Thời đại
Hùng
Vương là thời đại mở
đầu rực rỡ của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách đây hàng ngàn năm, cha ông ta
đã kiên cường, dũng cảm, khai sơn, phá thạch, cùng nhau gây dựng nên bờ cõi,
non sông đất nước, lập nên một quốc gia độc lập, có chủ quyền đầu tiên của
người Việt. Các Vua Hùng
từ đời này qua đời khác, đã xây dựng nên nước Văn Lang với nền văn minh lúa
nước, đem lại cuộc
sống ấm no cho nhân dân, tạo tiền đề phát triển đất nước với nền văn hóa
đồng thau Đông Sơn và một
truyền thống nghệ thuật phong phú, độc đáo. Từ đó, đất Tổ
Hùng
Vương đã trở thành
cội nguồn dân tộc, nơi đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ và vững bền
của dân tộc Việt Nam.
Cho đến nay,
các nhà nghiên cứu đã sưu tầm được một kho tàng
Truyền
thuyết
Hùng
Vương khá dày và
phong phú với truyền
thuyết về Sơn Tinh -
Thuỷ Tinh, về Thánh Gióng, về Chử Đồng Tử - Tiên Dung, về sự tích Trầu - Cau...
Đây không hẳn là những hư cấu ly kỳ thần thoại trong giai đoạn đầu tiên của
dân tộc mà nó chính là bóng dáng đậm nét của một chặng đường lịch sử mà tổ
tiên ta đã trải qua và tạo dựng nên. Trong đó, những
truyền
thuyết gắn liền với
mùa xuân dựng nước của dân tộc có một ý nghĩa độc đáo. Chúng ta ai cũng biết
rằng: Việt Nam là một nước nông nghiệp, mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm
làm ăn, một năm lao động sản xuất trên đồng ruộng với những công việc như
trồng cây, gieo hạt, bứng gốc, chiết cành... Tổ tiên ta cũng vậy, ngay từ
buổi khởi nghiệp, các vua
Hùng đã lấy việc trồng cây lương thực làm công việc quan trọng đầu xuân.
Truyền
thuyết "Vua
Hùng trồng kê ra lúa"
còn kể lại: "Một
hôm các con gái vua Hùng
theo dân đi đánh cá ven sông thấy từng đàn chim bay lượn khắp bãi, nhảy nhót
trong đám lau cỏ, khiến các nàng rất vui thích. Có một nàng công chúa, mải
ngắm đàn chim, dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi
trên mái tóc. Công chúa mang bông kê về trình với Vua, Vua mừng, cho là điềm
tốt lành, hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo các Mỵ nương
ra bãi tuốt các bông đó đem về.
Tới
mùa xuân, Vua đem các hạt kê ra và phái các công chúa gọi dân đi quải. Nhân
dân vui mừng rước Vua ra đồng. Trống mõ đi đầu rồi tới người rước lúa, rước
kê. Tới bên sông, Vua xuống bãi lấy que nhọn chọc đất tra lúa và gieo kê
trên bãi. Làm xong, Vua cắm một cành tre để chim sợ khỏi ăn hạt. Các Mỵ
nương và dân đều làm theo".
Truyền
thuyết này cùng với
truyền
thuyết "Vua
Hùng dạy dân cấy lúa"
đã chứng tỏ rằng ngay từ ban mai lịch sử, ông cha ta đã biết phát hiện ra
những cách làm ăn mới phù hợp với vùng đất mình cư trú.
Truyền
thuyết "Vua
Hùng dạy dân cấy lúa"
kể rằng: "Thuở xưa, nhân dân chưa biết cày cấy làm ra thóc gạo mà ăn,
chỉ sống bằng thịt thú rừng, rễ cây, quả cây và các loại rau dại, lúa hoang
nhặt được. Các vùng đất ven sông hàng năm được phù sa bồi thêm màu mỡ. Vua
Hùng thấy đất ấy tốt
mới gọi dân đến bảo tìm cách đắp bờ giữ nước. Vua thấy lúa mọc hoang nhiều
mới bày cách cho dân gỡ hạt, gieo mạ. Khi mạ lên xanh thì đem cấy vào các
tràn ruộng có nước.
Lúc
đầu dân không biết cấy, tìm hỏi Vua. Vua
Hùng nhổ cây mạ lên,
đem tới ruộng nước, lội xuống cấy cho dân xem. Mọi người làm theo, cấy tới
khi mặt trời đứng bóng, Vua cùng mọi người lên gốc đa lớn nghỉ ngơi ăn uống".
Mùa xuân của thời Hùng
Vương là mùa xuân
lao động với điểm khởi đầu là một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước sơ khai.
Hình ảnh một ông Vua lội xuống bãi, xuống ruộng mà cấy lúa với dân "đến
khi mặt trời đứng bóng mới nghỉ tay" như
truyền
thuyết đã ghi thì quả
là hiếm thấy trong lịch sử các dân tộc. Tục
truyền rằng xã Minh
Nông, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ ngày nay chính là nơi Vua
Hùng dạy dân cấy lúa.
Xã này ngày trước có tên tục là Kẻ Lú. Hàng năm có lệ đến đầu mùa cấy, người
dân đều làm lễ tế Vua
Hùng. Trước đó xã cử một cụ già lội xuống ruộng cấy trước bốn cây mạ rồi
mới làm lễ tế Vua, như vậy là để tái hiện
lại hình ảnh Vua
Hùng thuở xưa.
Ngay từ
trước khi nhà nước Văn Lang ra đời với 18 đời Vua
Hùng nối tiếp nhau,
những cư dân nguyên thuỷ đã biết đến vai trò của thóc lúa. Những hạt thóc cổ
tìm thấy trong tầng văn hoá tại di tích Đồng Đậu ở Phú Thọ và sau này là
những vỏ trấu đã cháy thành than phát hiện được ở di chỉ Làng Cả, thành phố
Việt Trì đã khẳng định sự gắn bó với nông nghiệp của người Việt cổ. Và có
thể nói, đến thời Hùng
Vương với nước
Văn Lang thuở ấy, thông qua những
truyền
thuyết trên, chúng ta
thấy lao động nông nghiệp được thực sự tôn trọng và khuyến khích, đúng như
câu tục ngữ ngàn đời nay vẫn ghi "Dĩ nông vi bản". Nền văn
minh sông Hồng và nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước cũng đã xuất phát
từ đấy.
Trên đỉnh
núi Hùng còn gọi là
núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét so với mặt biển, xa xưa, trước khi thờ
Hùng
Vương, đây là nơi thờ
các thần tự nhiên. Đến nay, tại Đền Thượng vẫn còn có tên gọi là Kính Thiên
Lĩnh Điện (tức điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Đồng bào địa phương vẫn
kể rằng, trước đây, gần một thế kỷ, Đền Thượng vẫn còn thờ hạt lúa thần. Đó
là hình tượng một hạt thóc bằng đá to như cái thuyền. Tục
truyền rằng,
Hùng
Vương và các quan
tướng thường đến đây làm lễ tế trời, thờ thần lúa, cầu mong cho giống nòi
sinh sôi nảy nở, mùa màng tốt tươi. Đến nay, tục "Chọc lỗ tra lúa và
gieo kê trên bãi ướt" vẫn còn tồn tại ở một số nơi thuộc vùng Lâm
Thao. Và giờ đây, nếu ai có dịp đến xã Minh Nông, thành phố Việt Trì, ghé
qua chợ Lú vẫn có thể bắt gặp không khí nhộn nhịp, náo nức của những người
bán thóc, gạo đông đúc ở đây. Gắn liền với
truyền
thuyết "Vua
Hùng dạy dân cấy lúa",
chợ Lú bao đời nay vẫn là nơi buôn bán, trao đổi thóc gạo sầm uất có tiếng
trong vùng. Như vậy, bắt đầu vào thời các vua
Hùng cho đến ngày
nay, lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, được gieo trồng trên khắp đồng
ruộng nước ta. Với những chứng cứ mà các nhà khảo cổ học, dân tộc học và sử
học thu lượm được đã cho biết, nghề nông với đúng nghĩa của từ này, vào thời
các vua Hùng đã là
nghề sinh sống chủ yếu của cư dân Việt cổ. Chỉ như vậy thôi đã có thể thấy
được rằng trạng thái kinh tế từ thời các
Hùng
Vương trên cơ bản đã
thay đổi hẳn, khác về chất so với trước kia, đánh dấu thời kỳ mà con người
vĩnh viễn thoát khỏi sự khống chế của tự nhiên. Và với lao động sáng tạo của
mình, người dân thời đại
Hùng Vương đã tạo
ra nhiều của cải thoả mãn nhu cầu sống ngày càng tăng của chính mình. Đây
chính là sự phát triển nền văn minh lúa nước của người Việt cổ mà
truyền thống và mọi
biểu hiện của nó dường như còn mãi đến ngày nay. Cùng với sự phát triển của
nông nghiệp, thời đại
Hùng Vương còn
được đánh dấu bằng sự thăng hoa của những công cụ đồng thau, dấu ấn của nền
văn hoá Đông Sơn rực rỡ trên đất nước Việt Nam. Nhờ những công cụ bằng đồng,
nhất là lưỡi cày đồng, nghề trồng lúa ở thời kỳ này đã chuyển sang bước
ngoặt mới, đó là thời kỳ định cư và mở mang diện tích canh tác. Cư dân Lạc
Việt lúc này đã thuần hoá được lúa nếp, lúa tẻ, các loại rau đậu, thuần hoá
được một số loài gia súc để nuôi như lợn, chó, gà, trâu, bò... Từ sự vươn
mình của hạt lúa Việt trên những thửa ruộng Lạc ngày ấy, kho tàng
truyền
thuyết
Hùng
Vương
lại được bổ sung
những câu chuyện mới.
Trong hành
trình lên Đền Hùng
mỗi dịp Giỗ Tổ, ai cũng có một lần dừng chân ở Đền Trung trên núi Nghĩa Lĩnh,
nơi này hơn 2000 năm trước là nơi dựng quán nghỉ ngơi ngắm cảnh của Vua
Hùng, đôi khi họp bàn
việc nước cơ mật với Lạc hầu, Lạc tướng. Sau thời
Hùng
Vương, nhân dân lập
miếu thờ các Vua Hùng
gọi là "Hùng
Vương tổ miếu"
ở đây. Tương truyền
đây cũng là nơi Hoàng tử Lang Liêu dâng bánh dày, bánh chưng lên cho vua cha
trong dịp thử tài
thuở trước. Truyền
thuyết "Bánh
chưng, bánh dày" kể rằng: "Sau khi đánh bại giặc Ân Vua
Hùng thứ 6 đã già,
muốn được nghỉ ngơi, bèn có ý định
truyền ngôi cho một
trong 24 người con trai. Ngài xuống Chiếu cho các hoàng tử mỗi người kiếm
một lễ vật quý nhất để dâng lên tổ tiên. Lễ vật của ai tỏ được lòng hiếu
thảo thì sẽ được truyền
ngôi. 23 người anh sai người đi khắp nơi, tranh nhau tìm sơn hào hải vị.
Riêng vợ chồng Hoàng tử thứ 18 là Lang Liêu nghèo khó, không làm được như
vậy nên rất buồn. Trong khi vợ chồng Lang Liêu không biết lấy lễ vật gì để
dâng tổ tiên thì trong giấc mơ, có bà tiên đã mách bảo rằng: "Các vật trên
trời đất và mọi của quý của người không gì quý bằng gạo. Gạo có thể nuôi
người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được.
Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình
trời đất, rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh
thành lớn lao của cha mẹ". Vợ chồng Lang Liêu nghe lời đã dùng gạo nếp để
làm bánh dày và bánh chưng, tượng trưng cho trời tròn đất vuông. Vua
Hùng ngợi khen là "bánh
thì ngon, ý thì hay". Vua rất hài lòng với món lễ vật của con út và đã
truyền ngôi cho chàng,
Lang Liêu trở thành Hùng
Vương thứ 7. Đến
ngày Tết, Vua thường lấy bánh này dâng cúng cha mẹ". Đền Trung với
sự tích Lang Liêu làm bánh chưng, bánh dày đã giải thích quan niệm trời tròn
đất vuông cùng tục nấu bánh chưng của nguời Việt vào các dịp Tết.
Truyền
thuyết ấy đã được kể
từ thế hệ này sang thế hệ khác,
truyền mãi đến nay,
qua biết bao thời gian mà vẫn giữ đựợc tính triết lý sâu sắc của người dân
Việt cổ xưa...
Mỗi khi Tết
đến, xuân về, dù mọi nhà đều tất bật sắm sửa, lo toan cho một cái Tết đủ đầy,
nhưng không ai quên việc chuẩn bị ít nhất là một cặp bánh chưng để đặt lên
bàn thờ cúng tổ tiên. Nói đến bánh chưng xanh ngày Tết, hầu như người Việt
Nam nào cũng biết câu chuyện cảm động về chàng Lang Liêu hiếu thảo qua
truyền
thuyết "Bánh
chưng bánh dày". Từ đó, người Việt ở khắp các nơi, mỗi khi có tế lễ,
hội hè, nhất là vào dịp Tết đều có phong tục giã bánh dày, gói bánh chưng để
cúng tổ tiên. Trong mâm cỗ đón xuân ngày nay, khi nhìn những chiếc bánh
chưng xanh vuông vắn ta
lại nhớ đến Lang Liêu thuở trước. Mâm cỗ mừng thọ Vua
Hùng ngày ấy chính là
những cặp bánh chưng như thế. Tổ tiên ta đã biết quý trọng từng giọt mồ hôi
của mình đổ ra trên nương bãi, chắt góp nó
lại để tạo ra hạt gạo
trắng, chiếc bánh thơm dùng để liên hoan trong ngày xuân mới.
Do đời sống
và kinh tế phát triển, dân cư thời
Hùng
Vương đã có những lễ
hội và sinh hoạt văn hoá cộng đồng rất phong phú. Vào những ngày xuân lịch
sử, cha ông ta có những sinh hoạt văn hóa như lễ hội hoá trang, đua thuyền,
tục đâm trâu, giã cối... mà dấu ấn vẫn còn ghi đậm cho đến tận bây giờ. Nếu
như người dân Kinh Bắc tự hào về những làn điệu dân ca quan họ, thì hát Xoan,
hát Ghẹo của đất tổ Phong Châu cũng rất nổi tiếng. Theo các nhà nghiên cứu,
hát Xoan chính là một làn điệu dân ca có từ lâu đời. Hát Xoan chính là hát
Xuân, hát vào mùa Xuân. Gốc tích của nó có từ thời dựng nước.
Truyền
thuyết dân gian cho
hay: "Ngày ấy vợ Vua
Hùng mang thai đã lâu,
tới ngày sinh nở, đau bụng mãi mà không sinh được. Có một người hầu gái tâu
rằng: Có một người con gái đẹp tên là Quế Hoa, múa giỏi hát hay, ở trong một
làng tre xanh gần thành Phong Châu. Nếu đón nàng về múa hát có thể làm cho
đỡ đau và sinh nở được. Vợ vua nghe lời, Quế Hoa vâng theo lời triệu đến
chầu vợ Vua. Bấy giờ bà đang lên cơn đau dữ dội. Quế Hoa đứng bên giường múa
hát. Nàng đẹp lắm: môi đỏ, mắt đen, tóc dài, da trắng, giọng hát trong vắt
khi trầm, khi bổng như chim ca, suối chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như
tơ, chân dẻo như bún, ai cũng phải mê. Vợ Vua
Hùng mải xem múa hát,
không thấy đau nữa liền sinh được ba người con trai khôi ngô, tuấn tú. Vua
hết sức vui mừng và khen ngợi Quế Hoa, liền
truyền cho các Mỵ
nương học lấy các điệu múa hát ấy. Vì lúc này nàng Quế Hoa hát chầu Vợ Vua
là vào mùa xuân nên các Mỵ nương gọi hát ấy là hát Xuân (hay hát Xoan)".
Sự tích hát Xoan còn được ghi
lại trong chuyện kể
nối đời của dân làng Cao Mại - Việt Trì với một vài chi tiết khác. Tuy nhiên,
thông qua những truyền
thuyết này, chúng
ta cũng có thể hình dung được phần nào sinh hoạt múa hát đầu xuân của tổ
tiên ta. Những "Sinh hoạt văn hoá cơ sở" ấy qua thời gian và
sáng tạo, nhận thức thẩm mỹ của con người đã được trau chuốt thêm, làm giàu
thêm để ngày hôm nay có được một làn điệu dân ca mà cả nước biết đến.
Phân tích
của Tiến sỹ Bùi Anh Tuấn, Phó Giám đốc Bảo tàng Phú Thọ về Hát Xoan :
"Hát Xoan chính là hát vào mùa xuân vì chữ Xoan chính là
đọc chệch của chữ
Xuân mà ra... Hát Xoan ra đời rất sớm, đặc biệt là hát Xoan ở vùng Kim Đức
được coi là vùng đất gốc, hát Xoan gốc của cả nước vì ở đây có 4 làng chính:
Kim Đức, Kim Đới, Thét, An Thái. Đây là điệu hát tương
truyền có từ thời
Hùng
Vương, trong khắp cả
vùng đều nói đến truyền
thuyết này... Các
nhà nghiên cứu văn hoá dân gian cũng như những nhà sử học đánh giá rất cao
hát Xoan... Người ta cho rằng hát Xoan có những tầng văn hóa cổ nhất vì qua
nghiên cứu ngôn ngữ, nhiều nhà ngôn ngữ cho rằng một số những từ ngữ trong
hát xoan còn giữ lại
được những âm điệu rất cổ mà nhiều người cho rằng ở đó có những ngôn ngữ có
từ thời Hùng
Vương".
Đến làng
Trẹo (xã Hy Cương, giáp chân núi Nghĩa Lĩnh), chúng ta còn được nghe các cụ
già kể lại tục cầu
hèm gọi là: "Rước chúa trai, chúa gái" và trò "Bách nghệ
khôi hài", một trò vui đầu xuân có gốc từ thời
Hùng
Vương. Chuyện kể rằng:
Mỵ nương Ngọc Hoa sau khi lấy Sơn Tinh, ở núi Tản được ít lâu thì về với bố
mẹ ở thành Phong Châu. Ba năm sau vẫn chưa trở
lại với chồng, Tản
Viên phải về thành Phong Châu xin vua cha cho đón nàng về.
Ngọc
Hoa ra khỏi cung điện, tới làng Trẹo thì nhất định không chịu đi nữa, Tản
Viên dỗ thế nào cũng không nghe, chỉ cúi đầu, nước mắt chảy ướt má. Ngọc Hoa
nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ nơi nàng đã sống không nỡ rời. Tản Viên không biết làm
thế nào, mới vào trong thôn tìm người giúp. Dân làng mừng rỡ ra đón Ngọc Hoa,
bấy giờ mọi người bầy ra các trò vui, để Ngọc Hoa nguôi lòng thương nhớ.
Người thì múa nhảy, người kể chuyện cười. Các cô gái hát với trai làng. Công
chúa vui vẻ cười và hát theo, mọi người rước Ngọc Hoa lên kiệu. Đám rước có
người già làm kẻ đánh cá, đi săn,
lại mang những dụng
cụ nhà nông đã hư hỏng, vừa đi vừa nói những câu bông lơn cho công chúa cười.
Ngọc Hoa trong lòng vui vẻ cùng với Tản Viên trở về quê chồng..."
Nhà nghiên
cứu Nguyễn Khắc Xương phân tích về trò bách nghệ khôi hài: "Nghi lễ
rước thần lúa hay kèm theo trò bách nghệ khôi hài. Đây là một hình thức phối
kết hợp giữa 2 nghi lễ: nông nghiệp, rước lúa và nghi lễ rước dâu... Nhưng
tại sao lại kết hợp 2
điều này, đó là cái chất hài của anh nông dân".
Hội lễ là
một phần trong cuộc sống của người dân Lạc Việt hàng nghìn năm trước, nói
cách khác, sinh hoạt văn hóa tinh thần của thời
Hùng
Vương được biểu hiện
tập trung trong các dịp hội lễ, nhất là trong dịp hội mùa của cư dân nông
nghiệp. Qua nghệ thuật tạo hình Đông Sơn kết hợp với tư liệu lịch sử và dân
tộc học, chúng ta có thể hình dung: Vào những ngày hội lễ, trong âm thanh
hòa tấu rộn ràng của những dàn trống đồng, dàn chiêng cồng, của tiếng khèn,
tiếng nhạc, tiếng sênh phách, dân làng ca hát, nhảy múa vui chơi và tiến
hành các lễ nghi nông nghiệp cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi,
sinh sản thịnh vượng. Trong đó đáng chú ý nhất là tục lệ đánh trống đồng:
hoặc do một nguời đánh hoặc hòa tấu từng cặp trống đực cái, người đánh trống
bận lễ phục hình chim ở tư thế ngồi hay đứng... Ngoài ra, còn có những hình
thức múa hát giao duyên nam nữ như Hội giã cối: từng đôi nam nữ cầm chày dài
giã cối tròn tạo nên hình ảnh tượng trưng cho sự tín ngưỡng phồn thực.
Lại có cảnh đua
thuyền trên sông nước với những chiếc thuyền độc mộc mình thon, mũi cong,
đuôi én. Mọi sinh hoạt trên đều gắn với điều cầu mong thiết thực của cuộc
sống như mong mưa thuận, gió hòa, mong được mùa, mong sinh sản được nhiều.
Bản Ngọc phả
cổ truyền 18 đời Vua
Hùng hiển thánh được
lưu giữ tại Bảo tàng Hùng
Vương được viết
năm Hồng Đức nguyên niên 1470 còn ghi "... Từ nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý,
nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức hậu Lê vẫn cùng hương khói
trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái
để tưởng nhớ công ơn gây dựng nước nhà của các đấng Thánh Tổ ngày xưa..."
Sau hàng
trăm nghìn năm gian khổ lao động và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá cũ
thô sơ tiến đến sự phát minh ra kỹ thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa
nước, đời sống vật chất và tinh thần của con người nguyên thủy Việt Nam ngày
càng được nâng cao, đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong lịch sử xã
hội Việt Nam, mở ra một thời đại mới, thời đại dựng nước. Qua những
truyền
thuyết kể trên, có
thể thấy thời đại Hùng
Vương với những
mùa xuân vui tươi, tràn đầy niềm lạc quan và hy vọng đã xác lập được một lối
sống Việt Nam, một truyền
thống Việt Nam, đặt cơ sở vững vàng cho toàn bộ sự tồn tại và phát triển của
quốc gia - dân tộc Việt Nam sau này. Hoà mình vào mùa xuân mới của đất nước,
của dân tộc trong thế kỷ mới, Phú Thọ hôm nay cũng đang gìn giữ, lưu
truyền trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mình những
truyền
thuyết, những cổ tích
thần thoại và những loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc để tạo nên một đời
sống tinh thần phong phú của người dân đất Tổ. Tiếp tục công cuộc dựng nước
và giữ nước của các Vua
Hùng, Phú Thọ chào đón mùa Xuân bằng Tết trồng cây, bằng ngày hội xuống
đồng... và tiếng hát Xoan của nàng Quế Hoa, của các Mỵ nương thuở nào nay
lại được các chàng
trai, cô gái cất lên tươi mát, mượt mà, đầm ấm trong những dịp lễ hội ngày
xuân. Sống trên vùng đất cội nguồn, kế thừa những
truyền thống tốt đẹp
của tổ tiên để lại,
Phú Thọ đang tiếp nối những nét đẹp của thời dựng nước trong quá trình đổi
mới và phát triển của vùng đất Tổ ngày hôm nay. Nhất là khi hành trình ấy
được soi rọi bằng ánh sáng trí tuệ - đoàn kết - dân chủ và đổi mới, bằng nội
lực mạnh mẽ của đất nước và nhân dân để tiếp tục tiến nhanh trong thế kỷ 21.
Thời đại Hùng
Vương với những thành
quả dựng nước và giữ nước ban đầu, với nền văn minh sông Hồng rực rỡ đã
khẳng định vị trí của nó trong lịch sử dân tộc như một kỷ nguyên: Kỷ
nguyên mở đầu sự nghiệp dựng nước và giữ nước, kỷ nguyên văn minh đầu tiên
của dân tộc. Đây là một thời đại để
lại dấu ấn rất sâu
đậm trong ký ức của nhân dân Việt Nam với bao huyền thoại và
truyền
thuyết lưu
truyền rộng rãi trong
dân gian từ đời này sang đời khác.
Một mùa xuân
mới lại về, đón mùa
xuân mới, con người Việt Nam hôm nay đang tràn đầy tin tưởng và quyết tâm
phấn đấu, góp phần xây dựng đất nước mãi mãi là mùa xuân tươi đẹp của mọi
người, mọi nhà từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân đã được khởi nguồn
từ thời Hùng
Vương dựng nước. Tìm
hiểu, nghiên cứu truyền
thuyết thời Vua
Hùng, chúng ta càng
thấy yêu, thấy quý mùa xuân đất nước. Hàng ngàn năm đã qua đi, nhưng những
cái "chất" quý giá của tổ tiên ta không hề rơi rụng trong các
thế hệ nối tiếp. Từ thời đại
Hùng
Vương - thời đại mở
đầu rực rỡ của dân tộc Việt Nam đến ngày nay rực sáng chiến công, người dân
Việt Nam, những con Lạc, cháu Hồng, đời nọ nối tiếp đời kia đang ngày càng
phát triển, nối dài theo sự trường tồn lịch sử.
Vũ Anh
Phong