Bài 11 - Sử thuyết họ HÙNG
*****
B - 18 HÙNG triều .
1 – Hùng
triều thứ 1 - .Hùng Dương –
Tổ phụ phương Đông
Vua khai sáng:
Danh
hiệu khác trong Việt sử :Động đình quân – Vua Cả Phục hy
Danh hiệu khác trong Hoa
sử : Thái Cao thị –Bào Hy
Là thủ lãnh của tộc
MY-ĐÔNG; (khoảng
20.000 – 17.000 trước CN) .
Dương là phương mặt trời mọc, nghĩa là đi lên, ngược với phương
thụt (ký âm sai thành Thục), giống như trong đánh bài:
dương (ngữa lên, đưa lên), thiệp (úp xuống). Dương biến âm thành
‘dâng’ (như nước dâng lên, dâng cúng…). Hùng Dương Vương là thủy tổ
vì buổi bình minh mang ý
nghĩa sự khởi đầu, sự khai sinh ra dân tộc.
Đây là
thời Cổ sử Trung hoa gọi là thời Thái cao Bào hy hay Phục
Hy, chữ Hy chính xác là Y, Bào -Y hay Phục- Y , chỉ là ký âm
từ bao- áo của Việt ngữ, phục hy nếu viết lại là y-
phục sẽ dễ dàng nhận ra chỉ là áo quần hay vật che thân nói
chung .Đây là 1 bước trên đường văn minh của con người ; loài vật
có bộ lông tự nhiên che phủ, còn loài người phải sáng tạo ra
cách bảo vệ và điều hoà thân nhiệt bằng quần áo, có lẽ ban
đầu chỉ là dây và lá cây ,sau là da thú ..., tiến thêm 1 bước
là dùng các cây có sợi . .Giải quyết cái che thân là thành
tựu khoa học kỹ thuật đầu tiên của loài người nên dã sử Việt
gọi là Dương coi như là lúc mặt trời văn minh mới mọc.
Truyền thuyết lập quốc người Việt
gọi vị
tổ
phụ phương
đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua
vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu
tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ
HÙNG là : VUA CẢ- THÁI
CAO, THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI
KHANG VÀ THÁI TIẾT;THÁI CAO
chỉ là tên chữ
nho
của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI
CAO- BÀO HY của cổ sử Trung
hoa, theo 1 trật tự hợp lý thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2
đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là
phương
động
là tính chất của can BÍNH- BẤN
tượng số (8) trong thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự
khởi đầu của các vua hay buổi bình minh của dân tộc.phương
đông cũng là phương của màu xanh và tình thương,sách Lã thị
xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8
là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài
có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân
kỷ.
Động đình
hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc
bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ
của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn
trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông
ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của
ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..;Đình hồ
nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ
phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân
là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời
đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ
ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một
vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây
và hồn suôi về Động đình hồ ,điều này kiện chứng thêm cho sự
ấn định trên vì đầm Vân mộng ở quá xa và không có lý do để
hồn Linh Lang suôi về chốn ấy.
Sách
Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi đã trích ở trên cho ta biết:
Thời Thái Cao ứng
với số 8 – mùa xuân, Hành Mộc, thần tương ứng là Mộc Thần Câu
Mang chính là dùng mã tin của Dịch Lý. Sự tương ứng các vì
tổ phụ và các con số của Hà Thư, người xưa đã kết cấu thời
khởi thủy của dân tộc theo 2 ý chỉ định của Hà Thư. Các số 6,
7, 8, 9 vừa chỉ 4 phương vừa chỉ 4 mùa, như thế ta có 4 địa
phương của 4 thủy tổ đồng thời cũng có thứ tự thời gian 4
thủy tổ tiếp nối nhau; Thái Cao – Bào Hy hay Hùng Dương Vương là
thủy tổ đầu tiên và ở phương Đông.
Sách cổ Trung Hoa
viết “Mẹ Bào Hy sống ở vùng đầm Hoa My, nhân đạp dấu chân
người khổng lồ mà sinh ra ông, lớn lên có thánh đức và khi ở
ngôi lấy Mộc Đức mà cai trị”: từ nơi ở là đầm Hoa My ta
có thể rút ra các thông tin: Hoa chính là tộc Hoa sau này. My
hay Mỵ theo cổ thư Trung Hoa là Họ của dân Việt và Sở,
Động cũng là Đông (đã dẫn ở phần trước) Đình là to lớn. Động
Đình Hồ là hồ lớn ở phương Đông như thể Đầm Hoa My và Động
đình Hồ chỉ là một , nơi có nền văn hóa
khảo cổ Soi Nhụ – Cái Bèo sau là Vịnh Hạ Long, vì
chỉ ở đấy mới có thể liên quan tới dân nước Việt (Bắc
Việt ngày nay) và dân Sở ở Hồ Nam Trung Hoa. Vòng cung – bờ
biển Việt Nam, bờ biển Quảng Đông và đảo Hải Nam cho ta hình
ảnh một cái hồ lớn ở phương Đông nước Việt.
Thủy tổ phương Đông là Hùng
Dương, Bào Hy Thái Cao Thị cũng là Động Đình Quân. Còn niên đại
thời Hùng Dương – Bào Hy? Chữ Bào cho ta 2 nghĩa:
- Bào là cái bọc nơi thai
nghén 100 trứng sau là 100 họ vì thế người Việt Nam thường gọi
nhau là ‘đồng bào’.
- Bào biến âm là ‘Bầu’, bầu
là khối tròn, tiếng Việt chỉ sự mang thai, người có bầu thì
sinh con, còn Đế Bầu (Bào Hy) thì sinh ra dân tộc của mình.
‘Bầu’ còn có nghĩa đặc biệt
khi liên kết với truyền thuyết quả bầu và cơn ‘hồng thủy’,
truyền thuyết lưu truyền ở hầu hết các dân tộc sinh sống ở
Đông nam Á, nhưng hoàn toàn vắng bóng ở cư dân Hoàng Hà. Tuy có
điểm khác biệt, nhưng thống
nhất trong ý : cơn hồng thủy tiêu diệt loài người, và
loài người được tái sinh từ quả bầu, sau thành các dòng tộc
chia nhau đi khắp 4 phương, về ý nghĩa cũng tương tự bọc 100
trứng nhưng ở đây ta có được một thông tin quan trọng xác định
mốc thời gian mà câu chuyện tồn tại, đó là một cơn hồng thủy,
nước dâng lên tràn núi lấp gò. Trong quá khứ ở Việt Nam khoa
học ghi nhận có 2 đợt biển tiến:
- Đợt biển tiến Phlandrian cực
đại vào khoảng 20.000 năm trước.
- Đợt biển tiến Holocene, trung
điểm cực đại cách nay hơn 4.000 năm.
Đợt biển tiến Phladrian tức
cơn đại hồng thủy xãy ra ở Thời Đá giữa chính là niên đại
của thủy tổ phương Động Bào Hy. Ta có thể kết luận niên đại
thời Hùng Dương Bào Hy cách ngày nay khoảng 20.000 năm.
Cũng trong ý nghĩa
“sự khởi đầu” như ban sớm, mùa xuân; Hùng Dương Vương – Bào Hy
được coi là tổ của Dịch Lý hay rõ hơn là Dịch nút số (Hoàng
Đế là tổ của Dịch Lý Vạch Quẻ). Ở Trung hoa
trước đời Tống không ai biết gì về dịch học nút số, ngược
lại ở Việt nam chỉ với câu .”tam khoanh-tứ đốm” đủ xác định
người Việt từ xa xưa rất rành về dịch học nút số, rành tới
mức mà nó đã trở thành của dân gian ai cũng biết.
-Khoanh
biến âm là khuyên là khoẻn ngày nay là chiếc nhẫn đeo tay hay
đôi vòng đeo tai ta có thể hình dung ra ngay được đó chính là
hình ảnh của nút trắng trong các nút số của Hà lạc.O
-Đốm
trong việt ngữ thường đi đôi thành từ kép : “đốm đen” nghĩa
rất rõ ràng chỉ các nút số đen cuả Hà lạc.●
Tam và
tứ là 2 số trấn phương đông và phương tây của Hà thư.
Thành
ngữ “đổi trắng thay đen” khiến ta còn phải suy nghĩ nhiều lắm,
chắc chắn đây là 1 lời nhắn gửi của người xưa chỉ vẽ cho con
cháu về hà thư-lạc đồ nhưng chúng ta vẫn phải tìm hiểu suy
nghĩ thêm chưa vội kết luận về bất cứ điều gì.
Thời
kỳ này là thời Homo sapien sapien tức
‘người hiện đại’; dưới ánh sáng Dịch Lý
đúng nghĩa là ‘người văn minh’ và dịch cũng chính
là ‘văn’, như đã biết ở phần Dịch Lý, Thập can hay ‘chục con’
chính là 10 con số , là những dấu hiệu
nguyên khởi của văn minh khi người ta dùng
nó như là một thứ văn tự.
2- Hùng
triều thứ 2 – Hùng Hiển.
– Tổ phụ phương nóng (Xích đạo)
Vua khai sáng :
Danh hiệu khác
trong Việt sử : –Thái Viêm Thần nông
Danh hiệu khác trong Hoa sử : -Viêm đế Thần nông-Cao Tân
thị
Là thủ lãnh tộc MY_BẮC ở hướng xích đạo
(khoảng 10.000
trước CN) ;
Với thời Thái
Viêm –Thần nông của sử Việt và Hoa , dã sử ghi nhận thời kỳ
này là bước tiến lớn lao đưa con người bước đầu thoát khỏi sự
phụ thuộc hoàn toàn vào thế giới tự nhiên, qua thời hái lượm
và săn bắt với việc biết trồng trọt và chăn nuôi con người đã
bước sang nền kinh tế sản xuất tức đã góp công cùng tạo
hoá,trở thành tài Nhân trong tam tài ngang vế với thiên và địa
vì vậy Hùng sử gọi là thời Hùng Hiển, ta ghi nhận : thần nông
là cấu trúc Việt ngữ.
Phương
nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM
;tổ phụ
phương lửa hay quẻ LY.sách Lã
thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM
ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ
phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác
và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt nam coi Thái viêm
-Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH chắu 3 đời của
Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đã mở đầu như thế..., còn theo
Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là
hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng
xích đạo cũng là màu đỏ (sất tức số 7
chỉ là biến âm của xích), động vật tiêu
biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của
Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực
tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng
nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích
đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc
hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc
để đ̣ón ánh mặt trời.
Chúng ta
thấy theo dịch lý :số (2-7)
của Hà thư luôn gắn với quẻ Ly, màu đỏ , xích đạo và loài
chim tức điểu.
Vậy mà ai
đó đã cố tình cho là : nhất điểu nhì ngư tam xà tứ tượng ,
phương của Xà và Tượng là Đông và tây là chính xác nhưng Điểu
và Ngư thì có phản ứng....; theo dịch học thì : nhất viết
thủy...nếu : nhất điểu hóa ra là chim bay dưới nước .?. vì vậy
: nhất điểu bị biến thành nhất Đểu....,nhị
viết hỏa nếu nhì ngư đúng thì thành ra cá bơi ở trên trời...
nên nhì ngư biến thành ...nhì ngu ; chỉ có kẻ
vừa đểu vừa ngu mới cho phương Bức hay bắc là vùng
tuyết trắng phủ dầy như Bắc cực hiên nay....
Tiếp
nối thời Hùng Dương – Bào Hy là thời Hùng Hiền Vương, chữ
‘Hiền’ là ký âm của chữ ‘hiện’ hay ‘hiển’, vì mặt trời sau
khi mọc (dương) ta thường nói “vừng dương ló dạng” sau giai đoạn
ló dạng là hiển hiện rõ ràng, đầy đủ.
Theo “tứ thời” nếu là một ngày thì sau ban sáng tới ban trưa,
nếu là mùa thì mùa hạ tiếp nối mùa xuân, nên cổ sử Trung Hoa
và Việt Nam gọi tổ phụ Hùng Hiển Vương là Thần Nông Thái Viêm,
có sách chép là Viêm Đế nhưng từ Thái Viêm nghĩa là tổ phụ
phương nóng bức (bắc) hay hướng xích đạo (phương Sóc) thì sát
nghĩa hơn. Mặt trời ở ‘thiên đỉnh’ là lúc nguồn năng lượng tuôn
xuống mặt đất nhiều nhất nên cũng là lúc nóng nhất nên cổ
sử gọi là Thái Viêm. Trong 4 phương vì Việt Nam và Trung Hoa
đều nằm ở Bắc bán cầu nên hướng xích đạo là nóng nhất còn
được gọi là viêm phương, theo cổ sử xưa Việt Nam cũng được gọi
là Viêm Bang. Truyền thuyết lịch sử của dòng giống Việt chép
“Đế Minh (tổ dân Việt) là cháu 3 đời của Viêm đế Thần Nông”
cũng là vì lẽ này. Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần
Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời
đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang
thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo –
có gặt. Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông
Nam Á bắt đầu vào khoảng năm 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu
cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình,
theo địa diểm có di chỉ khảo cổ ở tỉnh Hòa Bình của Việt
Nam.
Hùng Hiển
Vương – Thái Viêm – Thần Nông được cổ sử Trung Hoa gọi là Hoàng
đế Thần Nông – Cao Tân Thị (chính chữ ‘Hoàng đế’ này gây nhiều
rắc rối, lầm lẫn cho các sử gia vì trùng với ‘Hoàng Đế’ tên
riêng của quốc tổ Trung Hoa ở đời sau). Từ ‘Cao Tân Thị” thực ra
là từ thuần Việt; Cao = cả nghĩa là thủ lĩnh, Tân là 1 trong
Thập can nghĩa tiếng Việt là tâng (bốc), tung (lên), biến âm của
tân là tôn: cao, hay là bề trên. Sở dĩ có tên như vậy là do Hà
Thư đặt theo chiều đứng: số 2-7 chỉ trên cao, ngược với 1-6 chỉ
dưới sâu, sâu →
sáu →
sáo = nước.
Nông dân Việt rất kính trọng ‘Tiên Nông”, ngày xưa mỗi khi khai
vụ đều có lễ tế Tiên Nông xin cho được ‘mưa thuận gió hòa’ để
mùa màng tốt tươi. Cổ sử Trung Hoa còn gọi Thần Nông
với tên khác là Đế
Cốc (có sách viết sai là Đế Khốc), ‘cốc’ là lương thực.. Theo
Kinh Thi thì thời cổ dân Trung Hoa trồng 2 loại lúa là lúa
‘Tắc’ và ‘Thử”, “hoà, đao, chiêm, mạch” là tên 4 loại lúa chỉ
xuất hiện sau cả ngàn năm so với tắc và thử.
Tắc chính là lúa nếp
ngày nay. Tắc →
đắc →
đất; nghĩa là loại lúa trồng trên cạn (Xin lưu ý là người Hoa
không có âm /đ/) ông tổ của lúa tắc là Hậu tắc,
Thử là lúa tẻ ngày nay. Thử là biến âm của thủy (= nước),
loại lúa trồng trong ruộng nước, thông tin tìm
được ở đây cho ta nhận định : rất có thể lúa nước có trước
lúa trồng trên cạn tức lúa nếp vì ông Hậu Tắc tổ nhà Chu chỉ
là con cháu xa xăm lắm của Thần nông.
Đáng lưu ý “Hậu Tắc” là theo
qui tắc ngôn ngữ Việt, nếu viết theo Hoa ngữ phải là: Tắc Hậu
cũng như Thần Nông phải là Nông Thần.
Và điểm đáng lưu ý nữa là: thời xưa do đặc điểm khí hậu ở
khu vực bắc Hoàng Hà không thuận
lợi cho cây lúa cả tắc lẫn thử vì cây lúa là giống ở
miền nhiệt đới đòi hỏi cường độ ánh sáng cao và không khí ẩm,
mà khí hậu vùng Hoàng Hà thì lại lạnh và
khô.
Trở lại với Lã Thị Xuân Thu, ta có các thông tin: Viêm Đế tương
ứng với số 7; số 7 theo Hà Thư là mùa hạ và phương viêm (nóng
bức); Viêm Đế lấy Hỏa đức mà cai trị, vị thần tương ứng là
Hoả Thần Chúc Dung. Chữ Viêm này cũng là chữ Viêm trong ‘Viêm
thiên’ trong Cửu Thiên của Trung Hoa cổ. Nói tóm lại ý nghĩa
các thông tin đều qui kết về vùng nhiệt đới, như thế thời Thần
Nông không thể diễn ra trên lãnh thổ Trung Hoa hiện nay được vì
vùng cực nam Trung Hoa cũng không thuộc vùng nhiệt đới.
Lưu ý theo sử thuyết họ Hùng thì có tới 3 vì vua liên quan tới
chữ Viêm.
-Thái viêm là tổ phụ phương nóng bức hay
viêm nhiệt của người họ Hùng.
- Viêm đế là vị vua đồng thời với Hùng Vũ
ở thời lập quốc.
- Viêm lang là đế Nghi trong sử Việt hay
Nghiêu đế trong cổ sử Trung hoa.
|