Trích từ: tvvn.org Truyền thuyết Âu Cơ (18) của ngài Mường, tương đương với
truyền thuyết Hồng Bàng của người Việt. Ngài (người) Mường -
hậu duệ cuả tiên nữ nai-đốm-sao Âu Cơ, mẹ của vua Hùng Vương,
phân nửa ki
Vụ Án Lịch Sử
Việt Nam-Yiệc
Nam-Byiệt Nam
Trần Thị Vĩnh Tường
Bài viết này đựoc gợi ư từ khoảng 3 năm trước, khi nghe thắc
mắc của một nam thính giả người Nam gửi đài phát thanh địa
phương "Tại sao các xướng ngôn viên phát âm giọng Nam chữ Việt
Nam thành Yiệt Nam, giống như Việt Nam bị tiêu diệt, nghe hổng
khá".
"Khôn Ngăn Châu Lụy Sụt Sùi"
Thầy cô giáo t́nh nguyện dậy tiếng Việt khi học tṛ hỏi cũng
bí lù chuyện đúng/sai đến nỗi sém có đề nghị bỏ môn… chánh tả.
Có lẽ rất ít cộng đồng nào giới có học vẫn "viết sai" chính tả
như người miền Nam. Thật ra giọng Hà Nội ở giới có học hay b́nh
dân cũng "nói sai" linh đ́nh một số âm đầu như s/x, ch/tr, n/l,
r/d/gi… dù giọng Hà Nội được vài học giả mặc nhiên cho là giọng
tiêu chuẩn đến nỗi không đính kèm chứng minh.
Điều ngộ nghĩnh, tất cả những điều sai trên chiếm đa số tuyệt
tuyệt đối, vậy mà vẫn chịu tiếng "sai". Điểm lạ nhất là hết học
giả này đến hội nghị kia - ở vùng tôi - tranh căi "khôn ngăn
châu lụy sụt sùi" (1) như ông Phan Khôi v́ nỗi "tôi đúng/anh
sai" nhưng vẫn… e lệ nép vào dưới hoa không hề cho biết nguyên
nhân cũng như cách sửa sao cho đúng.
Âm [v] truớc thời quốc ngữ abc
Không biết nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người Hưng Yên, Đàng Ngoài,
thỏ thẻ gửi đến chinh phu những chữ "vàn, vui, vốn" thế nào
trong bốn câu trong Chinh Phụ Ngâm sau (2):
Câu 267 Khi mơ, những tiếc khi tàn,
T́nh trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm ḷng chẳng dứt.
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi!
Một tài liệu vô danh viết tay năm 1648 có câu "Nhơn danh cha,
ùa con, ùa Spirito Santo" ,"và = ùa", Spirito Santo chưa được
viết là "Thánh Thần" (5). Linh mục Ư Christofori B. Bori, trong
một bức thư viết tay năm 1631, viết "Con gnoo muon bau tloam
laom Hoa laom chiam" (con nhỏ muốn vào trong ḷng Hoa Lang chăng),
có nghĩa: cô/em có muốn theo đạo của người Hoa Lan không (3).
Chỉ trong câu ngắn này, có vài điều hết sức lưu ư:
bau = vào,
tloam = trong,
chữ Việt không dấu.
Ông Phan Khôi viết "Theo lời truyền thuở nay th́ chữ quốc
ngữ do một ông cố đạo đặt ra". Thiệt ra không chỉ "một
ông cố đạo ", mà các cuốn từ điển quốc ngữ đầu tiên do nhiều
bậc thầy hợp soạn, gồm các thầy giảng đạo và các cộng sự người
Việt cả về phần phương pháp và tài liệu.
Hăy xem thử vần V trong hai cuốn từ điển Alexandre de Rhodes
và từ điển Taberd (4). Hai cuốn này, do hai nhóm soạn giả khác
hẳn nhau. Thời điểm, không gian cũng khác nhau xa lắc.
Âm [v] trong từ điển Alexandre de Rhodes 1651
Vần V từ điển A. D. Rhodes có khoảng 150 chữ. Tuy vậy chỉ có
25 chữ được viết bằng V và đọc với âm [v]. Ví dụ:
vắng, vắng vẻ
váng dện, mạng dện
vàng, chim vàng anh
125 chữ khác tuy xếp vào vần V, nhưng đựơc viết là "ua, ue,
ui, ou…" đọc như [w] hay [b-ỳ ơ]
ụi uoi = bỵi byoi
con uịt = con yịt
oũ bà oũ uăi = ông bà ông byải
úen áo = byén áo
Lật qua vần B, có khoảng 550 chữ, trong đó có 350 chữ viết
với B, đọc như [b] : bạn bè, bàn thờ, bền bỉ. Có khoảng
100 chữ viết với B, nhưng được kư âm bằng kư hiệu beta [ b]
của Hy-Lạp đọc như "beào" (5) hay b-ỳơ
trong giọng Nam bộ, ví dụ:
b ua = byua
b ú bơ = byú bơ
b ui bẻ = byui byẻ
Âm [v] trong từ điển Taberd 1838
Có 238 chữ vần V. Các soạn giả… thoải mái quất chữ V hết ráo,
như âm [v] trong giọng Bắc hiện nay. Vần B chỉ c̣n lại một chữ "bua=
vua". Vài ví dụ chứng tỏ sự khác nhau giữa hai nhóm soạn giả:
Chữ thường: tđ A.D. Rhodes, chữ lớn: tđ Taberd:
blọn uẹn - TRỌN VẸN
muôn uật - MUÔN VẬT
uiệc Chúa blời - VIỆC CHÚA TRỜI
Điều này chứng tỏ trong ṿng 187 năm, một là các thầy và cộng
sự đă đơn giản bằng cách loại bỏ những âm [w, b, b-ỳ ơ],
và khóac cho âm [v] giống tiếng La tinh, hai là dân Việt đă thay
đổi giọng nói theo sự hướng dẫn của quư thầy. Hoặc điều này là
kết quả của điều kia.
Thành công của abc
Các thầy kư âm abc cho tiếng Byiệt là các thầy giảng đạo
ngoại quốc. Đàng Ngoài/Đàng Trong (Đàng Ngoày/Đàng Tlăo = kư âm
của Gaspar De Amaral năm 1632) không có email/phone/fax/máy ghi
âm… như bây giờ. Hai Đàng lúc nào cũng chuẩn bị choảng nhau. Các
thầy ở Đàng nào ở yên Đàng đó, vừa học tiếng Việt, vừa giảng đaọ,
vừa trốn tránh. Thư từ qua lại rất bí mật và tốn kém, v́ rất dễ
bị cả chúa Nguyễn/chúa Trịnh nghi ngờ làm gián điệp cho phe bên
kia, hậu quả có thể bị trục xuất. Riêng Alexandre de Rhodes bị
trục xuất cả thảy sáu lần.
Trong hoàn cảnh đó làm ǵ có th́ giờ thẩm âm/nghiên cứu/giải
quyết từng chữ. Dẫu sao, các thầy c̣n dè dặt không dám ban chữ V
từ tiếng La Tinh cho tất cả âm w, b-ỳ ơ,
b.
Trong phần mở đầu từ điển, Linh Mục A. D. Rhodes
* cho biết âm vị áp dụng là của Bồ-Đào-Nha/La-Tinh,
* giải thích rơ ràng về phụ âm, nguyên âm,
* lại ghi cả cách phát âm sai biệt ở các địa phương, cho thấy
các soạn giả rất khách quan và khoa học, không xác nhận phát âm
nào nguyên thuỷ hay chính thức hơn âm kia. Ví dụ: buông =
vide (xem) buâng
cuội = vide quội.
Tuy vậy, tác giả Hoàng Xuân Việt cũng cho là một sự ngạc
nhiên v́ A. D. Rhodes lại không nói năng ǵ về chữ V. Tác giả
HXViệt cũng đặt câu hỏi phải chăng âm V là âm Tây phương, không
phải âm Việt cổ.
Cho đến từ điển Taberd, chế độ thuộc địa Pháp đă vững vàng.
Các thầy không c̣n phải trốn lánh, nên thoải mái "ép" tiếng Việt
cho giống với âm La Tinh. Không rơ tại quư thầy chỉ thích âm [v]
hay tại tiếng Việt có nhiều cách phát âm cho cùng MỘT chữ làm
quư thầy bối rối.
Trên hết mọi sự, quốc ngữ abc tiếng Việt là một thành công
bất ngờ. Chỉ với 24 chữ cái, tiếng Việt được a-b-c hoá. Từ đó,
muôn vàn trang giấy mô tả được hết thảy: lịch sử, cuộc sống dân
gian và bản tính của tâm hồn Việt. Điều này đă ra ngoài cả sự
tiên liệu của chính quyền Pháp mà mục đích ban đầu của truyền bá
quốc ngữ abc là chỉ muốn loại trừ chữ Nho, chữ Nôm và ảnh hưởng
của Nho sĩ. Độc giả có thể t́m mua từ điển này, tuy hơi hiếm,
nơi chữ nghĩa/ư nghĩa có thể dựng nên được cả một bức tranh ngôn
ngữ/phong tục/lối sống/cách suy nghĩ của dân Việt thế kỷ 17 và
cả trước đó.
Thành công nhất của việc quốc ngữ hóa abc, là tạo được
tính thống nhất trong đánh vần, mà vẫn giữ đuợc cách đọc, giọng
nói của mỗi vùng mỗi miền, nhờ hai ông Trương Vĩnh Kư và ông
Húnh Tịnh Của (18), như ông Phan Khôi viết (1) "Hồi
đó có hai ông đại sư về quốc ngữ, là ông Trương Vĩnh Kư và ông
Paulus Của, tức là Huỳnh Tịnh Trai. V́ mỗi ông có làm ra một bộ
tự vị tiếng An Nam.
Các ổng cũng là học trường bên Đạo mà ra, cho nên các ổng viết
chữ quốc ngữ y như người bên Đạo, nghĩa là viết đúng. Hồi bấy
giờ chắc người Nam kỳ phát âm cũng vẫn là không đủ, cũng vẫn là
lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngă với dấu hỏi, song
le các ổng viết ra th́ phân biệt đâu ra đó, v́ vậy các ổng mới
dám làm tự điển. Mà tự điển của các ổng sau rồi trở nên mẫu mực
cho người An Nam, ai cũng phải dùng, dùng đến cả phía bắc Trung
kỳ và Bắc kỳ là miền chữ quốc ngữ đă do đó sanh ra."
Âm [v] trong từ điển Mường-Việt 2002 (6)
Hỏi quư thầy xong, cũng phải chạy về hỏi ngài Muờng, vừa là
chị em ruột thịt trong nhà; vừa là nhân chứng khách quan ở chỗ
không học sử Tàu sử Việt nên không cần tránh né hay ve vuốt ai
ráo trọi.
Truyền thuyết Âu Cơ (18) của ngài Mường, tương đương với
truyền thuyết Hồng Bàng của người Việt. Ngài (người) Mường - hậu
duệ cuả tiên nữ nai-đốm-sao Âu Cơ, mẹ của vua Hùng Vương, phân
nửa kia của tộc Việt. Âu Cơ mặc áo đen, kết duyên vớí Long Wang
mặc áo vàng, con vua Yịt Yàng (Việt Vàng). Một hôm Long Wang
quyết định chia tay "ta với nàng khác giống". Âu Cơ dẫn 50 con
đi về miền núi; Long Wang dẫn 50 con đi về miền sông nước. Không
thấy cả hai truyền thuyết nhắc đến nhau sau ngày chia tay ấy.
Hậu duệ của nàng Âu Cơ cả hàng ngàn năm không sống gần ngựi
Việt đồng bằng, nên tiếng nói cuả ngài Mường không bị Hán hoá và
abc hoá. Jeanne Cuisinier (7) ở vùng Mường suốt 15 năm cũng công
nhận Mường không có âm [v].
Xem thử nhóm vần V, khoảng 68 chữ
- Cảo ń phái vo xát kỹ khỏi hôi = gạo này phải vo xát
kỹ khỏi hôi.
- Cải à, là hết wiêc văt chũa? = Con à, làm hết việc vặt
chưa?
- Ông Bi ưa vỡ mơn hơn vỡ cá = Ông Bi ưa vợ mọn hơn vợ cả
- Hơ nhà tôi chăng cỏ ay là vua quan chi = Họ nhà tôi
chẳng có ai là vua quan chi.
Chỉ quí soạn giả mới biết những chữ đuợc viết với V thế này
có phải do kề cận với người Byiệt đồng bằng không và kể từ bao
giờ. Tuy vậy những chữ này cũng được viết với cả V lẫn B, ví dụ:
vua-bua, vai-bai, ṿi-ḅi, vỡ-bỡ (vợ), vậy-bẫy, vây-bây, vóc-bóc,
vô-bô, vú-bú, vừa-bừa…
Mở qua vần W, có một số chữ giọng Bắc (và một số) giọng Trung
sẽ đọc là V, giọng Nam đọc là [w] hoặc [b-yờ]
- Con wac mà ti ăn têm = Con vạc mà đi ăn đêm
- Da wái chiềng thờ cho ho pỡi = Anh vái bàn thờ cho
tôi với
- Cầm mẩy cải wán ń wềl cho ủn = Cầm mấy cái oản này
về cho em.
- Da chở cỏ wẽ chiễn tha nưa = Mày đừng có vẽ chuyện ra
nữa (Chợt để ư: chiễn = rất giống với giọng Nam = mày đừng nhiều
chiệng).
- Cải wày way ń nẵng khoáng môch tă = Cái ṿi voi này
nặng khoảng một tạ.
Rất ngộ nghĩnh, từ cái ṿi của chú voi, tiếng Mường/Tày/Nùng
cũng có "tà p̣i". P̣i = cái ṿi của bé trai, chính là thứ
mà pà mụ chỉ nặn riêng cho bé trai. Bé gái có khi cằn nhằn phân
b́ sao con không có. P̣i = ḅi đều là âm tương đương nơi các thị
tộc cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hoàn toàn không phải âm này
biến qua âm kia. "Tà", mạo từ như cái/con ở tiếng Munda,
Mon-Khmer, Hmong, Mường.
Mở qua vần B cũng thấy nhiều chữ người Mường đọc là [b],
giọng Bắc (và một số) giọng Trung đọc là V, giọng Nam đọc là
[b-yờ]
bỉm thay = ví tay
bải chào = vái chào
bài tồng tiền = vài đồng tiền
chở cải bô lỉ = chớ căi vô lí
ti no mà bỗi mà bàng = đi đâu mà vội mà vàng
mộch bỡ pà, pa bỡ thiêp = một vợ cả, ba vợ thiếp (vợ lẽ)
Tác giả Nguyễn Cúc cho mượn một em lục bát Mường-Việt thật
đẹp, cả ư nghĩa lẫn thanh âm: (8)
Mường: Mơ chi enh piếng thùng wàng
Thung tôi nén pạc cho nàng cầm thay
Việt: Mơ chi anh biến thành vàng
Thành đôi nén bạc cho nàng cầm tay
Chữ Việt theo B́nh Nguyên Lộc 1971 (10)
Ông B́nh Nguyên Lộc luôn luôn đ̣i "làm cho ra lẽ" các vụ án
lịch sử chữ nghĩa. Điều ra lẽ ngoạn mục nhất cuả BNLộc, là truy
lùng chữ Việt từ hồi ban sơ và từ đó theo dấu được những tộc
người đă cấu thành dân tộc Việt Nam ở mảnh đất h́nh chữ S. Điều
này cho thấy ông đi trước giới khoa học Âu/Mỹ vài chục năm.
Ngoạn mục ở điểm ông là người đầu tiên soi sáng cổ sử Việt bằng
ngọn đèn "ngôn ngữ tỷ hiệu" mà ông phong cho là anh hùng hạng
ba, sau hai môn chủng tộc học và khảo tiền sử.
Theo BNLộc, có cả thảy bốn chữ Yit, là tên tự xưng của
người Yit. Khi có chữ, người Tàu Hoa Hạ ghi lại theo kiểu
tượng h́nh:
- Chữ Yit đầu tiên xuất hiện từ thời nhà Thương, khoảng từ
1000 đến 2000 năm TTL, chỉ cái ŕu có tay cầm - dụng cụ của
chủng Yit - khi người Hoa Hạ lần đầu tiếp xúc với chủng Yit ở
Hoa Bắc, mạn bắc Hoàng Hà.
- Chữ Yit thứ hai đuợc viết thêm hạt thóc trên cái ŕu, ư nói
giống dân có cái ŕu và biết trồng lúa nước. Chữ này có từ đời
Xuân Thu (722- 481 TTL). Ngày nay chữ Yit này vẫn chỉ tỉnh Quảng
Đông (cũng là Việt, chi Thái-cổ tức Âu).
- Chữ Yit thứ ba: Tẩu + Tuất:
, mang nghĩa
'Vượt'. Dùng để chỉ chủng Yit thuộc đám Bách Bộc, Lạc bộ Trăi,
phía Bắc Hoàng Hà, đă vượt sông Hoàng Hà chay xuống nhập với đám
Việt đă ở sẵn tại nước Sở và xung quanh nước Sở, lúc đó là khu
Động Đ́nh Hồ.
- Chữ Yit thứ tư: Tẩu + Qua (dáo mác):
V,
cũng vẫn mang nghĩa Vượt, để chỉ đám U Việt, Lạc bộ Trăi ở miệt
Sơn Đông, phía Nam Hoàng Hà.
Chữ V theo Nguyên Nguyên 2007
Theo tác giả Nguyên Nguyên, khoảng 5000 năm trước chủng
Yịt ở rải rác từ phía bắc sông Hoàng Hà đến cực nam sông Dương
Tử - lúc đó chưa có nước Trung Hoa (11a) - Những biến động
lịch sử dẫn đến chiến tranh suốt hàng trăm năm không dứt khiến
họ hết thời điểm này đến thời điểm khác có mặt tại cổ Yiệt, tức
đồng bằng sông Hồng. Bản đồ dưới đây cho thấy địa bàn liên tục
của hai chi Âu và Lạc cũng như lộ tŕnh di tản xuống cổ Việt,
lúc đó chưa gọi là Việt Nam:
Trong bài viết gần đây nhất góp tiếng với Trần Hữu Thuần (12)
Nguyên Nguyên (11b) có vẻ cho biết tiếng Việt là một hỗn hợp
lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau, với
hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (tức Âu, thành
phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất
và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát
từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt)
trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận
Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và
Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu,
thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh
Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau:
Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao Miao-Yao hay Hmong-Mien).
Hai chữ "Việt Nam", tiếng Mường xưa đọc Yịt Nam
Nam Bộ xưa đọc Byiệc Nam, nay đọc Yiệc Nam
Quảng Đông đọc Yueh Lam, hoặc Yueh Nam
Thuợng Hải: Yue Ne
Quan Thoại: Yue Nan,
Hẹ (Hakka): Yue Nam
Sơn Đông: Yue Nam
Nhật Bản: Beto-nam
Những tiếng này đều là âm tương đương v́ cùng gốc tổ vào
thời xa xưa, ḥan toàn không phải âm này biến qua âm kia.
Giống như tiếng nói của hai hoặc nhiều dân tộc láng giềng,
theo sắp xếp địa lư, có một số từ vựng và cấu trúc giống nhau,
và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể không có vấn
đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng góp
khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc đóng góp, tại mỗi quốc gia
láng giềng với nhau. Mô h́nh này được gọi mô h́nh theo kiểu
‘Cây-và-Đất’, để phân biệt với thứ mô-h́nh tạm gọi ‘Cây-và-Cành’
thường xuyên được xử dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên
cứu ngữ học. (11b)
Khi hay ḿnh có gốc gác khác nhau, người Việt cảm thấy ǵ? Có
thể sẽ thấy… giống nhau và gần nhau hơn là khi không biết là có
khác nhau? Nhưng dù khác nhau thế nào vào buổi ban đầu, tất cả
bây giờ vẫn là Người Việt, dân của quốc gia duy nhất giữ được
"Việt" trong quốc hiệu.
(Người Miêu-Dao ở Bắc Việt Nam, Vân Nam. Sơn nữ nào cũng đẹp,
em bên phải chất phát, em ở giữa đa t́nh, em bên trái đoan
trang. Sống áo và nữ trang của người Miêu-Yao điệu đà nhất trong
đám cư dân Đông Nam Á)
Hành tŕnh ngàn năm của chữ Yit-Yue- z-Việt:
Yit, chữ Trung Hoa viết
z.
Nếu giả thiết của hai tác giả B́nh Nguyên Lộc và
Nguyên Nguyên đúng, th́ hành tŕnh của chữ Yit-Yue-z-Việt
dài khoảng 5000 cây số theo đường thẳng, từ Sơn Đông đến mũi Cà
Mau, trong gần 5000 năm (13).
z được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
trong sách sử của người Trung Hoa, cho thấy họ biết rất rơ Yue
là một ư niệm bền bỉ nơi những nuớc hay dân tộc thuộc chủng Yue.
- Yit trong Âu Việt
Mz,tức
Tây Âu
- Yit trong Việt Vương Câu Tiễn
z、
có nàng Tây Thi, thời Chiến Quốc, 496-465 TTL
- Yit trong Nam Việt
z
của Triệu Đà, năm 257 TTL
- Yit trong Mân Việt
閩z
- Yit trong U Việt
z,
- Yit trong Dương Việt
gz
- Yit trong Đông Việt
z
- Yit trong Sơn Việt
Rz
- Yit trong Lạc Việt
雒z
- Quốc hiệu Đại Cồ Việt
z
của Việt Nam thời nhà Đinh năm 968
- Quốc hiệu Đại Việt
z
của Việt Nam thời nhà Lư năm 1054,
- Quốc hiệu Việt Nam
z
thời nhà Nguyễn Gia Long năm 1802.
- Tiếng Quảng Đông vẫn được gọi là Việt ngữ
Z.
Nhưng Việt viết cho thấy người Tàu có hiểu biết rất sâu sắc và
phân biệt các tộc Yịt ngày từ thời xưa.
Người Mường vẫn nhớ âm ban đầu là Yit, và byua cuả đám Yit
này là byua Yit Yàng, mà họ cũng gọi là byua Hùng Wang. Kư ức
người Nam bộ từ khi theo công chúa Ngọc Vạn năm 1623 đi
mở nước ở miền Nam vẫn lưu giữ chữ Yiệc, Byiệc. Phát âm Yit
của Mường và Yiệc của người Nam Bộ chính là một khoen trung gian
vô cùng quan trọng nối với mắt xích ban đầu. Khi Yit được
các ông nghè ông cống Đàng Ngoài tô son cài hoa thiên lư thành
Việt th́ họ hoặc ở chốn wê mùa hoặc đă tẩu vô Nam trước đó nên
hổng có hay. Sông Pơ Đuông -có nghĩa lúa gạo- biến thành sông
Đuống (14) cho thấyYịt biến thành Việt cũng là điều dễ hiểu.
Trường hợp đám phiêu lưu giữ lại âm cổ xảy ra dài dài. Vùng
Pensylvania bên Mỹ vẫn c̣n tiếng Anh cổ. Người Bạch Nga qua Úc
đầu thế kỷ 20 vẫn dùng tiếng Nga thời Nga Hoàng (15). Có lần
nghe radio phỏng vấn một ông lăo người Việt lai dân bản địa da
đen ở đảo Madagascar. Ông nói tiếng Việt giọng hơi lờ lợ nhưng
dễ hiểu. Ông chỉ mong về thăm xứ Việt một lần, "trước khi mất
bọ nhủ vạy" (bọ = bố, vạy = vậy).
Âm [v] nơi láng giềng
Cho tới bây giờ tiếng Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên,
Indonesia,Thái, cũng không có âm [v]. Tiếng Thái, tiếng Ấn chỉ
có âm hơi giống âm [w] trong chữ wind của tiếng Anh. Giống tiếng
Việt xưa, tiếng Triều Tiên cũng có rất nhiều âm [b]: bulgogil
= ḅ (thịt), bae = cái bè.
Tiếng Mường, Triều Tiên, Miến Điện, Lào Thái, Khmer, Chàm,
Tày-Nùng đều có âm "bờ-yờ" - dưới dạng [p-ỳ ơ]
- với b hay p đọc nhẹ và nhanh. Người miền Trung từ Qui Nhơn-Tuy
Hoà trở vô vẫn có âm "bờ-yờ." Tuy từ điển Chàm và từ điển Taberd
không c̣n ghi âm "bờ-yờ", nhưng ghi hay không là chuyện của giới
khoa bảng, âm "bờ-yờ" vẫn được dân chúng bảo lưu, v́ bà con ít
khi mở từ điển. Nhiều khi các học giả căi nhau loạn xạ, dân lành
vô tội tỉnh bơ, như yụ om ṣm về con chim Lạc, về Lạc Vương/Hùng
Vương trước 75 ở Saigon. Ít lưu ư đến các đề tài văn hoá/lịch sử
không phải dấu hiệu hay, nhất là nơi một dân tộc lúc nào cũng tự
hào có bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng piếc sao bây giờ!
Âm [v] ở trong Nam
Người Byiệt Đàng Trong, nhất là người Nam bộ dù là xứ thuộc
địa của Pháp, lại cầm cự lưu giữ được âm w, b-ỳ ơ.
Thời ông Phan Khôi, có phong trào học abc, "Chữ quốc ngữ chữ
nước ta con cái nhà đều phải học". Ông Phan Khôi xúi phe tóc dài
kéo phe húi cua học quốc ngữ theo kiểu Lưu B́nh Dương Lễ, nếu
chưa thi đỗ th́ chưa động pḥng "Rồi các cô hẹn nhau, rày về
sau, hễ các cậu, cậu nào viết quốc ngữ đúng th́ các cô hăy cho
bưng trầu rượu đến nhà; c̣n không, th́ đuổi họ đi cho rảnh".
Mấy cổ đuổi vô hay đuổi ra, ai mà piếc. Nhưng ở miền Nam yụ
học chữ abc ngon lành hết biết như ông Phan Khôi viết "Trong
khi ấy th́ ngoài Trung, Bắc kỳ, người An Nam ta đương c̣n nằm
sấp xuống, cấn bụng trên ván, duỗi cẳng dài đuột đuột mà viết
chữ Hán, từ bậc ông Cống ông Nghè cho đến chú Trùm trong xóm
cũng vậy.
Kể cái công tập tành chữ quốc ngữ cho quen và rải rắc nó cho một
ngày một rộng ra, ấy là phải kể cho xứ Nam kỳ.
Tôi muốn nói xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ cho cả và dân An
Nam, cũng không phải là quá đáng. Độc giả hăy nhớ, xứ Nam kỳ là
thầy dạy quốc ngữ cho dân An Nam! "
Ổng nói dạy đây là dạy VIẾT. Nguời miền Nam, thời ông Trương
Vĩnh Kư, Húnh Tịnh Của, hay ở chỗ viết vẫn trúng chánh tả.
Nhưng vẫn nói giọng Nam bộ, tức giọng Byiệt cổ, trong đó có âm
[b-yờ], dù cô Sáu mang thuỷ xoàn mặc quần sa teeng hay chú Ba
pán pánh p̣ pông. Hồi gia đ́nh tôi mới di cư vào Nam 1954, vẫn
nghe bà ngoại cḥm xóm la om "Úc, mày làm giống ǵ ngoải, hổng
ýa cho em bú, nó nhè ngoại nó đ̣i byú nè…" Khoảng năm 1980-90,
trên một chuyến phà Châu-đốc – Nam-Vang, lẫn trong tiếng vơng
đưa giữa đám bạn hàng, vẳng tiếng ru em đẫm màu Nam Bộ, rất " đậm
đà bản sắc dân tộc" dù có thể bị các học giả biến sắc mặt bắt
lỗi "nói"sai… chánh tả:
Đi đâu cho thíp theo cùng
Đói no thíp chiệu lặn lùng thíp cam
Yí yầu t́n có yở yang
Th́ cho thíp gọi đ̣ ngang thíp b-yề.
Yí yầu t́n béeng yiêng thề
Th́ cho thíp được đền ngh́ trúc mai
Định mệnh ngoại hạng của Âm [v]
1. Ở từ điển Alexandre de Rhodes, không t́m thấy chữ Việt,
Yiệc, hay Byiệc trong các vần V, W, B. Lư do: vào năm 1651,
người và nước Việt Nam c̣n được gọi là An Nam.
2. Đến từ điển Taberd, trào vua Gia Long, mới có chữ Việt
Nam=Regnum Anamiticum
3. Tự điển Mường Việt ghi chữ Yịt ở vần D = Dịt. Tràng
thi truyền khẩu Đẻ Đất Đẻ Nước (9) của người Mường "nói" byua
Yịt Yàng. Nhưng khi kư âm abc lại "viết" vua Dịt Dàng. Nếu phát
âm chữ Dịt đó theo giọng Bắc, sẽ làm mất khoen nối giữa Yịt -
Yiệc - Việt. Th́ đừng nói thế hệ sau, ngay thế hệ này đă không
hiểu chữ Yịt - Yiệc - Việt có ràng buộc quan trọng tới mức nào.
4. Chữ quốc ngữ phát xuất từ các xứ đạo Đàng Ngoài, nơi vâng
lời là một đức, nên đám tân ṭng tuyệt đối nghe theo lời chỉ dẫn
của các thầy. Dần dần, quốc ngữ abc vượt ra khỏi khuôn viên nhà
thờ. Nguời Việt Đàng Ngoài có lẽ quá hâm mộ chữ quốc ngữ abc nên
đă
- thẳng tay loại trừ một số âm như: bl, tl, ml, kl, b-ỳ ơ,
w
- tuyệt đối chấp nhận âm [v] coi như tiêu chuẩn
5. Phát âm Nam Bộ trước sau trung thành với tiếng Byiệc. Khi
các thầy soạn tự điển Alexandre de Rhodes, không có giọng Nam Bộ
dự phần. Tuy vậy, chính người Nam Bộ đi tiên phong trong việc
dạy chữ abc. Nhưng giọng Nam lại bị các học giả cho là…sai. Và
người Nam lâu dần cũng tin tưỏng như thế v́ từ ông Phan Khôi và
ngay cả ông B́nh Nguyên Lộc đều cho là "tiếng Bắc trúng hơn" dù
giọng Bắc cũng "sai" tùm lum tà la. Ví dụ "nái xe nam neo nên nề
nạng qua nạng nại nật nuôn/lái xe lam leo lên lề lạng qua
lạng lại lật luôn"
6. Dư luận vẫn cho rằng giọng Nam Bộ "lẫn t với c, lẫn có
g với không g, lẫn dấu ngă với dấu hỏi" hoặc giọng
Bắc sai khi không phân biệt s/x, ch/tr, n/l, r/d/gi…Thật
oan ơi ông địa! V́ giới ngôn ngữ học hồi đó (và cả bây
giờ) không tính tới thành phần hết sức pha trộn của dân Việt, mà
sự khác biệt về dấu/giọng phản ảnh sự khác biệt nguồn gốc ban
đầu. Có thể tóm tắt: cho măi đến khoảng đời nhà Trần, tại xứ
Việt cổ không có một chi chủng thuần tuư nào gọi là chi chủng
Việt Nam. Tức không có chi nào gọi là chi Việt Nam trong khối
Bách Việt. Mà chỉ có hàng trăm chi trong Bách Việt cung cấp các
ṇi giống khác nhau cho gịng giống Việt, làm thành dân tộc Việt
Nam ngày nay. Sách vở chính thức hiện nay vẫn cho rằng có 54
dân tộc trên mảnh đất VN (con số này mới xuất hiện trong sách vở
sau 1975). Điều này cho thấy nguời Việt không phải là một dân
tộc thuần chủng như hồi nào tới giờ lầm tưởng. Những dân tộc này
cùng có chung một số từ, chứng tỏ thời gian cộng cư.
Ví dụ, chữ "va" ( đọc
là [Ya]) = thằng chả/gă nọ/anh ta, thời
ông Hồ Biểu Chánh vẫn c̣n rất phổ biến trong Nam. Theo tác giả
Nguyên Nguyên :
phát âm [Ya] hay [bờ ya] hay [ ba],
giống với Hakka [za], Mă Lai [Dia] hay [Ia], Tagalog
[niya], Sinhalese [Eya], và Polynesian [Ia] (11a),
giọng Nam nói YA v́ có gốc Mon-Khmer và
Đa Đảo. Giọng
Bắc nói VA v́ tiếp cận/hợp chủng/hoặc cả hai, với người
Hẹ Hakka.
Người Hakka là nhóm chủ lực ở miền Bắc. Hakka cho cả
hai âm [za] và [v]. Âm [v] là âm
đặc thù
của người Hakka thay cho âm W của người Hoa ở các khu
vực phía trong kể cả Bắc Dương Tử (tiếng Bắc Kinh). V́
người Hakka có gốc ở miệt Sơn
Đông nên
cho đến ngày
nay tiếng Tàu ở Sơn
Đông vẫn có âm
[v] thay cho âm W ở tiếng quan thoại/Bắc Kinh (11b).
Đền ngh́ trúc mai
Bài viết Tiếng Quảng Trị của Trần Hữu Thuần (12) cho thấy chỉ
có vài làng ở gần nhau mà tiếng nói cũng khác. Tiếng Việt vẫn có
những khác biệt, và sẽ măi măi khác nhau như thế. Tuy vậy, sự
khác biệt ấy không quá lớn lao như ở Phi Luật Tân, tuy là một
hải đảo độc lập, nhưng có tới 27 tiếng nói khác hẳn nhau. Họ
phải dùng tiếng Tagalog ở trường học và tiếng Anh ở thương
trường hay diễn đàn chánh trị. Không cần thở ngắn than dài v́
sai biệt đó không làm giảm tính thống nhất trong tiếng Việt, dẫn
tới những thống nhất khác như phong tục, lối sống, cách suy
nghĩ.
Thế giới đang t́m cách phục hồi những tiếng nói trên đà diệt
vong. Ở Quảng B́nh, đám người Rục, người Nguồn (15) mà tiếng nói
và nguồn gốc được xem là Việt tối cổ vẫn là đề tài nghiên cứu.
Giữ được tiếng nào hay tiếng ấy cũng là cách đền ngh́ ơn tổ
tiên.
Năm 223 TTL khi Tần Thuỷ Hoàng gồm thâu sáu nước, nước Sở
tiêu tán đường. Quư tộc bị giết chết. Dân chạy tan tác. Số ở
lại, bị tàn sát hoặc đồng hoá tận gốc rễ. Sau bao cố gắng, Đại
Học Massachusetts Amherst chỉ sưu tầm được… 5 chữ (16).
Riêng Yit, Byiệc, Việt đă chịu sự thử thách của thời gian gần
5000 năm, trôi nổi từ thảo nguyên mênh mông đến sông dài núi
rộng, vượt sóng cả trùng dương, vượt lên trên tất cả những oái
oăm của lịch sử, cho thấy quá khứ của cả một dân tộc không chỉ
lưu lại trong chữ viết.
Vườn nào hoa nấy
Có thể nói, không có chuyện đúng sai trong âm V. Vấn đề chỉ
là giọng Bắc đă quốc tế hóa được âm v, cũng như giọng Nam đă
quốc tế hoá được âm tr.
Bài viết này không phải là một sáng tác. Chỉ làm công việc
lượm lặt lư giải của những người đi trước để trả lời cho thắc
mắc chữ V: tiếng nói có trước, chữ viết có sau, các xướng
ngôn viên người Nam đă trung thành với phát âm cổ của tiếng Yiệc
từ 5000 năm trước abc: Byiệt, Byiệc, Yiệt, Yiệc. Viết theo abc
là Việt. Viết cũng như nói, Việt không bao giờ là Diệt hay Dziệt
hay cả.
Trần Thị Vĩnh Tường – Mùa Thu 2007 - California
Ghi chú
(1)Phan Khôi (1887-1959)/Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế
lực của phụ nữ
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5465&rb=06
Ông Phan Khôi thấy báo chí viết sai chánh tả, ông sót sa "khôn
ngăn châu lụy sụt sùi" và đề quyết "chữ quốc ngữ ở Nam kỳ
mà viết sai bậy bạ hết là bắt đầu từ các ông làm báo bậc tiền
bối".
(2) Chinh Phụ Ngâm, tác giả Đặng Trần Côn (1715-1745) người
làng Mọc, huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông. Bản dịch Nôm được cho
là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), người làng Giai Phạm,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, khoảng giáp Bắc Ninh.
(3) Phụng Nghi/100 Năm Phát Triển Tiếng Việt, NXB Văn Nghệ
1999, California
(4) Từ điển Việt-Bồ-La, Alexandre. De Rhodes, Dictionarivm
Annnamiticvm – Lusitanvm – Latinvm, soạn cho Đàng Ngoài, in lần
đầu tiên ở La Mă năm 1651, Viện Khoa Học Xă Hội/HCM tái bản năm
1991.
Từ điển Việt-La Tinh Taberd, Dictionarium Anamitico-Latinum,
được soạn sau khi nước nhà đă thống nhất không c̣n Đàng
Trong/Đàng Ngoài, in lần đầu tiên tại Bengale (Ấn Độ) năm 1838,
tái bản 2004, NXB Văn Học/Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Hà Nội
và TPHCM.
(5) Hoàng Xuân Việt/T́m Hiểu Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, Nguyễn
Minh Tiến hiệu đính, NXB Văn Hoá Thông Tin 2007
(6) Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ và HoàngVăn Hành ,
NXB Văn hoá Dân Tộc (2002).
(7) Jeanne Cuisinier, tác giả La Danse Sacrée en
Indochine et en Indonésia [Múa thiêng ở Đông Dương và Indonesia]
và Les Mương, Geographie Humaine et Sociologie (Người Mường, địa
lư nhân văn và xă hội học), Université de Paris, 1946,
(8) Tư liệu/Nguyễn Cúc, chủ bút đặc san Tiếng Sông Hương
Dallas/Texas
(9) Đẻ Đất Đẻ Nước, NXB Văn Học – Hà Nội 1976
(10) B́nh Nguyên Lộc (1914-1987) tác giả hai cuốn Nguồn Gốc
Mă Lai của dân tộc Việt Nam và Lột Trần Việt Ngữ xuất bản năm
1971 và 1972 ở Saigon, được tái bản dài dài ở hải ngoại, tuy vậy
cũng rất hiếm. Hiện có trên http://www.talawas.org
(11) Nguyên Nguyên
a. Thử Đọc Lại Truyền Thuyết Hùng Vương/trên nhiều trang net.
b.
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyennguyen/120707-quangtri.htm
c. Loan Words and Metaphorical Field (tư liệu)
(12) Trần Hữu Thuần/Tiếng Quảng Trị/Talawas 6/2007:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10168&rb=06
(13) 5000 năm nếu tính từ lúc lănh tụ Xuy Vưu lănh đạo đám
Cửu Lê đánh nhau với Hiên Viên của Hoa Hạ ở trận Trác Lộc năm
2879. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, Xuy Vưu là nhân vật huyền sử.
Nhưng dân tộc Đại Hàn, dân HMong thờ ông như thánh tổ. Họ c̣n
ghi dấu chiến trường nơi ông bị chặt đầu. Dân Trung Hoa bây giờ
cũng phải nhận ông là một trong ba ông tổ (Xuy Vưu, Hiên viên,
Thần Nông).
Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, kỷ nhà Lư, năm 1160, mùa xuân
tháng giêng, vua Lư Anh Tông cho xây đền thờ Hai Bà và đền thờ
Xuy Vưu ở phường Bố Cái. Phường Bố Cái đời Lê, bây giờ là phố
hàng Than. Không biết đền này có c̣n lưu vết tích ǵ chăng.
(14) Nguyễn Đức Hiệp (2007) Trao đổi tư liệu.
(15) Nguyễn Đức Cung/Quảng B́nh Chín Trăm Năm Nh́n Lại
(1075-1975) NXB Nhật Lệ 2006
(16)
http://www.umass.edu/wsp/results/languages/chu/lexicon.html
(17) Hoàng Cầm/ Bên Kia Sông Đuống/Việt Bắc tháng Tư/1948
Bao giờ trở lại gịng sông Đuống
Ta lại t́m em
Em mặc yếm trắng
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn ḷng xuân sang
(18) Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp,
http://ngonngu.net/index.php?p=309: Trương Vĩnh Kư sinh
ngày 6/12/1836 tại thôn Cái Mơn, xă Vĩnh Thành, huyện Tân Minh,
tỉnh Vĩnh Long. Ông đă học chữ nho, chữ quốc ngữ, sau đó được
một linh mục đưa đến Cái Nhum trên đất Campuchia học chữ Latin.
Từ năm 1851 đến năm 1858, ông học ở trường đạo Pinang thuộc Ấn
Độ Dương, rồi qua Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức và Ư.
Trương Vĩnh Kí là người thông minh, uyên bác, có thể đọc và nói
giỏi 15 thứ tiếng phương Tây và 12 thứ tiếng phương Đông. Ông là
hội viên của các hội khoa học: Hội Nhân chủng học và khoa học
miền Tây nước Pháp, Hội chuyên nói các tiếng phương Đông, Hội
chuyên khảo văn hoá Á châu, Hội địa lí học Paris,... Đương thời,
Trương Vĩnh Kí được báo chí và giới học giả nước ngoài liệt vào
hàng thứ 17 trong danh sách "Toàn cầu thập bát văn hào". Ông mất
ngày 01/9/1898, thọ 62 tuổi. Ông để lại khoảng 118 bộ sách đă
xuất bản và rất nhiều công tŕnh c̣n đang dở dang.
Theo tác giả Sơn Nam trong Văn Minh Miệt Vườn, khi Trương
Vĩnh Kư đi học ở Poulo Penang (Mă Lai), ông là người đem về cho
Cái Mơn nhiều cây trái mới. Cái Mơn sau đó trở thành vườn gây
cây giống cho Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Mỹ Tho…tạo sự trù phú
và lập nên nền văn minh miệt vườn. Quí bà quí cô mê sầu riêng,
bọng boong, măng cụt, chôm chôm, vú sữa… phải nhớ đến Trương
Vĩnh Kư.
Bức tượng Trương Vĩnh Kư mặc áo dài, đội khăn, tay cầm cuốn
sách, do dân chúng và nhà báo đóng góp từ năm 1908, được dựng
lên năm 1927 ở công viên gần dinh Độc Lập, Saigon. Sáng nào
chúng tôi đi học ngang cũng nh́n thấy ông. Sau 1975 bị hạ xuống.
Không biết giờ này hạ lạc nơi đâu.
Húnh Tịnh Của (1834–1908), người gốc Bà Rịa. Ông soạn
Đại Nam quấc âm tự vị 1210 trang trong bốn năm. Ông c̣n viết:
Phép toán (Số học) (1867); Phép đo (H́nh học) (1867); Gia lễ
(1886); Sách Bác học sơ giải (1887); Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn
(1897); Thư mẹ dạy con (1913). Sách giải trí: Chuyện giải buồn
(in lần đầu năm 1886 và lần thứ năm năm 1904); Câu hát góp
(1904); Văn Doan diễn ca (1906). Sách "Bổn cũ soạn lại" hay
phỏng dịch của văn học Trung Hoa: Quan âm diễn ca (in lần thứ
năm năm 1930); Tống Tử Văn (1904); Bạch Viên Tôn Các (1906);
Chiêu Quân cống Hồ (1906); Tống Tử Vưu truyện (1907).
Họ Húnh của ông xuất hiện với chữ i ngắn, v́ vậy tất cả sách
vở khi nhắc tới ông đều dùng i ngắn như nguyên văn để tỏ ḷng
kính trọng, dù có thể không đồng ư với chữ i ngắn này. Đó cũng
là một nét đẹp của giới cầm bút có văn hoá.
(19) Tên Âu Cơ cũng là tên đă Việt hoá. Tên Mường là Ngu Cơ.
Ngu Cơ cũng là tên người đẹp của tráng sĩ Hạng Vơ trong tuồng "Hạng
Vơ biệt Ngu Cơ"
|