nói: “cách 
    nay 12.000 năm Trung Quốc chưa thể có chữ viết.” Điều này hoàn toàn đúng bởi 
    lúc đó ngay cả Trung Quốc cũng chưa có! Nhưng ít nhất từ 30.000 năm trước 
    vùng này là giang sơn Bách Việt.     Tháng 9 năm 1998  B. Su, Y. 
    Chu, J. Ly những tác giả người Hoa của Dự án Đa dạng di truyền người Hán 
    (Chinese Human Genome Diversity Project) được thực hiện bằng tiền của Quỹ 
    phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc đă công bố tư liệu: 70.000 năm trước, 
    người hiện đại Homo Sapiens đă từ Trung Đông tới Việt Nam. Tại đây, hai đại 
    chủng Mongoloid và Austrloid hoà huyết và sinh sôi nhanh. Khoảng 40.000 năm 
    trước, người từ Đông Nam Á - mà sau này sách sử Trung Hoa gọi là Bách Việt - 
    đi lên mở mang miền đất ngày nay có tên là Trung Quốc(5). Trong khoảng 
    40.000 năm sinh sống từ sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử, người Bách Việt 
    trong đó tộc Lạc Việt là chủ thể đă triển khai Văn hoá Hoà B́nh, tạo dựng xă 
    hội nông nghiệp lúa nước phát triển nhất thế giới. Trong thời gian dằng dặc 
    ấy, người Bách Việt đă sáng tạo ŕu đá cũ, những công cụ đá cuội mài, ra 
    kinh Thi, kinh Dịch, đồ đồng… đă biết kết thừng, biết quan sát vết chân chim 
    làm ra chữ viết! V́ vậy từ lâu nhiều người dự đoán, việc t́m ra chữ viết 
    trên mai rùa hay đồ gốm là tất yếu. Việc phát hiện ra chữ trên mai rùa 9.000 
    năm ở Giả Hồ, bản văn trên b́nh gốm 12.000 năm ở Bán Pha là điều không thể 
    khác. Từ bản văn Bán Pha, ta có thể tin là chữ viết có từ trước nữa!    Lịch sử cứ trôi đi như thế 
    cho đến năm 2600 TCN, Hiên Viên Hoàng đế từ thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc 
    đưa quân tràn xuống chiếm đất của Viêm Việt (Bách Việt), mở ra cuộc hoà 
    huyết và hoà nhập văn hoá vĩ đại giữa chủng Mongoloid phương Bắc và Bách 
    Việt để tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam, tổ tiên trực tiếp của 
    người Hán và người Việt hôm nay.     Những chữ viết trên mai rùa, 
    trên b́nh gốm rơ ràng do người Bách Việt sáng tạo. Nhưng quyền kế thừa không 
    chỉ thuộc người Việt Nam mà cũng thuộc về người Trung Quốc và các dân tộc 
    Đông Á bởi chúng ta ngày nay, như trong cuốn sách cổ Trung Hoa nói rất đúng, 
    đều là Viêm Hoàng tử tôn. Do biến cải của lịch sử, người Trung Hoa sống trên 
    đất cũ nhưng những báu vật của tổ tiên Bách Việt xưa đều là tài sản là niềm 
    tự hào chung của các dân tộc Á Đông. Mọi sự kỳ thị vừa không phù hợp với 
    tinh thần khoa học vừa có tội với vong linh tiên tổ Viêm Hoàng.     Trở lại Truyện cổ Bán Pha :     Đây là thông điệp xưa nhất 
    mà tổ tiên gửi tới con cháu lời cảnh báo về mối hiểm nguy do thái độ kiêu 
    ngạo trong ứng xử với thiên nhiên. Bằng lương tri của ḿnh, chúng ta cần có 
    hành động cứu rỗi để hoá giải tai ương. Chắc chắn đấy là con đường trở về 
    với truyền thống nhân bản của người Việt.    Viết đến đây tôi nhớ tới 
    lời nhà văn Nga V. Rasputin: “Không làng quê, chúng ta sẽ mồ côi,” trong bài 
    báo cùng tên đăng trên báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam số ra ngày 
    1.7.2006.      Thiết nghĩ không phải ngẫu 
    nhiên mà vào năm tháng này chúng ta nhận được từ tổ tiên thông điệp giầu ư 
    nghĩa như vậy.    Sài G̣n 7.2006   Tài liệu tham khảo   1.’Earliest writing’found 
    in China. News.bbc.co.uk/1/hi/sci/tech/454594.stm 2.’The bone age flute’. 
    News.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/2956925.stm 3. Archaeology of Writing .www.geocities.com/cvas.geo/china.html 4.Năm 1986 người ta t́m 
    được ở Sanxingdui tỉnh Tứ Xuyên hơn 800 hiện vật trong đó có nhiều đầu người 
    và mặt nạ tuyệt xảo bằng đồng, nổi bật là bức tượng đồng to bằng người thật, 
    cao 1,72 m. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm, miệng thật rộng, 
    không thuộc chân dung điển h́nh của người Hán. Giới khảo cổ Trung Quốc gọi 
    là cổ vật thuộc nhóm dân Ba Thục và xếp chúng vào thời kỳ cuối đời Thương. 
    Tuy nhiên người ta biết rằng nước Thục có từ khoảng 4700 năm trước, sớm hơn 
    nhà Thương 1000 năm, chỉ bị nhà Tần diệt vào thế kỷ III TCN. Đấy chính là 
    sản phẩm của Bách Việt. 5. J.Y. Chu & đồng nghiệp: 
    Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 
    n. 95 tr. 11763-11768.     H.1 : Vỏ rùa tại Giả Hồ(BBC 
    News)First attempt at writing on a tortoise shell H.2 : Chữ “Mục” ?(BBC 
    News)      H.3 : Ống sáo xương chim 
    Giả Hồ(BBC News) 
     
               
    
    HÀ VăN THÙY     Bài đọc thêm:   
	
	
	NHỮNG CON CHỮ KHỞI THỦY  
	
	
	VÀ MỘT ÁNG VĂN RẤT SỚM CỦA LOÀI NGƯỜI 
	
	
	Trương Thái Du 
		
		Tại di chỉ thuộc về thời Đồ 
		đá ở Giả Hồ, nhiều nhà khoa học Trung Quốc thuộc các viện nghiên cứu và 
		trường đại học của Hà Nam, An Huy và Bắc Kinh, cùng tiến sĩ Garman 
		Harbottle (Pḥng thí nghiệm quốc gia Brookhaven, New York, Mỹ) đă liên 
		tiếp công bố những khám phá khảo cổ gây chấn động dư luận. 
		 
		1. Khám phá khảo cổ. 
		Giả Hồ nằm phía nam trung lưu 
		ḍng Hoàng Hà, giữa quốc gia Thương – Ân cổ đại. Thời Xuân Thu Giả Hồ 
		thuộc khu vực tiếp giáp bốn nước Tấn, Tề, Lỗ, Tống. Ngày nay Giả Hồ 
		thuộc tỉnh Hà Nam, chính tâm nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa (theo 
		đường chim bay, cách Bắc Kinh khoảng 400km về phía nam, cách Đông Hải 
		khoảng 300km).  
		Năm 1999 nhóm nghiên cứu nói 
		trên đă công bố ở tạp chí Nature việc t́m ra nhiều chiếc sáo làm bằng 
		xương ống chân hoặc xương cánh của loài sếu (hạc) đầu đỏ, khoét từ 5 đến 
		8 lỗ thoát hơi, cỡ 9.000 năm tuổi. Một chiếc sáo c̣n nguyên vẹn có 7 lỗ, 
		âm vực trải đủ một quăng tám Tây phương, vẫn thổi được, âm thanh của 
		chúng rất hay. Chúng là những nhạc cụ xưa nhất, kỳ diệu nhất mà con 
		người đă được biết và được nghe. 
		Tháng 3 năm 2003, tạp chí 
		Antiquity lại đăng tải một phát hiện quan trọng khác tại Giả Hồ: Những 
		nét khắc trên mai rùa có niên đại cỡ 8.200 đến 8.600 năm có thể là chữ 
		viết tượng h́nh sớm nhất của nhân loại. 
		Công cuộc khai quận khảo cổ 
		tại Trung Quốc liên tiếp đánh bại những kỷ lục cũ. Năm 1998 trong hầm mộ 
		vua Scorpion, phía nam Ai Cập, người ta thấy một phiến đất sét chứa 
		những chữ viết nguyên thủy khoảng năm 3.300 đến 3.200 TCN. Cùng thời 
		điểm ấy chữ viết sơ khai của người Sumerians thuộc nền văn minh 
		Mesopotamian cỡ năm 3.100 TCN cũng phát lộ, kư hiệu đó rất gần với hệ 
		thống chữ viết Indus. Năm 1999, đào bới khảo cổ ở Pakistan đă trưng ra 
		những chữ cổ xưa được khắc lên một mảnh lọ gốm trước và sau khi nung. 
		Loại chữ này có niên đại 3.500 TCN, thuộc nền văn minh Harappan hoặc 
		Indus, rực rỡ trong khoảng 2.500 TCN. Và cuối cùng là năm 2000, tại 
		Ashgabat, thủ đô Turkmenistan, người ta đào được một miếng đá dường như 
		đă được dùng làm triện đóng dấu, có khắc chữ. Miếng đá được định tuổi 
		khoảng năm 2.300 TCN, thuộc về một nền văn minh chưa được biết đến, nằm 
		giữa trục đường tơ lụa Á – Âu. 
		Như vậy các kư tự trên mai 
		rùa tại Giả Hồ thuộc về thời Đồ đá hoặc Đồ đá mới, ít nhất sớm hơn chữ 
		Ai Cập 2.900 năm và sớm hơn chữ tiền Lưỡng Hà - Ấn Độ 2.700 năm. 
		 
		Các nhà khảo cổ học đă nhận 
		dạng 11 kư hiệu đơn lẻ khắc trên mai rùa. Những chiếc mai được táng cùng 
		thi thể người trong 24 mộ phần, định tuổi bằng đồng vị carbon là từ năm 
		6.600 đến 6.200 TCN. Nghiên cứu cho thấy kư hiệu này mang những nét 
		tương đồng với chữ viết được dùng hàng ngàn năm sau trong thời nhà 
		Thương (1700 – 1100 TCN), bao gồm: chữ “mục” (mắt), “hộ” (cửa nhỏ, 1 
		cánh), và các số 1, 2, 8, 10, 20. 
		2. Ư kiến của các nhà nghiên 
		cứu phương Tây. 
		“Những ǵ lộ ra là các ước 
		hiệu mang đầy đủ ư nghĩa, có sự tương thiết với chữ viết cổ Trung Hoa” – 
		Tiến sĩ Harbottle nói. Tuy nhiên ông ta lại trả lời BBC News Online: 
		“Nếu bạn nhặt lên cái chai có đầu lâu xương chéo, ngay lập tức bạn biết 
		đó là thuốc độc, không cần ngôn ngữ thuyết minh. Chúng ta thường ra hiệu 
		để truyền đạt ư niệm và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đó là những ǵ chúng 
		ta thấy ở đây”. Cũng Harbottle, với Discovery News: “Thật không may 
		chúng ta không thể đoán ở thời điểm này, những ước hiệu nọ biểu thị điều 
		ǵ. Có thể chúng là chữ viết, có thể chúng là tên gọi các vị thần linh, 
		hoặc không phải. Măi sau này ở Trung Hoa, các con chữ mới được viết 
		thành câu hỏi gửi đến tiên tổ trên trời, bởi con người, bởi vua chúa 
		.v.v.., để t́m kiếm sự d́u dắt và đoán biết tương lai. Hiển nhiên c̣n 
		rất nhiều việc phải làm”. 
		Giáo sư David Keightley (Đại 
		học California, Berkeley, Mỹ) lưu ư về việc liên hệ với chữ viết đời 
		Thương: “Ngắt quăng là 5.000 năm. Thật ngạc nhiên nếu chúng có dây mơ rễ 
		má với nhau.” Ông c̣n bảo nên chứng minh thấu đáo hơn và “Đây là vấn đề 
		nan giải và là thứ không b́nh thường. Kư hiệu kia đặc biệt sớm. Chúng ta 
		không thể gọi chúng là chữ viết cho đến khi có nhiều bằng chứng nữa”. 
		William Boltz, giáo sư tiếng 
		Hoa cổ (Đại học Washington, Seattle, Mỹ) nói qua Discovery News: “Có sự 
		gián cách hơn 5.000 năm… Sao quá tŕnh phát triển chữ viết Trung Hoa 
		diễn ra lâu thế?. Suy diễn dựa trên tương quan h́nh thể đơn độc, dọc 
		khoảng thời gian dài như vậy, gần như vô nghĩa. Bằng cách nào người ta 
		biết rằng h́nh nọ trong thực tế là h́nh con mắt?”. Theo ông nó có thể 
		giống con mắt với người này, nhưng cũng có thể là cái khác với người kia. 
		“Không có một văn cảnh, bao gồm cả sự am hiểu về ngôn ngữ liên quan, 
		không thể nói những dấu hiệu này là chữ viết” – Boltz kết luận. 
		Bản tin BBC ngày 15.5.2001 
		nói về việc phát hiện chữ cổ tại Turkmenistan: “Những kư hiệu trên cái 
		triện dấu bằng đá có thể có quan hệ với Trung Hoa xa xưa, nhưng Trung 
		Hoa không được tin là đă phát triển được chữ viết ở thời điểm vật dụng 
		kia ra đời”. Kết luận rất chủ quan của BBC, rất lạ, h́nh như quán xuyến 
		một định kiến cứng nhắc xuyên suốt trong quan niệm của nhiều chuyên gia 
		khảo cổ và ngôn ngữ hàng đầu trời Tây. Điều này được chứng minh bằng sự 
		dè dặt và hồ nghi của những người được hỏi ư kiến, hai năm sau đó, khi 
		di vật tại Giả Hồ xuất lộ. Hơn thế nữa, sự dè dặt của họ chứa đựng những 
		mâu thuẫn và sơ hở đáng ngờ.  
		Harbottle, người cộng tác với 
		nhóm chuyên gia Trung Quốc nói ngược nói xuôi đều… xuôi. Một người Trung 
		Hoa b́nh thường nhất cũng có thể giải thích để Keightley hết ngạc nhiên: 
		hơn 3.000 năm từ thời Thương – Ân, tiếng Hoa hiện đại vẫn c̣n rất nhiều 
		từ không thay đổi chút nào, chữ “mộc” và chữ “khẩu” là ví dụ rơ nhất. 
		Trong ư nghĩa nào đó của sự tương đối, 5.000 năm từ thời Đồ đá mới đến 
		Thương – Ân chưa chắc đă dài bằng 3.000 năm tiếp liền sau. Câu hỏi của 
		Boltz th́ Voltaire đă trả lời từ thế kỷ thứ 18: “Chúng ta nhận thấy rằng 
		quốc gia ấy tồn tại một cách rực rỡ từ trên 4.000 năm rồi mà luật pháp, 
		phong tục, ngôn ngữ, cách ăn mặc vẫn không thay đổi bao nhiêu” [2]. 
		Những đ̣i hỏi có phần quá khắt khe, nhằm đưa đến kết luận rơ ràng rằng 
		các kư hiệu kia là chữ viết, vô h́nh chung phủ nhận tất cả khám phá khảo 
		cổ có liên quan đến chữ viết trước đó, không riêng ǵ ở Trung Quốc. 
		3. Áng văn bất hủ. 
		Thái độ b́nh tĩnh và nhún 
		nhường của người Trung Quốc trong trường hợp này rất đáng nể. Đứng đầu 
		đoàn chuyên gia Tây – Tàu, giáo sư Trương Cư Trung đă công bố thành quả 
		lao động của họ trên tạp chí Antiquity, với một câu hỏi làm tựa đề: “Chữ 
		viết sớm nhất chăng? Kư hiệu sử dụng ở thiên niên kỷ thứ 7 trước công 
		nguyên tại Giả Hồ, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc”. 
		Nhóm nghiên cứu của giáo sư 
		Trương tại Hà Nam không phải nhóm duy nhất đang khai mở lịch sử chữ viết 
		Trung Hoa. Tại Tây An, nằm sâu 3,5m dưới di chỉ đồ đá mới Bán Pha (niên 
		đại 6.000 đến 7.000 năm), là làng Bán Pha 2 ít người biết, cổ kính hơn 
		nhiều (12.000 năm). Các vật tạo tác t́m được tại đó, đă mơ hồ cho thấy 
		h́nh như xă hội của cả hai làng Bán Pha ít nhiều mang dấu tích mẫu hệ 
		trong tổ chức xă hội. Không xa Bán Pha, ở làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn 
		Tây, một bức tường thành dài khoảng 130 mét, nằm theo hướng Đông – Tây 
		cũng vừa lộ diện. Nhiều chuyên gia dự đoán nó thuộc về thời đại Nghiêu – 
		Thuấn – Vũ trong huyền thoại. 
		Một chiếc b́nh thuộc Bán Pha 
		2, dính một ít cặn giống như cặn trà đă được đào lên. Mặt ngoài chiếc 
		b́nh có khắc một câu chuyện bằng chữ tượng h́nh cổ đại Trung Hoa. Loại 
		chữ này mang tính ẩn dụ cao, có nhiều dị biệt so với kiểu chạm khắc làm 
		nên nền tảng ngôn ngữ Trung Hoa hiện đại. Tiến sĩ Jeff Schonberg (Đại 
		học
		
		Angelo State 
		University, San Angelo, Texas, Mỹ), cố vấn tại công trường 
		khai quật Bán Pha 2 gọi kiểu truyện này là “văn hóa phổ quát”. Ông nghĩ 
		nó giống như truyện Adam, Noah, Abraham và Frankenstein của các nền văn 
		minh khác.  
		Câu chuyện trên chiếc b́nh 
		được tạm giải mă như một bài học đạo đức, nói về sự cư xử không phải 
		phép, theo ngôn ngữ hôm nay là kiêu ngạo: “Thuở ấy thế giới đảo lộn ch́m 
		đắm trong kỷ nguyên bóng tối bởi con người cư xử tồi tệ và xúc phạm thần 
		nước. Hậu quả là xă hội hỗn loạn và nhiều người bị bệnh. Họ t́m đến thần 
		núi, ông này hiểu rơ sự sai lầm và nổi giận. Con người bắt buộc phải 
		bước vào hành tŕnh t́m thuốc chữa bệnh. Trên mỏm núi rất xa nọ, họ sẽ 
		thấy một loài cây. Họ phải đem về và chế biến thành trà để uống. Sự tha 
		thứ và hàn gắn sẽ diễn ra, bóng tối sẽ bị xua đi”. 
		Thật lạ lùng là cốt truyện 
		này vẫn được lưu giữ giữa lời truyền khẩu dân gian và kư ức của con 
		người Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc hôm nay. Phải chăng nền giáo 
		dục tân kỳ, văn minh khoa học và kỹ thuật số của thế giới hiện đại đang 
		nằm trên con đường tiệm cận hành vi “kiêu ngạo”. Bài học tinh thần cổ 
		điển dường như c̣n rất mới. Dọc dài thời gian và sự phát triển của nhân 
		loại từ quá khứ đến tương lai, áng văn xa xưa ấy măi măi hàm mang giá 
		trị nhân văn bất khả diệt và cần được suy tư nâng niu. Trước ngưỡng cảnh 
		môi trường trái đất đang bị tàn phá nặng nề, xă hội loài người xáo trộn 
		bởi những căn bệnh vô tiền khoáng hậu như ung thư, aids, chia rẽ, kỳ thị, 
		khủng bố, giết người hàng loạt… câu chuyện kia phải được xem như lời 
		cảnh tỉnh chân thành. Kỳ vọng lắm cho tất cả chúng ta, mỗi khi nâng chén 
		trà lên môi thưởng thức, sẽ thấy áng văn bất hủ nọ sóng sánh giữa tâm 
		hồn, sẽ h́nh dung ra một con thuyền nan tṛng trành dưới đáy cốc đang 
		chở Trương Chi và giọng hát ngọt ngào của chàng đến bến bờ chân thiện. 
		Khi tôi liên lạc trực tiếp 
		với giáo sư Trương Cư Trung, để hỏi về sự chính xác của thông tin mà 
		tiến sĩ Jeff Schonberg đề cặp trong một hội thảo tại Mỹ, ông Trương 
		khẳng định: cách nay 12 ngàn năm Trung Quốc chưa thể có chữ viết. Chỉ 
		chắc chắn rằng chiếc b́nh trà nọ có niên đại từ 5.000 năm trở lên, tất 
		cả dữ kiện khảo cổ về chữ viết khắp nơi tại Trung Quốc đang được đối 
		chiếu, liên hệ, phân tích và sẽ sớm công bố ở tương lai gần. 
		4. Kết luận.
		 
		Không nghi ngờ ǵ nữa, những 
		đường nét rất gần với kư tự tại Giả Hồ có nền tảng vững vàng nhất, so 
		với các chữ sơ khai khác ở Ai Cập, Lưỡng Hà, Pakistan và Turkmenistan. 
		Nền tảng ấy chính là văn minh Trung Hoa chưa một ngày đứt găy, từ thuở 
		các di vật kia được chế tác đến nay. Địa điểm Giả Hồ bao gồm rất nhiều 
		ngôi mộ cổ, nhiều dấu tích cư dân rất xưa và di chỉ khảo cứu, chắc chắn 
		c̣n để dành sự bất ngờ rất lớn cho mai sau. Việc đào bới chỉ mới tiến 
		hành trên một diện tích khá bé mà đă thấy 45 nền nhà, 370 kho hầm, 349 
		mộ phần, 9 ḷ nung gốm, cùng hàng ngàn vật dụng (từng được sử dụng cho 
		nghi thức cúng tế, sinh hoạt và làm đồ trang sức) bằng xương cầm thú, 
		gốm, đá và các chất liệu khác. Có thể nói, toàn bộ mảnh đất Trung Hoa 
		hiện đại đang là một công trường khảo cổ vĩ đại. Tin tức báo chí mấy năm 
		gần đây dồn dập chỉ ra bao nhiêu dấu vết con chữ sơ khai ở Sơn Đông, An 
		Dương (cũng thuộc Hà Nam), An Huy, Triết Giang. 
		Thật ra sự “dè dặt và hồ nghi” 
		mang nhăn hiệu Âu – Mỹ đă nêu rất dễ hiểu. Bao trùm lên những tranh luận 
		“đây có phải chữ viết hay không”, là cả một vấn đề ở tầm vĩ mô mang tên 
		“văn hóa” và “văn minh”. Nếu người Trung Quốc chứng thực được họ có nền 
		văn minh sớm nhất nhân loại, có nền văn hóa duy nhất của hành tinh phát 
		triển liên tục hàng chục ngàn năm nay, th́ tri thức về ngày hôm qua của 
		loài người ở thế kỷ 21 phải được tái thẩm định và sắp đặt lại. Hệ quả là 
		thật khó phủ nhận những giá trị khu biệt và tiên phong của Á Đông. Giá 
		trị ấy đă chiến thắng khoảng thời gian khắc nghiệt dằng dặc, sẽ đem đến 
		cho người Á Đông niềm tin vô bờ bến để soi rọi, khẳng định ḿnh trước 
		tương lai     |