Nguồn gốc Việt
(Nam) của tên 12 con giáp:
Dần- dẫn-kính-*kễnh (9A)
Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
- Phần
này bổ túc cho bài viết "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con
giáp : Dần-kính-*kễnh (9)" nên mang số thứ tự 9A, tương tự
như loạt bài viết về "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con
giáp - Măo Mẹo mèo" gồm có các phần 4 (phần chính), 4A và 4B
... để tránh các bài viết trở thành quá dài và càng khó đọc
hơn nữa! Sau khi đă đi ngược ḍng thời gian t́m các cách
viết/khắc cổ của Dần trong văn hoá Trung Quốc (triện văn,
kim văn và giáp cốt văn) để thấy rằng chúng hoàn toàn không
liên hệ ǵ đến loài cọp hay hổ; Và rồi xem qua những dấu vết
ngữ âm th́ có triển vọng hơn và đưa ta đến gần hơn các dạng
của cọp là khan, khai và kễnh. Các dữ kiện ngôn ngữ sau đây
được ghi nhận và tóm tắt lại cho thấy khả năng âm Dần Hán
Việt/HV yín Bắc Kinh/BK có nguồn gốc phương Nam hay tiếng
Việt Cổ là kễnh. Không nên lầm giữa chỉ số ghi thanh điệu (đứng
sau âm chính) và số ghi thứ tự và phụ chú. Để bài viết gọn
và dễ hiểu hơn, người viết tránh dùng các thuật ngữ về ngôn
ngữ học và không trích dẫn các nguồn dễ tra cứu - thí dụ như
tiếng Thái, Anh, Pháp ...v.v... Trừ các nguồn tài liệu quan
trọng và liên hệ trực tiếp đến bài viết.
- Các hiện tượng đáng được nhắc lại ở đây là
- - hiện tượng nhập ngược (back loan, cho mượn lại)
không phải là hiếm khi các nền văn hoá chung đụng với nhau
qua một thời gian dài như Hán và Việt chẳng hạn. Cách dùng
Bụt hay Phật và trường hợp tên gọi 12 con giáp là những
thí dụ cụ thể minh chứng cho hiện tượng nhập ngược này. Cho
nên những từ trước đây thường được cho là Hán Việt/HV như Tư
Sửu Dần Măo ... nên được xem là những từ
Việt-Hán-Hán-Việt hay chúng có gốc Việt Cổ, nhập vào văn
hoá Hán tộc rồi lại nhập ngược vào tiếng Việt. Tương tự như
thế, các từ nguyên tử, điện tử, thị trường ... nên được gọi
là từ Hán-Nhật-Hán-Việt.
- - hiện tượng đổi chữ hay nghĩa, và có lúc đi đến
cực đoan là đào thải như Măo Mẹo mèo đă bị thay bằng thố (thỏ)
của văn hoá du mục; Hay trường hợp của các từ hiệp/hạp (cọp)
䖎, cúc
(cóc) 䗇
– Unicode 45C7, dự/vui (voi)
豫
... đă từng hiện diện trong Thuyết Văn, Ngọc Thiên
... nhưng nay đă bị đào thải. Đây cũng là lợi thế của một
nền văn hoá có sẵn chữ viết như Hán tộc - với truyền thống
chịu khó ‘viết lách’ - và luôn luôn t́m cách thay đổi chữ
viết v́ nhiều lư do khác nhau.
-
- 1. Trong vốn từ Hán Cổ ta thấy có một chữ rất
hiếm (bị đào thải)
- là hiệp
䖎 (Unicode 458E, nghĩa là con cọp/hổ) - giọng BK
là xiá so với giọng Quảng Đông/QĐ haap6 - theo Khang Hy tự
điển/KH
- 《玉篇》音狎。虎也
- << Ngọc Thiên >> âm hiệp . Hổ dă
- Hứa Thận viết về âm hiệp
狎
trong Thuyết Văn Giải Tự/TVGT như sau
- 犬可習也。從犬甲聲
- Khuyển khả tập dă . Ṭng khuyển giáp thanh
- (không thấy chữ hiệp
䖎
là cọp trong triện văn, kim hay giáp văn)
- Dữ kiện quan trọng mà ta có thể lọc ra từ ghi nhận trên
của TVGT là âm tương đương thời Đông Hán của hiệp (hạp) là
giáp hay dạng cổ hơn là *kap
- Cạp (cắn lẫn nhau) c̣n là hoạt động b́nh thường khi các
con cọp họp lại với nhau: ư và âm này rất rơ nét trong chữ *kap
(cọp)1 hay hạp/hiệp (Unicode 271A5) theo KH
- <唐韻>
胡甲切,音狎。虎習搏也。《玉篇》今作狎
- "Đường vận " hồ giáp thiết , âm hiệp . Hổ tập bác dă . "
Ngọc thiên " kim tác hiệp
- Các dạng hiệp HV hay haap6 QĐ hay gab5 Hẹ cũng như cách
đọc giáp của thành phần hài thanh
甲 cho
ta cơ sở để phục nguyên một dạng âm cổ hơn là *kap hay chính
là CỌP tiếng
Việt - so với tiếng Katu (kooq là cọp), tiếng Bahna (cop cop
là con cọp). Các dạng chữ Nôm chỉ cọp dùng bộ khuyển hay bộ
trăi hợp với thanh phù cập
及, cáp
合...
đều hỗ trợ cho nhận xét trên2. Ngoài ra, Ngọc
Thiên ra đời khoảng năm 543 SCN, cho thấy âm này đă có từ
trước thời Đường Tống. Tóm lại dạng *kap hay
CỌP tiếng Việt đă
từng hiện diện trong vốn từ Hán, nhưng không phù hợp với hệ
thống âm thanh phương Bắc nên bị đào thải (vô t́nh hay cố ư)
và thay bằng các dạng hổ
虎
'thích hợp' hơn - cũng như chữ dự
豫
(vui) đă từng có nghĩa là voi (TVGT, tượng chi đại dă) nhưng
nghĩa này đă bị đào thải chỉ c̣n vết tích trong âm đọc vui
mà thôi. ... Nếu tên gọi chi thứ 3 Dần là Hổ, một chữ có gốc
tượng h́nh (con cọp), th́ không ai đặt vấn đề về nguồn gốc
phi-Hán làm ǵ, tuy cũng có thể không đơn giản như thế3.
Nhưng khi có thể t́m ra những tương quan ngữ âm giữa Dần và
*khan hay kinh
獍,
kễnh đều chỉ loài cọp th́ vấn đề truy nguyên có lẽ dễ dàng
hơn phần nào.
-
- 2. Trong vốn từ Hán Cổ có một chữ rất hiếm chỉ
con cọp trắng,
- cọp giân dữ , tiếng gầm4 của cọp, là hạm
䖔
(Unicode 4594) hàn kăn BK - KH ghi là âm hạm
音頷; Mà
hạm 頷
có một dạng cổ hơn là cằm vẫn c̣n dùng trong tiếng Việt. Tập
Vận cũng ghi cách đọc của hạm là hộ cảm thiết (集韻
-戸感切)
mà hộ có âm cổ hơn là cửa - đây là liên hệ lịch đại k/c-h
từng được đi vào chi tiết trong bài viết "Nguồn gốc Việt
(Nam) của tên 12 con giáp - Hợi/Gỏi/cúi (phần 5)". Do đó ta
có cơ sở phục nguyên một dạng âm cổ của hạm
䖔 là
*kam/kham/khan với khả năng
rút gọn phụ âm cuối để cho ra dạng
*khai (như các cặp biển bể, tiền tệ, chun chui, lụn
lụi, toản tỏi, lăn lười, tụm tụ ...). Các dạng khan, khal
đều thấy trong tên 12 con giáp của Thái, Lào và Khme:
- Thái: ปีขาล
bpeeM khaanR (năm Dần) hay
ปีเสือ bpeeM
seuuaR (năm con cọp)
- Khme: khal
- Lào: kane
- Tuy nhiên cọp tiếng Thái là seuuaR
เสือ chứ không
dùng dạng khan. Tiếng Khme bây giờ là kho-la. Tiếng Việt
khái là con cọp so với tiếng
Mường (Bi) khảl như cách
dùng tlu khà chăng lo khảl tẻnh (trâu già chẳng lo hổ
đánh/bắt). Vấn đề trở nên rất thú vị khi tra cứu âm và nghĩa
của khái HV . Chữ khái trong TVGT th́ được dùng trong cụm từ
khảng khái - các từ ghép như vậy có thể là các tiếng song
tiết hay kư âm của một tiếng nước ngoài (như TVGT c̣n ghi
nạo sưu 獿獀
là *a-so hay chó ...)
-
忼慨,壯士不得志也。從心旣聲
- Khảng khái , tráng sĩ bất đắc chí dă . Ṭng tâm khái
thanh
- Ta thấy một nghĩa gốc của khảng khái là phản ứng mạnh
bạo hay không khuất phục (bản chất của tráng sĩ) khi không
đạt được ư muốn - cũng như con cọp khi gầm gừ một cách dữ
tợn chăng? Như tướng cọp hung hăng bất khuất? Với quá tŕnh
nhược hoá k > h , khảng khái có thể biến thành hăng hái ...
Việt Nam Tự Điển (1954) c̣n ghi cách dùng "người ấy có
tính khái; khảng khái, khí khái ". Nếu khái có phần tiêu
cực trong cách dùng tiếng Hán (khái ; bại mạo
慨 :惫貌
theo KH) th́ khái hàm ư tích cực hơn trong tiếng Việt.
Paulus Của trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895) cũng nhận xét
thêm là khái3 chữ Nôm (cọp) dùng khái HV
慨.
Ngoài ra, khăng khăng tiếng Việt cũng hàm nghĩa không khuất
phục, không thay đổi (kiên cường như mănh hổ): khăng chữ Nôm
thường viết bằng chữ khang
康 HV
rất gần với âm *khan/khal như trong cách dùng “giữ khăng
khăng ai nỡ phụ” (Nguyễn Trăi).
- Chữ hạm ở trên có phạm trù nghĩa từ tiếng cọp gầm đến
loài cọp trắng, nhưng cũng có các chữ (tượng thanh) chỉ
tiếng cọp gầm với dạng kăn, kàn, hàn BK như
闞
(khán, hám HV, Unicode 95DE),
㘎
(360E), 㺝(3E9D),
鬫
(9B2B) ... Và các chữ này không c̣n dùng nữa: chúng trở
thành chữ hiếm, tần số dùng rất thấp như chữ hạm/khảm
鬫 có
mặt khoảng 14 lần trong 171894734 chữ đọc được. Các âm trên
đều tương ứng với âm haam3 (giọng Quảng Đông) hay kam3 (Hẹ)
so với các dạng gầm (gừ), hầm (hừ) tiếng Việt. Để ư bây giờ
ở Trung Quốc, những chữ chỉ tiếng gầm của cọp là bào hao
咆哮
(páo xiāo BK), hiệu
唬 xiāo
BK ... là kêu (hiệu) hay gào (hao) rất khác với các dạng
*kan/*khan tượng thanh (nhái lại tiếng thú kêu) từ phương
Nam.
- Với nhiều từ hiện diện trong ngôn ngữ như cọp,
hồm/hùm/hầm, kễnh/kĩnh, khái, ông ba mươi, hổ ... ta thấy
loài này phải rất thân thiết với văn hoá dân tộc theo chiều
dài lịch sử cũng như là bản đồ phân bố dưới đây cho thấy,
tuy số c̣n sống trong môi trường thiên nhiên càng ngày càng
ít đi!
-
- (dựa vào bản đồ trên mạng
http://en.wikipedia.org/wiki/File:Tiger_map.jpg, bấm vào
h́nh để đọc rơ chú thích)
-
- 3. Thời xưa,
- Dần 寅
và dần 夤
dùng như nhau - lại theo TVGT, dần
夤 là
- 恭也,敬惕也
cung dă . kính dịch dă
- Để ư dịch
惕 cũng là kính sợ: cho thấy
nghĩa kính (cung kính) chính là cốt lơi của âm dần - nói
cách khác, ta có cơ sở để thành lập dạng *kính tương đương
với Dần. Từ thời Nhĩ Nhă, dần đă là kính :
《尔雅》寅,敬也
và cách dùng này c̣n thấy TVGT ghi nhận. Không những
thế tên họ quư tộc thời Tần vẫn cho ta vài vết tích của liên
hệ giữa Dần, hổ và kễnh (mà một dạng âm cổ phục nguyên là
*k(i)anh). Thời tiền Hán, tên người có thể dùng tên thú vật
như Mă, Ngưu, Dương5 ... Cha con và anh có tên
khác nhau nhưng ư nghĩa giống nhau như Khánh Dần và Khánh Hổ
chẳng hạn - đây là bằng chứng xưa nhất cho thấy tương quan
giữa Dần và Hổ đă từng hiện diện trong Tả Truyện6;
Tài liệu này kể lại các việc xẩy ra vào thời Xuân Thu nên
c̣n gọi là Xuân Thu Tả Truyện - cho ta thấy liên hệ Dần Hổ
ít nhất đă có mặt trong khoảng thời gian từ năm 722 TCN cho
đến năm 468 TCN. Tuy nhiên một số học giả, như Dương Bá Tuấn
楊伯峻,
lại cho rằng Tả Truyện được hợp soạn sau thời Xuân Thu hay
vào khoảng thời Chiến Quốc, do đó thời điểm ra đời không thể
trước năm 389 TCN được. Thêm vào đó, hổ đă từng là vật
tổ/tô-tem của vài bộ tộc7 (như ở vùng Chiết Giang
chẳng hạn) và do đó âm hổ cũng được dùng làm họ4
vào thời cổ đại. Chính v́ thế mà ta có các biến âm của hổ
như là Ngu 虞
hay Ngô 呉
trong các họ có lâu đời ... Trở lại với họ
Khánh
慶 và
các cách đọc xưa hơn ta thấy
- 《唐韵》丘竟切《集韵》《韵会》《正韵》丘正切
- “Đường Vận” khâu cánh
thiết " Tập vận " " Vận hội " " Chánh vận " khâu chính/chánh
- Đồng thời, ta hăy xem lại chữ kính
獍 một
loài cọp dữ ăn thịt mẹ đẻ - so với kễnh là con cọp trong
tiếng Việt mà chữ Nôm vẫn dùng kính
獍 như
trong cách dùng "kễnh tha con lợn th́ coi trừng trừng"
(Lư hạng ca dao). Âm kính thời Đường có các cách đọc kính là
- 居庆切,音敬
cư khánh thiết , âm kính (cánh)
- Do đó ta có thể thiết lập liên hệ ngữ âm khánh và
kính-kễnh: đây là một trong các lư do h́nh thành loạt bài
viết về chuỗi tương quan Dần-kính-kễnh.
- Có lẽ tương quan giữa phụ âm đầu d- (giọng Nam) của âm
yín BK (dần HV) và phụ âm cuối lưỡi (ṿm) k-/g-/ng- của kễnh
thấy rơ nét khi xem vài chữ hiếm trong vốn từ Hán Cổ. Chữ
dần 䖐
(Unicode 4590) yín BK, viết bằng chữ hổ
虎 hợp
với chữ cân
斤 hài
thanh bên trái - theo KH ghi nhận
- <唐韵>
语斤切,音垠。《说文》虎声也
- "Đường vận " ngữ cân thiết , âm ngân . " Thuyết văn " hổ
thanh dă
- Chữ dần
䖐 đă từng hiện diện trong TVGT thời Đông Hán,
liên hệ trực tiếp đến loài cọp, nhưng cũng phải chịu chung
số phận đào thải như chữ hiệp
䖎
(*kap/CỌP) của phương Nam!
- Chữ kan/ngan
䖗
(Unicode 4597) đọc là yán yàn BK aam4 ngaam4 QĐ cũng cho
thấy phụ âm d- đă từng liên hệ đến loài hổ mạnh (hùng hổ)và
kết quả của quá tŕnh ngạc cứng hoá (palatalisation)8
của phụ âm k- cho ra các dạng d- (y-) và nh- ; Trích KH về
chữ 䖗
- <集韵>
鱼咸切,音嵒。《类篇》雄虎绝有力者。
- "Tập vận " ngư hàm thiết , âm nham . " Loại thiên " hùng
hổ tuyệt hữu lực giả
- Tóm lại ta có khá nhiều dữ kiện về ngữ âm (Hán Cổ, Việt
Cổ) minh chứng tương quan Dần và kễnh (loài cọp dữ), do đó
có thêm cơ sở để kết luận khả năng tên gọi 12 con giáp có
nguồn gốc là tiếng Việt Cổ. Chỉ dựa vào ngôn ngữ Hán tộc, ta
không thể nào t́m ra được tương quan giữa các chữ/âm Tư Sửu
Dần ... với tên gọi các loài này một cách thuyết phục; Cũng
như nhiều công tŕnh khảo cứu của các học giả Trung Quốc chỉ
dẫn đến một số kết luận mơ hồ là '... có lẽ 12 con giáp nhập
vào TQ từ một dân tộc thiểu số nào đó ở Hoa Hạ hay phương
Bắc (Triệu Dực) …’ hay từ phương Tây/Babylon (Quách Mạt
Nhược) ...!
-
- 4. Phụ chú và phê b́nh thêm
- Để cho liên tục, người đọc nên tham khảo thêm bài viết
"Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp : Dần-kính-*kễnh
(9)" - các bài liên hệ có thể t́m thấy trên mạng
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/030108-muoihaicongiap-dan.htm
hay
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=81&ia=2961
…v.v...
- 1)xem thêm tương quan lịch đại k-gi trên diễn đàn Viện
Việt Học, phần tiếng Việt, chủ đề căn-gian (9/8/2008) :
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,37118 , trong
đó vài thí dụ đưa ra là
- gian 閒
hay 間
- căn
- giam 監
- khám
- giảm 減
- kém
- giái - giới
介 -
cơi
- giải 解
- cải, cởi, cổi , gỡ ...
- giải 蟹
- cua
- giới 疥
- ghẻ (bệnh)
- giới 戒
- cai (cai nghiện)
- giái - giới
芥 -
cải (rau)
- giái (giới)
薤 -
kiệu (rau)
- giác, giốc
角 -
gạc (sừng nai), góc
- giác 覺
- cóc, cốc (biết, hiểu)
- giả 赭
- ké (màu đỏ) vết tích c̣n trong cách dùng đỏ ké
- giả 者
- kẻ (người ấy)
- ...v.v...
- Cho nên giáp
甲 có
thể phục nguyên dạng cổ hơn là *kap hay các biến âm đương
đại là kép , kẹp, khép, hẹp, cặp, cắp, gắp ...v.v…
- 2) cạp là động từ diễn tả hoạt động ngoạm vào hay cắn
vào vật ǵ: âm cạp bắt đầu từ phụ âm cuối lưỡi (ṿm) tắc vô
thanh k- hợp với nguyên âm sau với độ mở cao -a- và sau cùng
là phụ âm môi tắc vô thanh -p. Đọc chậm âm này ta thấy rơ
nét quá tŕnh ngoạm hay cắn và ngậm vào mồm, cũng như cách
đọc chữ ngậm và phạm trù nghĩa liên hệ. Cạp tiếng Việt là âm
tượng h́nh cũng như các âm tư/tí (chút - *chuột), li chi,
nhí ... so với vi ti/ty HV… Các ngôn ngữ láng giềng đều có
dạng cạp tương ứng như tiếng Lào, Thái là khạp; Tiếng
Zhuang, Khme, Bahnar, Aslian, Chrau, Brou, Khasi là kap
...v.v... Không phải ngẫu nhiên mà tiếng Việt dùng âm cọp
(hay *kap) để chỉ loài vua sơn lâm này với khả năng 'cạp'
cho chết - một kỹ thuật bắt mồi của loài thú này.
- 3) để ư tương quan giữa các âm HV và Việt như
- khái 咳
ho - cũng như chữ khái
欬
- khánh khái
謦欬
(cười nói) hô hố
- khái 漑
(giặt, rửa) so với hối
頮,
靧
- khai 開
(mở) - há, hé, hở (mở miệng) hô (hở răng)
hớ (hênh)
- khải, khai
闓 (mở
mang) - hở
- khải 啓
(mở) - hở
- khải, khởi
豈
há sao
- ...
- khái慨
- hổ : tương quan này
cần được nghiên cứu kỹ thêm để cho thấy giao lưu văn hoá của
phương Nam và Hán tộc vào thời thượng cổ (giọng Quảng Đông
cũng có khuynh hướng nhược hoá kh- thành ra h- như tiếng
Việt).
- 4) gầm hay gầm gừ ... chỉ tiếng của động vật (kể cả con
người) so với rầm thường chỉ các đối tượng là tĩnh vật: gầm
và rầm đều chỉ tiếng kêu lớn. Trong cách gọi tên các loài
vật hay cây cối ... thường dựa vào các đặc tính mà con người
có thể cảm nhận được qua ngũ quan như tiếng chim hót, gà gáy,
ngựa hí, con quạ, con cóc, con cọp (cạp), bọ cạp, con cú ...
qua thính giác; Nếu không nhận được tín hiệu nào qua thính
giác (v́ tần số không nằm trong khả năng nghe của con người)
th́ dùng thị giác như cá mực, cá mập, cá vàng ... Hay loại
không phát ra âm thanh như trái/quả nâu, trái bầu, trái hồng
...v.v... Trở lại với loài cọp, với tiếng gầm gừ có tần số
thấp (thường từ các loài có khối lượng cơ thể cao) và nhất
là bản chất hung hăng của loài cọp nên động từ gầm được dùng
để chỉ loài này - tuy nhiên có thể một biến âm là hầm (g >
h) đă cho ra dạng hùm tiếng Việt - tự điển Việt Bồ La ghi là
hồm (1651) so với chữ Nôm thường viết là hùm (bộ khuyển hợp
với chữ hàm 含
hài thanh); So sánh phạm trù nghĩa của chuỗi rầm - ầm -
rùm - ùm/um. Có tác giả lại cho rằng hùm từ hàm (ngậm,
cằm) mà ra dựa vào khả năng cạp v́ hàm của loài cọp rất mạnh.
- Kết quả trên tương ứng phần nào với động từ gầm (loài
cọp) là growl
trong tiếng Anh - grolling
là dạng tiếng Anh Trung Cổ;
grogner (Pháp) cũng
dựa vào các phụ âm g và r. So với tên gọi con cọp trong
tiếng Anh/ Đức/Đan Mạch/Thuỵ Điển là tiger
- tiếng Anh Cổ là tigras, so với tiếng Pháp/ Bồ Đào Nha/Ư/
Tây Ban Nha là tigre,
La Tinh và Hy Lạp đều là tigris.
Các phương ngữ Ấn Độ cũng có âm g- hay gr- như Hindi là
व्याघ्र (vyāghra),
Malayalam വ്യാഘ്രം
(vyaaghram) ... Cũng như ở Phi Châu ta c̣n thấy tiếng Xhosa
cọp là ingwe, tiếng Zulu cọp là ingwe, Tiếng Khme có dạng
ខាធំ
(khlā-thum) với biến âm gr- > khl- ...v.v... Học giả Michel
Ferlus, trong bài "Le cycle des douze animaux: histoire d'un
contact ancien entre Vietnam et Cambodge" (2004), đă ghi
nhận các dạng khái (cọp) là kơha:l3 (tiếng Rục), kăha:l3 (Thavung),
kha:l3 (Poong, Cuối, Mường) ... và đề nghị một
dạng tiền Việt-Mường PVM *k-ha:l? rất gần với dạng khan (Thái)
so với các âm cánh
竟 và
kính 獍
và kễnh. Không phải ngẫu nhiên mà các tên gọi loài cọp và
tiếng gầm của chúng thường có các phụ âm
g/k, r, gr/khl ...
Nhà nghiên cứu về chim (Ornithologist) Eugene Morton (1977)
đề nghị là có sự tương quan về ư nghĩa với tần số và mức độ
âm thanh loài vật phát ra: các âm thanh trầm (tần số thấp -
như tiếng gầm của cọp) diễn đạt t́nh trạng hung hăng hiếu
chiến (gầm gừ, hầm hừ) so với các âm cao diễn đạt trạng thái
thân thiện hay sợ hăi. Kết quả này cũng phù hợp với cách
giải thích tên gọi hùm (< hầm/gầm) của loài cọp. Xem thêm
chi tiết về nghiên cứu ngôn ngữ loài vật trên mạng
http://findarticles.com/p/articles/mi_m1200/is_v127/ai_3777499/
…v.v… Các khảo cứu về ngôn ngữ loài vật và các cách gọi tên
chúng (nguồn gốc ngôn ngữ) rất lư thú nhưng không nằm trong
phạm vi loạt bài viết về tên gọi 12 con giáp này. Tuy nhiên
một số nhận xét rất sơ lược về khả năng có thể tên gọi xuất
phát từ tiếng kêu của loài thú có thể t́m thấy trong các bài
viết "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" về Măo Mẹo
mèo (phần 4), Mùi/Vị *mvei dê (phần 15), Dậu-rơ(ga)-gà (phần
14).
- 5) xem thêm "Những điều lư thú xung quanh vấn đề họ tên"
- tác giả Lư Tống Địch (2001) bản dịch của NXB Văn Hoá Thông
Tin (Hà Nội 2003)
- 6) theo Thập Tam Kinh - Tả Truyện - Tương công nhị thập
tam niên 十三經-左傳-襄公二十三年 ... Toại sát Khánh hổ , Khánh dần
遂殺慶虎、慶寅 ...
- 7) như Di tộc, Bạch tộc, Thổ Gia tộc, Na-xi tộc, La-hu
tộc, Li-su tộc ... ở vùng Vân Nam - theo tác giả Thường Tuấn
trong "Văn hoá về 12 con giáp của Trung Quốc" (bản dịch ra
tiếng Việt, 2003).
- 8) quá tŕnh ngạc cứng hoá c̣n có thể sản xuất một số
dạng (k > d, z, ch) thường gặp trong các phương ngữ như
- dẫn chăn
- dẫn chẵn
- dấn chấn
- dăng giăng, chăng (giọng Nam)
- zăng trăng (giọng Bắc, Hà Đông)
- ...
- Do đó có thể chằn hay giằn (dằn) là một vết tích của Dần
và liên hệ đến loài ác thú (hổ), ma quỷ như trong các cách
dùng “bà chằn, chằn tinh, dữ như chằn tinh gấu ngựa
...” theo Paulus Của (Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, 1895) ... Một
dạng chữ Nôm chỉ chằn là dùng bộ khuyển hợp với chữ chân
眞 hài
thanh. Cũng theo ông th́ dằn chữ Nôm viết bằng bộ thủ
hợp với chữ Dần
寅: có
thể đây là một mối dây hỗ trợ cho liên hê Dần-kễnh (cọp) qua
khẩu ngữ dữ dằn (dữ như cọp) chăng? Chỉ có tiếng Việt
mới c̣n giữ các tương quan dễ nhận ra như vậy.
|