Hỏi một người
Việt b́nh thường
về nguồn gốc dân
tộc Việt Nam,
câu trả lời mà
người ta thường
nghe là tổ tiên
của chúng ta
xuất phát từ
Trung Quốc. Ngay
cả người có kiến
thức rộng, có
quan tâm đến dân
tộc và văn hóa
Việt cũng có
những ư kiến
tương tự. Đào
Duy Anh, trong
Việt Nam Văn hóa
Sử cương; và
Trần Trọng Kim,
trong Việt Nam
sử lược, cũng
từng cho rằng
người Việt có
nguồn gốc hoặc
từ Trung Quốc
[1] hay từ Tây
Tạng [2], dù họ
có chút dè dặt
và thận trọng
trong phát biểu.
Gần đây, một
người làm chính
trị nhưng có
quan tâm đến văn
hóa Việt Nam,
Nguyễn Gia Kiểng,
trong Tổ quốc ăn
năn, cũng cho
rằng nước Văn
Lang xưa kia là
do người Trung
Quốc sáng lập
[3] ra.
Bản đồ Đông Nam Á vào thời đại Băng Hà |
Có lẽ cái quan
điểm dân tộc
Việt có nguồn
gốc từ Trung
Quốc đă ăn sâu
vào tâm trí của
chúng ta, nên
văn minh Việt
Nam cũng được
nghiễm nhiên suy
luận là bắt
nguồn từ văn
minh Trung Quốc.
Quan điểm này
phù hợp với sách
vở của Trung
Quốc. Chẳng hạn
như trong Hậu
Hán thư , các sử
gia của Trung
Quốc, với một
giọng văn cực kỳ
trịch thượng và
kỳ thị chủng tộc,
viết rằng tổ
tiên ta ngày xưa
giống như loài
“cầm thú”, xă
hội th́ chẳng có
tôn ti trật tự
ǵ cả, phải đợi
đến khi hai quan
thái thú của họ
là Tích Quang và
Khâm Diên dạy
cho tổ tiên ta
cách ăn mặc và
cách trồng lúa.
Sau đó các nhà
sử học này thản
nhiên kết luận:
“Miền Lĩnh Nam
theo phong hóa
Trung Quốc là
bắt đầu từ hai
thái thú ấy”
[4].
Điều thú vị [hay
đáng trách] là
nhận xét này đă
được giới có học
của Việt Nam
tiếp nhận và lấy
làm một thứ kinh
điển, một câu
văn giáo khoa,
mà không có một
chất vấn tính
trung thực, hay
thách thức tính
khoa học của nó
[5]. Tính dễ dăi
chấp nhận sử
liệu ngoại bang
của giới có học
ngừơi Việt đă vô
t́nh gieo vào
ḷng nhiều người
Việt một tâm lư
tự ti, đánh giá
thấp nền văn hóa
Việt Nam khi so
sánh với các nền
văn hóa khác,
như của Trung
Hoa chẳng hạn.
Đại diện cho sự
đánh giá thấp
này th́ có nhiều,
nhưng một câu
phát biểu trong
Tổ quốc ăn năn
của Nguyễn Gia
Kiểng tưởng tóm
lược khá đầy đủ:
"[…] chúng ta có
lẽ là nền văn
minh phù sa muộn
nhất. […] dấu ấn
của nền văn minh
phù sa: cần cù,
nhẫn nại, nhưng
thủ cựu, thiếu
sáng kiến và
thiếu óc mạo
hiểm. […]" [6].
Từ nhận định đó,
tác giả của TQĂN
cho rằng tổ tiên
của chúng ta qua
nhiều ngàn năm,
tuy sống bên
cạnh biển, mà
chỉ nh́n biển
với cặp mắt sợ
hăi, không sáng
chế ra ra kỹ
thuật hàng hải
nào cả.
Thực ra, chẳng
riêng ǵ giới
trí thức Việt
Nam, ngay cả một
phần lớn trong
giới sử học Tây
phương cũng từng
quan niệm, hay
nói đúng hơn là
giả định, rằng
các nền văn minh
Đông Nam Á (kể
cả của Việt Nam)
chỉ là những chi
nhánh của hai
nền văn hóa lớn
hơn: Trung Hoa
và Ấn Độ. Giả
định này đă được
dùng như là một
sử liệu, một
thuyết đáng tin
cậy để dạy học
cho học sinh (trong
đó có cả học
sinh người Việt);
và một cách vô
t́nh, nó được
lưu truyền hết
thế hệ này sang
thế hệ khác như
là một sự thật!
Bởi v́ qua nhiều
năm, chẳng ai
chất vấn lư
thuyết này, nên
một cách nghiễm
nhiên, nó được
xem là một
“thuyết chính
thống.”
Măi đến thập
niên 60s thuộc
thế kỷ 20, một
số nhà khảo cổ
học rất uy tín
(phần lớn là
Mỹ), dựa vào
nhiều kết quả
của một loạt
nghiên cứu ở
Việt Nam và Thái
Lan, đă bắt đầu
chất vấn sự
chính xác và
tính logic của
thuyết chính
thống trên đây
[7]. Có thể nói
họ là những “con
cừu đen” trong
giới tiền sử
học, v́ đă can
đảm thách thức
một quan điểm mà
đại đa số đồng
nghiệp đều mặc
nhiên công nhận.
Nhưng họ không
phải là những
người đơn độc.
Gần đây, đă có
một số nhà
nghiên cứu từ
Việt Nam, Thái
Lan, và Nam
Dương công bố
nhiều dữ kiện
khảo cổ học cho
thấy rằng thuyết
văn hóa Đông Nam
Á xuất phát từ
văn hóa Trung
Hoa và Ấn Độ
không c̣n đứng
vững nữa.
Nhưng trong
những nhà nghiên
cứu chuyên môn
này, chưa ai
tŕnh bày dữ
kiện một cách có
hệ thống và
nghiên cứu một
cách sâu xa bằng
một nhà nghiên
cứu “tài tử” là
ông Stephen
Oppenheimer
trong cuốn sách
"Eden in the
East: The
Drowned
Continent of
Southeast Asia"
(tạm dịch là
"Thiên đàng ở
phương Đông: Lục
địa ch́m đắm của
Đông Nam Á) [8].
Trong tác phẩm
này, qua những
dữ kiện dồi dào
được thu thập
một cách công
phu từ nhiều
ngành nghiên cứu
khác nhau,
Oppenheimer trực
tiếp thách thức
cái thuyết chính
thống, và làm
thay đổi những
quan niệm về
thời tiền sử mà
chúng ta từng
hiểu và từng
được dạy. Đặc
biệt, cuốn sách
đặt trọng tâm
vào việc thẩm
định lại các
quan điểm về văn
minh vào thời
tiền sử ở Đông
Nam Á, tác giả
cho rằng:
Trận đại hồng
thủy [9] tương
tự như trong
Kinh Thánh là có
thật và xảy ra
vào cuối thời
đại Băng hà (Ice
Age).
Trận đại hồng
thủy này xảy ra
khoảng 8000 năm
về trước làm
ch́m đắm lục địa
Đông Nam Á, và
làm cho dân
chúng phải di
tản đi các vùng
đất khác để
sống. Họ chính
là những người
gầy dựng nên nền
văn hóa Tân Đồ
Đá (Neolithic
cultures) của
Trung Quốc, Ấn
Độ, Mesopotamia,
Ai Cập và vùng
đông Địa Trung
hải, và do đó,
họ là những
người cha đẻ và
vun đắp các nền
văn minh vĩ đại
ở phương Tây.
Những dân tộc
thuộc quần đảo
Polynesian không
phải xuất phát
từ Trung Quốc,
nhưng có nguồn
gốc từ Đông Nam
Á.
Người Trung Quốc
không phải là
người sáng chế
ra kỹ thuật
trồng lúa.
Khoảng 9,000 đến
10,000 năm về
trước, một số
dân thuộc vùng
Đông Nam Á đă là
những nhà canh
nông chuyên
nghiệp đầu tiên
của nhân loại
(chứ không chỉ
sống bằng nghề
săn bắn), họ đă
phát triển kỹ
thuật trồng
khoai và qua đó
làm một cuộc
cách mạng nông
nghiệp.
Nói một cách
khác cho rơ ràng
hơn, qua công
tŕnh nghiên cứu
này, Oppenheimer
đề xuất một
thuyết cho rằng
Đông Nam Á là
cái nôi của văn
minh nhân loại
ngày nay. Thuyết
này thể hiện một
thách thức rất
lớn đến các tri
thức về thời
tiền sử đă và
đang được lưu
truyền trong
giới khoa bảng.
Và do đó,
Oppenheimer đă,
lần đầu tiên,
đặt vùng Đông
Nam Á vào vị trí
xứng đáng của
một vùng đất
thường bị lăng
quên bên cạnh
hai nền văn minh
lớn là Trung Hoa
và Ấn Độ.
Vùng đất giàu
lịch sử nhưng bị
lăng quên
Đông Nam Á là
một trong những
vùng đất với
nhiều sắc dân và
nhiều nền văn
minh phong phú
nhất và cổ nhất
của nhân loại.
Về mặt địa lư,
có hai khu vực
riêng biệt: một
khu thuộc về đất
liền và một khu
thuộc về hải
đảo. Khu vực đất
liền thực ra gồm
hai bán đảo: khu
rộng lớn bao gồm
Miến Điện (ngày
nay gọi là
Myanmar) thuộc
hướng Đông Bắc,
Thái Lan ở giữa,
và Lào, Cam-bốt,
và Việt Nam
thuộc hướng Đông
và Đông Nam; và
khu nhỏ hơn bao
gồm bán đảo Mă
Lai, chạy dài từ
Thái Lan xuống
tận Miến Điện.
Miến Điện có
nhiều chùa chiền
được kiến trúc
một cách phi
thường, nhiều
lâu đài được
chạm khắc rất
tinh vi. Ở miền
Bắc Thái Lan
cũng c̣n lưu lại
nhiều công tŕnh
kiến trúc vĩ đại
mang đậm ảnh
hưởng của Phật
giáo. Vịnh Hạ
Long thuộc phía
bắc Việt Nam
trồi lên những
tác phẩm thiên
nhiên như được
chạm bằng đá
vôi, mà có lẽ
từng là một vùng
lục địa khoảng
mười ngàn năm
trước đây. Cổ
Loa, một huyện
nhỏ của Việt Nam
ngày nay, có lẽ
là một trung tâm
đô thị (hay một
thành phố) đầu
tiên của vùng
Đông Nam Á, với
niên biểu được
ước đoán vào
khoảng niên kỷ
thứ ba trước
Dương lịch.
Những công tŕnh
kiến trúc ở Huế
và Đà Nẵng cho
thấy sự tương
phản giữa hai
nền văn hóa
Trung Hoa và Ấn
Độ. Thành phố
Huế, tuy lâu đời
hơn, nhưng có
nhiều công tŕnh
kiến trúc trẻ
hơn, thành phố
Đà Nẵng, nơi mà
nhiều tháp Chàm
c̣n lưu lại như
những dấn ấn của
văn minh Ấn Độ.
Cam-bốt có đền
Angkor Wat nối
tiếng, và nhiều
dấu vết của một
nền văn minh
sáng chói trước
đây. Ai là người
đă xây dựng
những công tŕnh
này? Trong Thiên
Đàng ở Phương
Đông,
Oppenheimer
chứng minh rằng
chính những
người dân địa
phương đă xây
dựng những công
tŕnh đồ sộ này.
Ảnh hưởng của
văn hóa Trung
Hoa và Ấn Độ chỉ
qua thương mại,
chứ không phải
qua xâm lăng.
Với một lịch sử
lâu đời và nhiều
nền văn minh
phong phú như
thế, song Đông
Nam Á lại không
được các nhà sử
học để ư đến như
các vùng đất
khác. Đây là một
ví dụ về thành
kiến của giới sử
học Tây phương.
Khoảng 200 năm
trước đây, các
nhà sử học khám
phá rằng phần
lớn hai họ ngôn
ngữ Ấn và Âu
(Indian và
European) thuộc
vào một họ ngôn
ngữ mà ngày nay
chúng ta gọi là
nhóm Ấn-Âu
(Indo-European
language group).
Khám phá này
được đánh giá
như là một thành
quả vĩ đại của
tri thức vào
thời gian đó.
Nhưng mỉa mai
thay, trước đó
vài năm, người
ta đă phát hiện
ra một nhóm ngôn
ngữ khác, có tên
là Austronesian,
nhưng không đem
lại một sự chú ư
nào đáng kể
trong giới khoa
bảng Tây phương
cả. Nhóm ngôn
ngữ này hiện
diện rất rộng,
từ các vùng như
Madagascar, Đài
Loan ngày nay,
Hawaii, và Tân
Tây Lan, vượt
Thái B́nh Dương,
đến tận Ấn Độ
dương khá lâu,
có thể trước khi
Phật Thích Ca ra
đời.
Sách viết về
nguồn gốc văn
minh thế giới
hoàn toàn không
đề cập đến Đông
Nam Á. Ngay cả
khi đề cập đến
khu vực này
trong vài năm
gần đây, các
sách cũng chỉ
viết một cách sơ
sài vài hàng,
với giọng văn
thiếu nghiêm
túc, nhưng lại
tập trung vào
hai nền văn minh
Trung Hoa và Ấn
Độ, nhất là vào
thời 2000 năm
trước đây. Măi
đến thời gian
gần đây, văn
minh của Thời
đại Đồng thiết
Đông Sơn (Bronze
Age), và các nền
văn hóa trước đó
(vào niên kỷ thứ
nhất trước Dương
lịch) của Việt
Nam mới được
công nhận như là
văn minh nguyên
thủy của khu vực
Đông Nam Á. Tuy
nhiên, số lượng
nhà khảo cổ học
trực tiếp gắn bó
và chuyên môn
nghiên cứu về
các nền văn minh
này vẫn c̣n rất
ít, nếu không
muốn nói là chỉ
“đếm đầu ngón
tay”. Trong khi
đó, các trung
tâm nghiên cứu
thuộc các nước
trong vùng như
Việt Nam, Thái
Lan, Nam Dương,
v.v. th́ lại bị
hạn chế về
chuyên môn, lẫn
thiết bị và tài
chính để làm có
thể tiến hành
những nghiên cứu
loại tiền phong.
Khoảng trống
lịch sử
Có lẽ v́ những
lí do kể trên,
ngành khảo cổ
học, tuy với một
bề ngoài mang vẻ
chính xác cao,
nhưng thực tế
th́ có khá nhiều
khoảng trống.
Khoảng trống
lịch sử đáng chú
ư nhất là quá
tŕnh tiến hóa
sau thời kỳ nước
biển bị dâng
cao, và đặc biệt
là vào thời kỳ
Đồ Đá Mới,
khoảng 8000 năm
trước đây, nhất
là sự lăng quên
cho nền văn minh
Đông Nam Á, v́
thiếu dữ kiện.
Thực vậy, ngoài
Việt Nam và Thái
Lan là hai nước
có nghiên cứu
khảo cổ tương
đối trưởng thành
và có khá nhiều
dữ liệu gần đây,
ở các nơi khác
trong vùng, giới
khảo cổ học chỉ
mới bới đào phần
trên mặt của
thời đại Đá mới
và Đồng thiết
(Neolithic và
Bronze Age).
Cộng thêm vào đó
là sự thiếu thốn
các văn bản
trong thời tiền
sử thuộc vùng
đất này cũng làm
cho việc nghiên
cứu thêm nhiều
khó khăn. Nhưng
dù sao đi nữa,
so với các vùng
khác trên thế
giới, Đông Nam Á
vẫn là một địa
phương có nhiều
thiếu sót về dữ
kiện trong thời
tiền sử.
Trong "Thiên
đàng ở phương
Đông," Stephen
Oppenheimer đặt
một câu hỏi mà
ai cũng phải suy
nghĩ: người dân
vùng duyên hải
Đông Nam Á làm
ǵ khi mực nước
biển [10] dâng
cao làm ngập xứ
sở họ vào thời
gần Thuộc kỷ
pleitoxen? Câu
trả lời của
Oppenheimer dựa
vào ba lư lẽ
quan trọng:
Thứ nhất, vào
thời cao điểm
của Thời đại
Băng hà (khoảng
20000 đến 18000
năm trước đây),
Đông Nam Á là
một lục địa rộng
gấp hai lần Ấn
Độ ngày nay, và
bao gồm cả phần
đất mà người Tây
phương thường
gọi là bán đảo
Đông Dương, Mă
Lai Á và Nam
Dương. Vào thời
đó, Biển Nam
(South China
sea), Vịnh Thái
Lan và Biển Java
là một vùng đất
khô nối liền các
khu vực của lục
địa. Theo địa
chất học, bán
phần của vùng
đất bị ngập ch́m
này được gọi là
Thềm lục địa
Sunda (tiếng Anh
là Sundaland).
Vùng đồng bằng
của thềm lục địa
này bị ch́m đắm
rộng lớn bằng Ấn
Độ ngày nay. Sau
Thời đại Băng
hà, cuối cùng
chỉ c̣n một số
núi rải rác
chung quanh quần
đảo Mă Lai. Vùng
biển nối giữa
Hàn Quốc, Nhật
Bản, và Đài Loan
mà ngày nay ta
gọi là Biển Đông
(East China sea)
từng là vùng đất
liền. Một bằng
chứng rất thuyết
phục mới nhất
(ba năm trước
đây) là những
công tŕnh xây
cất, ṭa nhà
được kiến trúc
rất độc đáo vừa
được khám phá
dưới ḷng biển
thuộc Đài Loan.
Thứ hai,
Oppenheimer
chứng minh rằng
khoảng 9,000 đến
10,000 năm về
trước, một số
dân vùng Đông
Nam Á đă là trở
thành những nhà
canh nông chuyên
nghiệp, không
chỉ là những
người sống bằng
nghề săn bắn ban
sơ như giới khảo
cổ học Tây
phương mô tả.
Ông tŕnh bày dữ
kiện liên quan
đến trồng trọt
khoai lang
(khoai mỡ, yam)
và khoai nước
(taro) được t́m
thấy ở Nam
Dương, mà tuổi
cỡ 15,000 đến
10,000 trước
Dương lịch; kỹ
thuật trồng lúa
có sắp sỉ tuổi
cũng được t́m
thấy ở Mă Lai Á.
Thứ ba, dựa vào
dữ kiện và các
yếu tố địa chất
học, Oppenheimer
cho rằng vào
khoảng 8000 năm
trước đây, mực
nước biển tăng
một cách đột
ngột và gây ra
một trận đại
hồng thủy, và
trận lụt vĩ đại
này đă làm cho
những nhà nông
đầu tiên trên
thế giới này
phải di tản đi
các vùng đất
khác để mưu
sinh. Tuyến
đường di cư là
theo hướng nam
về Úc Đại Lợi,
hướng đông đến
Thái B́nh Dương,
và hướng tây đến
ấn Độ Dương, và
hướng bắc vào
vùng đất liền Á
châu.
Trong quá tŕnh
di cư đến các
vùng đất mới, họ
đem theo ngôn
ngữ, truyền
thuyết, quan
niệm tôn giáo,
kinh nghiệm
thiên văn, yêu
thuật, và đẳng
cấp xă hội đến
vùng đất mới.
Thực vậy, ngày
nay, dấu vết của
cuộc di dân trên
vẫn c̣n ghi đậm
trong các quần
đảo Melanesia,
Polynesia và
Micronesia; dân
chúng những nơi
này nói tiếng
thuộc hệ ngôn
ngữ Austronesian
có nguồn gốc từ
Đông Nam Á. Có
lẽ người ta
không ngạc nhiên
khi thấy trong
các dân tộc vùng
Đông Nam Á,
Trung Đông, Úc
châu, và Mỹ châu
đều có những câu
truyện thần
thoại về trận
lụt vĩ đại này,
và các câu
truyện này có độ
tương tự rất
cao. Điều này
chứng tỏ rằng
các sắc dân này
xuất phát từ một
nền văn hóa
nguyên thủy.
Theo
Oppenheimer,
những người tỵ
nạn này là những
hạt giống cho
những nền văn
minh lớn khác mà
sau này được
phát triển ở Ấn
Độ, Mesopotamia,
Ai Cập, và Địa
trung hải.
Ngoài phần
nghiên cứu về
thần thoại và
truyền thuyết,
Oppenheimer c̣n
dùng một nguồn
tài liệu đáng
tin cậy nhất và
mang tính khoa
học và chính xác
hơn là di truyền
học. Các dữ kiện
di truyền học
chứng minh rằng
các sắc dân
trong quần đảo
như Tân Guinea,
Polynesia,
Melanesia, v.v.
có cấu trúc di
truyền tố giống
với các sắc dân
thuộc vùng Đông
Nam Á ngày nay.
Gần đây, c̣n có
một số nghiên
cứu di truyền
học cho thấy
người Hán có
nguồn gốc từ
Đông Nam Á và có
thể cả Bắc Á.
Ông Oppenheimer
viết, "Lư thuyết
mà tôi tŕnh bày
trong cuốn sách
này. lần đầu
tiên, đặt Đông
Nam Á vào trung
tâm của các
nguồn gốc văn
hóa và văn minh.
Tôi cho rằng
nhiều người phải
di tản khỏi vùng
duyên hải của họ
ở phương Đông v́
lụt lội. Những
người tỵ nạn này
từ đó vung đấp
những nền văn
minh vĩ đại ở
phương Tây."
Một vùng đất
văn minh tiến bộ
Theo
Oppenheimer,
Atlantis của
Đông Nam Á, tạm
gọi là
"Sundaland", bởi
v́ vùng này là
một thềm lục địa
Sunda, nơi từng
là trung tâm
hàng đầu về cuộc
cách mạng thời
đại đồ đá mới
(Neolithic
Revolution), bắt
đầu phát triển
kỹ thuật trồng
trọt, dùng đá để
nghiền hạt lúa,
vào khoảng
24,000 ngàn năm
trước đây, tức
là trước cả Ai
Cập và Palestine
khoảng 10,000
năm.
Một loạt khám
phá khảo cổ gần
đây đă đủ để xét
lại thuyết cho
rằng Trung Quốc
và Ấn Độ là hai
nước đă khai hóa
hay truyền bá
văn minh cho các
nước thuộc vùng
Đông Nam Á. Thực
vậy, khám phá về
hạt lúa ở hang
Sakai (miền Bắc
Thái Lan) gần
đây cho thấy cư
dân ở đây đă
biết trồng lúa
rất xưa, có thể
trước cả thời kỳ
nước biển dâng
cao vào khoảng
8000 năm về
trước, ít nhất
là từ thiên niên
kỷ thứ 6 hay thứ
7 trước Dương
lịch. Hệ thống
nông nghiệp được
t́m thấy ở Nam
Dương có niên
biểu lâu đời hơn
cả thời đại mà
những thành tựu
được xem là
"cách mạng" về
trồng lúa ở
Trung Quốc. Thực
vậy, ở Nam
Dương, kỹ thuật
về trồng khoai
lang và khoai
nước được ước
đoán có tuổi từ
15000 đến 10000
năm trước Dương
lịch. Ở Việt
Nam, khám phá ở
Phùng Nguyên và
bằng kỹ thuật
định tuổi dùng
Carbon-14 cho
thấy tổ tiên ta
từng trồng trọt
ngũ cốc khoảng
5000 đến 6000
năm trước đây,
tức là c̣n sớm
hơn nhiều niên
biểu của những
thành tựu của
người Trung
Quốc. Ngoài ra,
Nhà khảo cổ học
rất uy tín gốc
Mỹ, Giáo sư
Wilhelm G.
Solheim II,
trong một loạt
nghiên cứu từ
1965 đến 1968,
cho thế giới
thấy nền văn
minh Ḥa B́nh là
nền văn minh
nông nghiệp đầu
tiên trên thế
giới, khoảng
15,000 năm trước
dương lịch. Một
Nhà khảo cổ học
danh tiếng khác
người Úc, Giáo
sư Peter
Bellwood, đă
từng viết rằng
quê hương nguyên
thủy của cây lúa
rất có thể là ở
chung quanh vùng
Đông Dương - Mă
Lai - Miến Điện,
v́ ở đây khí hậu
nhiệt đới là môi
trường thuận lợi
cho việc canh
tác nông nghiệp.
Trong Eden in
the East,
Oppenheimer cũng
có kết luận
tương tự: thay
vào một mô h́nh
cho rằng Trung
Quốc là xứ sở
nguyên thủy của
kỹ thuật trồng
lúa, chúng ta
lại có một mô
h́nh khác mà
trong đó các dân
tộc "man di" nói
tiếng Nam Á ở
Đông Dương dạy
người Trung Quốc
các kỹ thuật
trồng lúa.
Không những
trong lĩnh vực
nông nghiệp, mà
ngay cả trong
lĩnh vực kỹ nghệ
chế biến, sản
xuất, người Đông
Nam Á, mà đặc
biệt là người
Việt Nam, đă
phát triển kỹ
thuật làm đồ
đồng, đồ thiết
và đồ gốm khá
cao. Về các sản
phẩm đồ đồng và
thiết, người dân
ở vào thời Phùng
Nguyên đă từng
sản xuất vũ khí,
và mức độ sản
xuất đă tăng vọt
trong thời đại
Đông Sơn. Thực
vậy, vào thời
Phùng Nguyên
(tức là lúc thời
kỳ khởi đầu của
vù Hùng) tỷ lệ
vũ khí t́m thấy
trong các di vật
dưới 1%; nhưng
đến thời cuối
vua Hùng, tỷ lệ
này tăng lên
khoảng 50 đến
63%. Nhiều khí
giới khai quật
gần đây ở Đông
Sơn cho thấy cư
dân ở đây là
từng sản xuất
nhiều vũ khí
phức tạp (có
chạm trổ tinh
vi), có thể đánh
xa và gây tổn
thương hàng loạt
cho đối phương.
Người Trung Quốc
vẫn cho rằng họ
là người phát
minh ra vũ khí
dùng trong chiến
trường. Đối
chiếu với những
khám phá ở Đông
Sơn và Phùng
Nguyên, xem ra
thuyết người
Trung Quốc khám
phá ra vũ khí
đầu tiên không
c̣n vững nữa!
Về đồ gốm, người
Việt Nam đă sản
xuất nhiều sản
phẩm nghệ thuật
công phu và
thanh tú, và
những sản phẩm
này không những
được bán trong
khắp vùng Đông
Nam Á, mà c̣n
xuất khẩu qua
tận xứ
Melanesia. Thị
trường xuất khẩu
này đă h́nh
thành trước sự
ảnh hưởng của Ấn
Độ. Các dụng cụ
bằng đá t́m được
ở Úc châu cũng
từ Ḥa B́nh mà
ra: tuổi của các
đồ đá này được
định là 14000
đến 20000 năm
trước Dương
lịch. Đồ gốm ở
Nhật với tuổi
khoảng 10000 năm
trước dương lịch
cũng xuất phát
từ Ḥa B́nh.
Giáo sư Solheim
II nhấn mạnh
rằng cả hai nền
văn minh nổi
tiếng của Trung
Hoa là Lung Shan
và Yang Sao đều
xuất phát từ Ḥa
B́nh. Như vậy,
từ đồ gốm Phùng
Nguyên đến trống
đồng Đông sơn,
tất cả đều chứng
minh nền văn
minh Việt Nam
thời tiền sử đă
đạt tới một
tŕnh độ cao
trên thế giới.
Quan trọng hơn
là những phát
triển này xảy ra
trước thời văn
minh Lung Shan
và Yang Sao ở
Trung Quốc.
Trước, và đặc
biệt là trong,
thời kỳ nước
biển dần dần
dâng cao, người
Sundaland di dân
đến những vùng
đất láng giềng:
Trung Quốc, Ấn
Độ, Mesopotamia,
và vài ḥn đảo
từ Madagascar
đến Phi Luật
Tân, Tân Guinea,
và sau này họ
chiếm luôn vùng
Polynesia cho
đến Hawaii và
Tân Tây Lan. Họ
là những người
thầy ở các vùng
đất mới, dạy
người địa phương
những kỹ thuật
trồng trọt và
xây dựng. Người
Ḥa B́nh c̣n
truyền bá văn
minh nông nghiệp
đến nhiều nơi
trên thế giới:
Nhật, Đài Loan
khoảng 4000 năm
trước Dương
lịch; Phi Luật
Tân, Indonesia
khoảng 3000 năm
trước Dương
lịch; Madagasca
và Đông Phi châu
khoảng 2000 năm
trước Dương
lịch.
Bắc xuống
Nam, hay Nam lên
Bắc?
Theo thuyết của
Oppenheimer th́
người Trung Quốc
và Ấn Độ ngày
nay có gốc gác
từ Đông Nam Á,
chứ không phải
nguồn gốc của
người Đông Nam Á
là ở Trung Quốc
hay Ấn Độ. Đây
cũng là một đảo
ṿng xoay 180 độ
về nguồn gốc dân
tộc Việt Nam.
Mà, xem ra
thuyết của
Oppenheimer có
nhiều "đồng
minh." Một số
học giả khác
(như Madelaine
Colani, J
Hornell, P. V.
van Stein, Heine
Geldern, Bernard
Karlgren, N J
Krom) cũng cho
rằng làn sóng
người từ Bắc
Việt tràn xuống
phía Nam và vào
Ấn Độ trước khi
vùng này bị
giống dân Aryan
xâm chiếm. Giáo
sư Solheim II
căn cứ trên
những dữ kiện
khảo cổ th́ thấy
rằng giống người
Hoà B́nh tràn
lan xuống phía
nam, lên hướng
bắc, và sang
hướng tây. Tại
mỗi nơi, người
Ḥa B́nh phối
hợp với dân địa
phương để tạo
thành các chủng
tộc mới của mỗi
vùng.
Mới đây thuyết
Bắc-tiến c̣n có
căn cứ khoa học
vững vàng (dù
lúc viết sách,
ông Oppenheimer
không biết đến),
đó là: trong một
bài báo khoa học
quan trọng được
công bố trên Tạp
chí của Viện Hàn
lâm Quốc gia
Khoa học Mỹ (một
tạp chí khoa học
rất uy tín trên
thế giới) , một
nhóm nghiên cứu
thuộc Trường Đại
học Texas (Mỹ)
và Viện Nghiên
cứu Di truyền
học Trung Quốc
cho thấy nguồn
gốc của người
Trung Hoa (và cả
người Đông Á)
rất có thể là do
người từ Đông
Nam Á di dân lên
[11], chứ không
phải ở Bắc di
dân xuống Nam!
Như vậy, cho
rằng dân tộc
Việt là xuất
phát phát từ
người Trung Quốc
có thể là một
ngộ nhận. Phải
hiểu ngược lại
th́ mới đúng!
Một vài nhận
xét
Eden in the East
là một tác phẩm
độc đáo, được
soạn thảo rất
công phu và khoa
học. Điều đáng
chú ư là tác giả
là một bác sĩ
chuyên khoa về
nhi đồng, không
phải là một nhà
khảo cổ học. Tuy
nhiên, với khả
năng và kiến
thức khoa học
của tác giả, ông
đă tiếp nhận tri
thức và xử lư
thông tin từ
nhiều nguồn như
di truyền học,
nhân chủng học,
thần thoại, văn
học dân gian,
ngôn ngữ học,
hải dương học,
và khảo cổ học
để cho ra đời
một cuốn sách
làm cho nhiều
nhà nghiên cứu
Đông Nam Á học
và khảo cổ học
phải ngẩn ngơ.
Thực vậy,
Oppenheimer đă,
không những trực
tiếp chất vấn,
mà c̣n thách đố,
những thuyết mà
giới chuyên môn,
kể cả các học
giả Việt Nam đề
ra và chấp nhận
như những "chân
lư" thời tiền
sử. Kể từ ngày
xuất bản cuốn
sách cho đến nay
(khoảng 3 năm),
theo tôi biết,
chưa một ai
trong giới
chuyên môn về
Đông Nam Á học
chất vấn tính
khoa học của
thuyết mà
Oppenheimer đề
xuất. Thực ra,
tất cả những bài
điểm sách
(khoảng 20 bài)
mà tôi đọc qua
không có một bài
nào chất vấn
cách làm việc
hay khoa học
tính của tác
giả; tất cả đều
ngợi khen một
cách nồng nhiệt.
Có người c̣n cho
rằng đây là một
quyển sách quan
trọng vào bậc
nhất trong ngành
Đông Nam Á học!
Đối với người
viết bài này,
một điểm yếu của
quyển sách là
những dữ kiện
hay bằng chứng
liên quan đến
các câu chuyện
thần thoại. Tác
giả cố thuyết
phục độc giả
bằng cách tŕnh
bày mối tương
quan giữa các
nền văn hóa bằng
những câu chuyện
thần thoại có
motif giống
nhau, để từ đó
chứng minh cho
thuyết của ông
(tức là văn minh
nhân loại xuất
phát từ Đông Nam
Á). Tác giả thậm
chí c̣n dùng
thống kê học để
thẩm định mối
tương quan này!
Tuy nhiên, tôi
vẫn cảm thấy
những dữ kiện
như thế có vẻ
hời hợt, và
thiếu tính
thuyết phục cao.
Đành rằng, nhiều
nền văn hóa, và
đặc biệt là
những văn hóa
thuộc vùng Á
châu - Thái b́nh
dương, có nhiều
truyện thần
thoại giống
nhau, hay ít ra
là song song
nhau về lụt lội.
Đây không phải
là những sự ám
chỉ tối tăm đến
những sự kiện
mang tính Freud
trong tiềm thức
nhưng là những
sử kiện rơ rệt
liên đới đến
những thảm họa
khi mực nước
biển dâng cao
sau thời đại
Băng hà. Nhưng
phương pháp xác
định nguồn gốc
của những câu
chuyện thần
thoại này là một
vấn đề.
Tuy nhiên, giữ
cái điểm yếu đó
trong khi đọc
sách, tôi vẫn
phải công nhận
tác giả đă khảo
cứu rất cẩn
thận, tiếp thu
và xử lư tài
liệu rất chuyên
môn. Thêm vào đó
là lối hành văn
trong sáng, và
lư luận vững
vàng, tác giả đă
làm cho chúng ta
phải suy nghĩ
lại về nguồn gốc
tổ tiên và văn
minh của nhân
loại ngày nay.
Chúng ta cần
nhiều tác phẩm
loại này hơn nữa
trong lĩnh vực
khảo cổ học để
cho thấy rằng tổ
tiên chúng ta
không chỉ sáng
tạo ra địa cảnh
(hay hải cảnh)
mà chúng ta đang
sống, nhưng địa
cảnh và hải cảnh
cũng tạo ra
chúng ta.
Tóm lại, nhiều
khám phá khảo cổ
học mới đây, và
nhất là cuốn
sách Eden in the
East, đă nhanh
chóng đưa vùng
đất bị lăng quên
của Đông Nam Á
vào một nơi
trang trọng của
bản đồ thế giới,
và là cái nôi
của văn minh
nhân loại ngày
nay. Và qua
những khám phá
này, chúng ta đă
có dữ kiện để
đặt lại vấn đề
nguồn gốc dân
tộc và văn minh
Việt Nam, chất
vấn những thuyết
mà ta từng được
dạy và từng tin
như là những
chân lư. Chúng
ta có bằng chứng
để phát biểu
rằng trước khi
tiếp xúc với
người Hán từ
phương bắn
(Trung Quốc)
đến, tổ tiên
chúng ta đă tạo
dựng nên một nền
văn minh khá
cao, nếu không
muốn nói là cao
nhất trong vùng
Đông Nam Á. Đô
thị cổ xưa nhất
trong vùng là do
tiền nhân của
chúng ta xây
dựng. Tổ tiên
chúng ta là
những nhà kỹ
thuật giỏi, đă
biết sản xuất vũ
khí để đánh
giặc, đă đúc
được những trống
đồng tinh xảo để
truyền lại những
ư tưởng và triết
lư cho hậu duệ,
và cũng có thể
nói họ cũng là
những nghệ sĩ
tài ba, ham
thích múa hát và
thổi kèn. Tổ
tiên chúng ta đă
phát triển và
ứng dụng kỹ
thuật trồng lúa
trước người Hán,
hay là những
người thầy dạy
cho người Hán
trồng lúa (chứ
không phải ngược
lại.) Và có thể
tổ tiên chúng ta
cũng chính là tổ
tiên của người
Trung Quốc ngày
nay. Đă đến lúc
phải trả lại sự
thực và danh dự
cho tổ tiên
chúng ta.
Nguyễn Văn
Tuấn
-------------------------
Chú thích:
- Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25, Đào Duy Anh viết: "Nay ta hăy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân tộc ta như thế nào. Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc Việt. Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có điều rất kỹ càng th́ tổ tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt. Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời th́ ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng măi sang Nam Dương quần đảo, c̣n một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc th́ hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam."
- Trong Việt Nam Sử Lược (Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sàig̣n, 1971), ở trang 5, Trần Trọng Kim viết: "Theo ư kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, th́ người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; c̣n người Thái th́ họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm la (tức là Thái Lan) và các nước Lào.
- Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.
- Những ư kiến ấy là theo lư mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái ǵ làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, th́ tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu."
- Trong Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001), ở trang 122, Nguyễn Gia Kiểng viết: " … cuộc Nam tiến của người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây th́ khựng lại v́ gặp bức tường núi gần 100 cây số. Chỉ có một số ít người vượt được núi, hợp với thổ dân mà tạo ra nước Văn Lang."
- Sách Hậu Hán thư (tức sử của Trung Quốc) chép: "Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đă đặt quận, huyện, nhập vào lănh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau, phải có thông ngôn mới hiểu. Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo. Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ. Đến thời Quang Vũ Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cử Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …"
- Trong một cuốn băng video ca nhạc mang tựa đề "Cây đa, bến cũ" do Trung tâm Thúy Nga thực hiện và phát hành, người diễn đọc (Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn) lập lại câu văn của Hậu hán thư và phát biểu rằng Quan thái thú Nhâm Diên là người đă dạy cho dân Việt Nam cách trồng lúa.
- Trích Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001) của Nguyễn Gia Kiểng, trang 306.
- Về các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) "On the improbability of Austronesian origins in South China," của Giáo sư William Meacham, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) "The nusantao and North-South dispersals," của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong "Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin," quyển 2, năm 1996; (iii) "Southeast Asia and Korea: from the beginings of food production to the first states," cũng của Giáo sư Solheim II, in trong "The History of Humanity: scientific and cultural development," quyển I: "Prehistory and the Beginning of Civilization," do UNESCO/Routledge (London) xuất bản năm 1994. Ngoài ra, độc giả có thể tham khảo thêm các bài báo tiếng Việt liên quan đến đề tài này của Tác giả Cung Đ́nh Thanh trên Tạp san Tư Tưởng số 3, 4, và 7.
- Sách "Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ 13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang bảng danh mục, chữ loại nhỏ (Times cỡ 8). Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 sterling Anh.
- Theo sách Genesis, và theo truyền thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất. Huyền thoại về lụt nổi tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được của Thượng đế, xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là Ark để gia đ́nh ông ta và mọi sinh vật có thể sống sót qua cơn lụt.
- "Mực nước biển" là một thuật ngữ dùng để diễn tả chiều cao trung b́nh của biển. Mực nước biển thường biến đổi qua nhiều giai đoạn trong lịch sử trái đất. Trong thời gian vài ngh́n năm trước đây, mực nước biển có khi cao hơn, nhưng cũng có khi thấp hơn, mực nước hiện nay. Khi mực nước biển trung b́nh dâng lên cao, một số vùng đất hiện hữu ngày nay trong quá khứ hoàn toàn bị ngập lụt, tạo nên những vùng biển rộng và cạn. Ngày nay, hơn phân nửa nhân loại sống trong những vùng đất mà độ cao so với mực nước biển chỉ dưới 100 thước. Trong phạm vi tranh luận về hiện tượng nóng toàn cầu (global warming) ngày nay, người ta cho rằng nếu mực nước biển chỉ tăng khoảng một thước th́ một thảm họa vĩ đại sẽ xảy ra cho các nước như Bangladesh, hay Phần Lan. Người Maledives sẽ hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ nếu mực nước biển tăng vài ba thước. Nhưng quan trọng hơn nữa, đối với đa số các thành phố lớn và đông dân như Tokyo, Thượng Hải, Kolkata, Mumbai, London, New York, Los Angeles … (những thành phố chỉ nằm trên mực nước biển), nếu nước biển dâng lên 100 thước, các nơi này sẽ thành một lục địa dưới ḷng biển, một Atlantis thật sự. Bởi thế, không có ǵ là gượng gạo khi chúng ta giả định rằng có nhiều trung tâm dân số và văn hóa khoảng 10,000 hay 15,000 năm về trước, nay đă trở thành những vùng dưới biển trên thềm lục địa phía ngoài vùng duyên hải của chúng ta.
- Về các phân tích di truyền học, có thể tham khảo các bài báo khoa học sau đây: (i) "Genetic relationship of populations in China", của Bài báo của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp thuộc Trường Đại học Texas, đăng trên Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768; (ii) "Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Đông Nam Á," của Nguyễn Đức Hiệp, đăng trên Tạp san Tư Tưởng, số 7, năm 2000, trang 9-13; (iii) “Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into Eastern Asia during the last Ice age” của B. Su và đồng nghiệp, đăng trên Tạp san American Journal of Human Genetics, năm 1999, số 65, trang 1718-1724.
Nguồn: SGGD