Bài 13
---Sử thuyết họ HÙNG
*****
5
- Hùng triều thứ 5: Hùng Vũ Vương.
Vua khai sáng :– Hiền Đức Lang
Danh hiệu
khác trong Việt sử : Vua Hùng, đế Minh,Vua cha ngọc hoàng
thượng đế
Danh hiệu khác trong Hoa sử :–
Hoàng đế Hiên Viên
Quốc hiệu
: Nước họ HÙNG, Hữu HÙNG quốc, Viêm Việt đại hưng bang.
Niên đại : (3000
trước CN)
Hùng Vũ Vương là quốc tổ của dân Việt Nam và Trung Hoa; Hùng
là dòng giống; Vũ và vương là từ kép để dic̣h sang Hoa văn từ
Vua của Việt ngữ; Hùng Vũ Vương đồng nghĩa
với ‘Vua Hùng”.
Trong
vương hiệu ‘Hiền Đức Lang’
thì : Đức là biến âm của ‘Đế’ = ‘Vương’→ Hiền Đế = Hiền Vương,
Lang =Vương→Hiền lang =Hiền vương, đây là kiểu sai thường gặp
trong tiếng Việt như : sông Hương giang , núi Thái sơn..v.v.
Hiền
vương sử Trung Hoa ký âm thành ‘Hiên Viên’ .
Cổ
sử Trung Hoa chép: “Hoàng đế tên tộc là Ngu, hiệu là Hiên Viên;
bộ tộc sinh tụ tại vùng sông Cơ, sau lấy làm họ Cơ, là vua
nước Hữu Hùng …”
Đoạn sử tuy ngắn nhưng vô cùng quí giá đối với người Việt Nam
và Trung Hoa.
a.
Hoàng đế tên tộc là Ngu, đây là ký âm sai của chữ ‘Ngũ’, ngũ
là số 5, trung cung của cả Hà và Lạc;âm ‘vua’= ‘woo’ ký âm hoa
ngữ phân hoá thành ngu hay ngũ và Vũ .Và Vì trung cung của ngũ
sắc là màu vàng nên mới có tên là ‘Hoàng Đế’ nghĩa là đế
của vùng ‘giữa’ tức vùng ‘Giao-chỉ’ – vùng đất tổ của dân
Việt theo chính sử.
b.
Hiệu là ‘Hiên Viên’; ở trên ta đã chỉ ra là ký âm sai của ‘Hiền
Vương’ .
Theo
tryền thuyết thì Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông Thái
Viêm, ở trên đã dẫn Thần Nông Thái Viêm là
Hùng Hiển Vương → Hùng Nghị Vương – Hùng Diệp
Vương – đến Hiền Vương đế Minh đúng là cháu 3
đời.
c. Hoàng Đế là tổ họ Cơ (lấy
từ tên sông Cơ):Cơ là ký âm Hoa ngữ của từ Cả nghĩa là lớn
nhất hay đứng đầu, Đoạn này cho ta những thông tin: Chữ ‘Cơ”
không phải là họ Cơ mà là ‘Cô’. Sử ký của Tư Mã Thiên cho biết
Cô là từ mà vua chúa xưng mình trước quần thần trong các buỗi
thiết triều; cô là tiếng Việt còn lưu dấu trong thầy-cô, chữ cô
này đồng nghĩa với từ ‘mẹ’, chỉ người sinh ra mình. Ở đây chữ
‘cô’ đồng nghĩa với chữ ‘cả’ là số 1, đứng đầu chỉ thủ lãnh.
Cổ sử Trung Hoa ghi Hiên Viên là tổ họ Cơ, ta hiểu đó là vị cô
đầu tiên trong lịch sử dân tộc hay rõ ràng hơn
là hoàng đế khai quốc.
Về địa bàn sinh tụ của dân
tộc thời lập quốc là lưu vực sông Cơ, Cơ = Cả (tư liệu Lịch sử
Việt ghi là: vùng đất lập quốc của các vua Hùng là sông
“Côi”), chính là sông Cả ở Nghệ An Việt nam
hiện nay. Ở đây có một địa điểm rất linh thiêng hàng năm dân
chúng vẫn tiến hành lễ tế đó là ‘Hang Bua’, rất có thể đây
chính là “hoàng cung’ đầu tiên thời lập quốc. Thực là sức
sống của dân tộc vô cùng mãnh liệt, nội việc cung vua là hang
núi cũng đủ xác định thời gian rất xa xưa có thể cách nay
khoảng 5.000 - 6.000 năm, tức vào thời con người ăn hang ở lỗ (ăn
lỗ ở hang), xã hội còn là thị tộc hay liên minh thị tộc, mỗi
hang là một cộng đồng nhỏ, là cơ sở của xã hội, sau hang →
hương nghĩa là làng. Di tích Hang Bua rất có thể là nơi linh
thiêng đánh dấu thời khai quốc của người Việt Nam và Trung Hoa
và vị vua đầu tiên là Hùng Vũ Vương hay Hiên
Viên trong truyền thuyết.
d. Hiên Viên là vua quốc gia Họ
Hùng : Đây là phần rất quan trọng để xác định nguồn gốc dân
tộc Việt; Hiên Viên hay Hiền Vương là Hoàng đế
lập nên quốc gia Họ Hùng, quốc hiệu lưỡng tính này có Ý chỉ
thời lập quốc hay thời tiến từ liên minh thị tộc lên quốc gia,
giai đoạn đặc biệt khởi đ̣ầu với từ hữu và kết
thúc bằng từ quốc .
Sử Trung Hoa có quy luật đặt
vương hiệu đàng hoàng như Chu Văn Vương hiểu là chúa văn của
nước Chu hay nhà Chu; Tần Nhị Thế là chúa đời thứ hai của
nước Tần ; Hán Vũ Đế là chúa khai sáng triều Hán
hay nước Hán. Riêng với chữ ‘Hùng’ lại rất đặc biệt, Hùng là
dòng giống chứ không phải tên nước, tộc danh này bao trùm và ở
trên quốc hay gia, thí dụ: dân họ Hùng có thể có nhiều quốc
danh như :nước Lạc, nước Thao,nước Thục, nước Đại Cồ Việt; mỗi
một nước như thế lại có nhiều nhà như Đinh, Lê, Lý, Trần; …
nhưng tất cả vẫn xuyên suốt 1 Họ Hùng hay dòng tộc Hùng, chính
vì thế ta mới có Hùng Vương thứ nhất, Hùng Vương thứ 2, V. v… .
Những dòng lịch sử này đã minh thị đích xác về Họ Hùng mà
người Việt vẫn tôn thờ trong tâm thức mấy ngàn năm qua, cũng như
dân tộc Trung Hoa tôn thờ Hoàng Đế Hiên Viên, hai dân tộc tôn thờ
2 danh hiệu của cùng 1 vì vua, và cùng nhận là quốc tổ của
mình, khi nhận ra: Hiền Đức hay Hiền Vương và Hiên Viên chỉ là 1
thì đã đến lúc viết lại sử Việt Nam và Trung Hoa đó là việc
bắt buộc không thể chần chừ lâu hơn được nữa, vì để càng lâu
thì tội bất kính – chửi cha mắng mẹ càng chồng chất.
Dựa trên truyền thuyết lịch
sử Việt Nam và Trung Hoa ta dựng lại toàn cảnh của thời kỳ
lập quốc:
5 bộ lạc đã thống nhất hoà
huyết tạo nên dòng giống HÙNG:
1 / bộ
lạc CẢ ở lưu vực sông Cả thủ lãnh là Hiên viên thuộc tộc My
bắc.
2 / bộ
lạc Cửu lê ở vùng cánh đồng chum thuộc trung- hạ nước Lào thủ
lãnh là Xuy vưu tộc Khương tây.
3 / bộ
lạc Mun hay Miêu ở hạ lưu sông Đà tên xưa là Hắc thủy
hay Đơn thủy (đơn =đen) thủ lãnh là Hoan đâu, truyền thuyết
Việt gọi là con gái bà Vũ tiên tộc Khương nam.
4 / bộ
lạc Long hay thần long còn gọi là Động đình ,cầm đầu là Long
nữ con gái Động đình quân tộc My đông.
5 / bộ
lạc Viêm ở vùng Hoà bình –Ninh bình thủ lãnh là Viêm đế.
Bộ lạc Viêm là sự hòa huyết đầu tiên của 2 đại tộc
KHƯƠNG và MY , cổ sử Trung hoa chép : mẹ của Viêm đế cảm Thần
long mà sinh ra vương , Thần long là tên khác của đại tộc MY.Cả
cổ sử Hoa và Việt đều lẫn lộn Viêm đế và tổ phụ Thái viêm
đưa đến nhiều đoạn sử không thể hiểu nổi.
Sự tồn tại các tộc người và thời điểm dựng
nước lịch sử được chứng thực bởi các hiện vật khảo cổ của
các nền văn hóa Quỳnh văn ở sông Cả Nghệ an, Đa bút thuộc Ninh
bình - Hoà bình Việt nam và cánh đồng chum ở trung Lào.
Tóm lược
trang sử dựng nước cùa vua HÙNG :
HIỀN VƯƠNG thủ lãnh
của bộ lạc
CẢ nghĩa là đứng đầu (cổ
sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ) thuộc dòng MY BẮC
sinh trú ở lưu vực sông Cả đánh bại XUY VƯU vua của bộ lạc
CỬU LÊ dòng KHƯƠNG ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số
4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm của số 4 còn cửu
là số 9. Hiền vương thống nhất 2 bộ lạc sau đó đánh bại Viêm
đế ở vùng Ninh Bình- Hoà bình Việt nam và đã đúc 3 bộ lạc
thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ
HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , lãnh
thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ
còn được dịch là GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi
giao nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, đất ‘giữa’ nay là đồng
bằng Thanh Nhgệ Tĩnh và vùng núi rừng phía tây, người Hoa ký
âm chữ giữa thành YUÊ ; Việt
nho đọc thành VIỆT ( chưa hiểu tại sao ?).
Vua
Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với
con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm
của lục là số 6 và công thức đã ấn định trong hà thư để sinh
ra Lục tộc : Hiên viên hay Hiền vương tên tộc
là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của
Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra
Lộc tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền
ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục
được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG,
Kinh
biến âm của
cóng nghĩa là lạnh cũng
là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước
hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến
âm của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là
người LA tượng trưng bởi qủe LY
là lửa , qủe của Viêm phương.
Cổ sử
Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh
, phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết
HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN
HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY
cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông
ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức
họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm sai của chữ MUN mà thôi,
người Mun nghĩa là người phương nam. Tất cả người tộc Miêu đều
nhận mình là người MUN.
Thực tế
thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một
lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển
dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1
tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc
HÙNG phương nam gọi là người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ
Khảm chỉ phương nước ngược với phương lửa.
LA và
KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua
HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay
kim chỉ nam còn được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu
Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi
người đều biết là người VIỆT hiện nay còn
người LA ?
Câu ca dao sau
sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn:
Ai ơi chớ lấy KẺ LA.
Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Gạt bỏ ý
tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông
tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người ,
kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì
ra La và Kinh là chỉ người Việt và người
Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI
con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La
là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước
biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng
nghi của dịch học.
Người
Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt
ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái
có người LÀO hay LÃO QUA, Trung quốc có người
DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ
là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích
của chữ NHÌ là thứ hai .
DI_LÃO
có 1 từ kép Đối xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly
hay Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di
biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam
của Hà thư.
Người
KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng
Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất
Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều
lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người
Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay
không ?.
Cổ sử
cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay
ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu
Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và
nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy
chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm
hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con dân vua HÙNG
có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt
thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng,
đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung
hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết
hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC
do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam
gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi
vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì
quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm
sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được
mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận.
Những
dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng
hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc
này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá.
Cổ sử cũng nói đến 3 thành
tựu khoa học và kỹ thuật của thời này:
1. Khi đánh nhau với Xi Vưu, vua
phía Tây, Hiên Viên đã sử dụng kim chỉ nam để dẫn đường, đây là
thành tựu tuyệt vời của khoa học kỹ thuật Việt, sau này người
Phương tây đã học được và áp dụng để xác định phương hướng
mãi cho đến ngày nay; không có kim chỉ nam hay la bàn thì không
thể đi xa, không có ngành hàng hải tiến bộ vượt đại dương, bộ
mặt của thế giới chắc chắn khác xa ngày nay và chắc chắn
lịch sử thế giới không diễn ra như hiện có.
Kim chỉ nam
là tên Việt gọi la bàn trong đó từ ‘chỉ’ là
động từ nên cả đoạn rất rõ nghĩa : là cây kim có đầu luôn chỉ
hướng nam....;nhưng trong Hoa ngữ ‘chỉ’ là
ngón tay nên tên ‘chỉ nam châm’ không tài nảo hiểu
nổi...tương tự còn có ‘chỉ nam xa’ đố ai dịch được nghĩa sang
tiếng Việt..?.
2. Hoàng Đế Hiên Viên được tôn
là tổ phụ của văn tự Trung Hoa, ý không phải nói hoàng đế chế
ra loại chữ Trung Hoa đang dùng ngày nay, mà như đã nói Văn là
Dịch và Dịch tức Văn. Nếu tổ thứ nhất của văn tự là Phục Hy
với Dịch Lý nút số. Thì Hiền Vương – tổ thứ hai với Dịch Lý
vạch – quẻ. Đạo Giáo hay Đạo Lão được xây dựng trên nền tảng
học thuyết Hoàng – Lão (Hoàng Đế + Lão Tử). Tinh hoa của triết
thuyết Lão Tử nằm trong Đạo Đức Kinh thì người ta đã rõ, còn
với Hoàng Đế thì đóng góp gì? Chắc chắn không thể nằm ngoài
Bát Quái; về Tiên Thiên Bát Quái thì đa phần học giả Trung Hoa
đều đồng thuận với ý kiến này; chỉ còn tranh cãi về Hậu
Thiên Bát Quái. Có 2 trường phái: thứ nhất cho rằng Hậu Thiên
Bát Quái cũng do Hoàng Đế sáng chế; phái thứ hai cho là Hậu
Thiên Bát Quái do Văn Vương tổ của nhà Chu sáng tác. Dù cho do
ai sáng tác nó cũng là nền tảng của khoa học truyền thống
của Việt Nam và Trung Hoa, ý nghĩa của nó ta đã xét ở phần
Dịch Lý.
3. Thành tựu kế tiếp là y
học cổ truyền của Việt Nam và Trung Hoa:
Tương truyền sách “Hoàng Đế
Nội Kinh Tố Vấn” có từ thời Hoàng Đế, trong đó đã có đầy đủ
những nguyên lý của nền y học cổ, nền y học này đã vận dụng
các nguyên lý Dịch Lý vào ngành cơ thể học và trị bệnh cho
con người, đấy là cuốn sách nền tảng của Đông y còn tác dụng
cho đến bây giờ và càng ngày càng có địa vị vững vàng trong
thế giới hiện đại, đối với khoa học nó còn đầy những điều
không thể hiểu nỗi … nhưng rõ ràng có tác dụng thực sự,
dù tự nhận là tiên tiến nhưng người ta vẫn đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác, nào kinh – lạc, nào huyệt đạo
rồi châm cứu, châm tê V.v…, chữa bệnh ở nội tạng lại châm ở
bàn chân hay vành tai … thực không hiểu nỗi.
Trung tâm của tổ quốc Họ Hùng
là đất giao (giữa) lấy chuẩn là sông Cả, căn cứ vào sự phân
bố các sắc dân ta có thể xác định: đất Giao là vùng đồng
bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh và phía thượng nguồn các con sông Cả,
Chu, Mã ngày nay. Câu ca dao mà mọi người Việt đều thuộc lòng:
“Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra”
Người Việt dùng hai câu này
sánh công lao cha mẹ như núi, sông nhưng nó còn chứa các thông
tin khác. Nói đến cha mẹ không phải chỉ là cha mẹ, người Việt
còn có tục đồng hóa vua với cha mẹ như “Bố Cái Đại Vương”
chẳng hạn, và dân còn được gọi là ‘con dân’; công cha nghĩa mẹ
còn dùng để ca tụng công đức của quốc tổ, cha mẹ chung đã sinh
ra cả một dân tộc, dân tộc họ Hùng, địa danh ‘núi Thái Sơn’ (1
trong 2 từ ‘núi’ hay ‘Sơn’ là thừa) cho ta sự
liên kết: Thái trong Dịch Lý còn dùng như chữ Đại, Đại Sơn,
người Việt thấy ngay là Hán văn chuyển ngữ từ ‘núi Đọ’; và
câu ‘nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra’ cung cấp thông tin về
con sông, sông Mẹ, sông Mã, Mã ký âm là ‘Mẹ’, cũng như chữ Chu
trong sông Chu là Cha,
tổng kết :.
3 con sông Cả, Cha, Mẹ (Chu và Mã) cộng với Thái Sơn đủ để ta
xác định đấy là vùng đất khởi nguyên của tổ quốc Việt: đấy
chính là đất Giao, mà tên gọi còn theo lịch sử
in dấu tới tận ngày nay. Đất Giao hay Giữa là vùng đất
Trung tâm, ngày nay thường gọi là Trung nguyên chứ không phải lối
giải nghĩa vớ vẫn … Giao Chỉ là dân có 2 ngón chân … bẹt ra vì
leo núi đá.
Lãnh thổ của đất nước chia
làm 2 phần Bắc – Nam, dân Họ Hùng cũng chia làm 2 cộng đồng,
dân Lửa và dân Nước. Người Lửa còn có các tên khác là: người
Lão hay Di -lão, còn gọi là Liêu sống ở An Ấp. Dân Nước còn
gọi là dân Kinh hay Kênh-lạch, Trung Hoa gọi là người Bách
Lộc,Hạc, Mạc.v.v. lãnh thổ là Lạc Ấp và Lâm ấp. Đế Nghi nối
ngôi đế của Hùng Vũ hay Hoàng Đế Hiên Viên mở ra triều đại mới.
Tóm lược thời lập quốc: 2
dòng tộc Viêm và Cửu Lê, ngày nay khoa nhân chủng học gọi là
Môn-Khmer và Indonesien đúc kết thành người Lửa, Liêu, Lão, La,
Lê tụ cư ở vùng đất là Giao-Bắc , nay là đồng bằng Thanh – Nghệ
– Tĩnh và núi rừng phía Tây. Sau đó dân Họ Hùng thiên cư về
cõi Nam , cộng cư và cộng huyết với người Miêu (sử Việt gọi
là dòng dõi bà Vũ Tiên), tức tổ tiên người
Miêu sinh ra Lạc tộc, sử Trung Hoa gọi là người Bách Lộc, Hạc,
Mạc .
Theo thông tin do Nguyễn Hồng
Sinh đưa ra trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” thì Hùng
Vũ hay Vua Hùng còn có danh hiệu: Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
và vợ là Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh mẫu, dựa trên ngữ văn chắc
chắn đây là truyền tích của Đạo Giáo, đặc biệt chi tiết
“Thánh Mẫu” cho ta nhận định: Đạo Giáo và Đạo Mẫu ở Việt Nam
có sự liên quan, Đạo Mẫu là đạo thờ mẹ, một tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam. Tồn tại từ thời xa xưa
đây là biểu hiện của thời mẫu hệ nên gần nhất thì đạo này
cũng có từ trước đời nhà Chu, vì nền văn minh Trung Hoa thì
cuối đời Ân Thương là thời kỳ chuyển tiếp từ mẫu hệ sang phụ
hệ để rồi phụ hệ được khẳng định ở thời nhà Chu. Thông tin
quan trọng nữa mà cuốn sách trên nêu lên là quốc hiệu thời
Hùng Vũ là: “Viêm Việt Đại Hưng Bang” về sau quốc đô dời về nam
(bắc hiên nay) đổi thành “Bách Việt đại liên bang”; trên hành
trình tìm về cội nguồn, bất cứ manh mối nào đối với chúng ta
cũng quan trọng, đều là thiêng liêng. Nên chi
tiết nào cũng rất đáng quan tâm và đào sâu nghiên cứu
|