Những điều không
thể xảy ra:
Trung
Hoa lập quốc bên bờ Hoàng Hà, mãi tới thời CHU mới tiến đến
Trường Giang như thế:
1. các
vua từ Thần Nông, Xuyên Húc … đến Hạ Vũ và nhà Thương không thể
biết đến đất “Giao” cận xích đạo được.
2. Vua
Thuấn không thể tuần du và chết ở Thương Ngô thuộc quảng Tây
được.
3.
Không thể có châu Kinh và châu Dương trong cửu châu nhà Hạ ở Nam
Trường Giang.
4.
Không thể có chuyện con cháu nhà Hạ lập nước Việt ở Cối Kê –
Triết Giang
5. Xét
kỹ thì các cống phẩm của 9 châu đời Hạ Vũ đều là sản vật
vùng nhiệt đới, như vậy 9 châu này không thể ở bắc Hoàng Hà.
II. Ngũ Man Trung Hoa (bị lộn
ngược thành Ngũ Hồ)
Phía nam theo
Dịch Lý tức phía bắc Trung Hoa hiện nay là nơi tụ cư của các
Man tộc, vói 5 dòng:
1.
Phương Tây: người Tạng biến âm của chữ tịnh còn gọi là Khương
biến âm của chữ cương – căng hay khăng nghĩa là phương cứng, không
đổi. Người Chi biến âm tsi = tư, số 4 còn được gọi tên chung là
Thổ.
2.
Phía Tây Nam: tức Tây Bắc hiện nay, là nơi sinh sống của người
Đột Quyết, ‘Đột’ biến âm của chữ độc là số 1 chỉ phương Nam,
‘Quyết’ trong Dịch lý là phương tây (quyết định – định đoạt),
Đột Quyết nghĩa là phía Tây nam mà thôi, tên chỉ chung các dân
tộc vùng Trung Á vì tóc râu của họ màu nâu đỏ cũng rất có
thể họ là người da trắng nhưng nắng gío đã biến da họ thành
màu Đồng nên còn được gọi là dân Hung (hung trong tiếng Việt
là màu nâu đỏ), người Mông Cổ gọi sắc dân này là dân Sắc Mục.
3.
Phía chánh Nam: đất của tộc Mông – Nguyên, cả Mông và Nguyên đều
có nghĩa là phía Nam của Dịch Lý.
4.
Phía Nam: người Khiết Đan hay người Liêu, Khiết là thuần khiết
hay đơn nhất, ý chỉ số 1, phương nước trong Dịch Lý, đan là đơn:
số 1 cũng là màu đen là lu, mờ, tối.
5.
Phía cực Nam: người Tiên Ty hay Nữ Chân, tiên là số 1, ty là
thấp chỉ phương Nam ngược với vương, cao, tôn, Tiên Ty chia thành 2
dòng: người Kăm hay Kim và Mãn hay Man.
Ban đầu từ “Hán
nhân” là 1 câu chửi chỉ dùng cho người Khiết Đan, sau này đồng
hóa với người Tiên Ty cũng coi là người Hán.
Thời Mông –
Nguyên: Từ người Hán là tên, chỉ 2 sắc dân này, người Trung Hoa
chính gốc được gọi là người Nam.
Người Lu có 3
chi: Tây Lu hay Thủy Cốc Hồn, Nam Lu hay Quan Liêu ở Sơn Tây và Hà
Bắc, Đông Lu hay Từ Liêu ở Sơn Đông và tên chính thức của họ
trong lịch sử là Hán Tộc. Ba triều đại lớn họ đã dựng
nên được sử Trung Hoa ghi nhận là:
*Nhà
Hán Tây và Đông + nhà Ngụy.
-Tiên
Ty thì tạo hẳn thành 2 nước:
*Nước Kim
*Nước
Mãn Thanh
III. Chủ nhân nền văn hóa, văn minh
Trung Hoa
Hai cộng
đồng người thuộc 2 loại hình nhân chủng khác nhau, sinh trú trên
2 địa bàn khác nhau, dĩ nhiên sẽ hình thành 2 nền văn hóa, văn
minh khác nhau nhưng văn minh cổ của Trung Hoa chỉ có một, vậy
cộng đồng nào đã tạo nên nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ? Mongoloit:
Hoa Bắc; hay Nam Á, Nam Đảo, Đông Nam Á.
Ngoại trừ những
tư liệu thành văn, vào thời đồ đá mô tả những gì không thể có
ở Hoa Bắc, ta có thể điểm thêm vài nét đặc trưng cấu thành văn
hóa Trung Hoa:
1.
cái ăn: lương thực chủ yếu của dân Trung Hoa là
lúa gạo, lúa gạo không thể trồng ở miền Bắc Trung Hoa vào
thời cổ.
2.
cái mặc: trang phục cho giới bình dân gọi là “bố” làm từ
sợi đay … nhưng đay là cây á nhiệt đới thì Hoa Bắc làm sao có
được …, trang phục cao cấp may bằng lụa do “lụy tổ” vợ của
Hoàng Đế sáng chế (theo truyền thuyết) … cũng không có được ở
bờ bắc Hoàng Hà, ví cây dâu tằm chỉ mọc được khi nhiệt độ
trên 17 độ C, như vậy “Lụy tổ” không thể ra đờiở bắc
Hoàng Hà.do điều kiện khí hậu cây dâu không thể mọc tự nhiên .
Có chi tiết cần
bàn thêm, dân Trung Hoa thờ “Tiên Tàm” coi như tổ ngành dệt lụa,
sao lại là Tiên Tàm? vì Tiên Tàm là cấu trúc Việt ngữ tương
tự như cấu trúc Thần Nông vậy.
3.
Chỗ ở: Truyền thuyết Trung Hoa nhất là truyền thuyết liên
quan tới Dịch Lý… đều cho biết thời Thái cổ người Trung Hoa
dựa trên hình tượng con rùa để làm ra nhà ở:
* mai rùa là
mái nhà.
*
yếm
rùa là sàn nhà .
*
4
chân là 4 cột nhà.
Như vậy là mô
tả cái nhà sàn, vì nhà sàn mới có sàn nhà và 4 cột chống
sàn hổng khỏi mặt đất. Nhà sàn là loại hình cư trú đặc trưng
của dân Đông Nam Á và dân thiểu số Trung Hoa ở Hoa Nam. Dân miền
bắc Trung Hoa hoàn toàn xa lạ với loại nhà này.
4.
về vận chuyển: cổ thư Trung Hoa đều mô tả việc thủy vận
là phương tiện chính, nhưng thủy vận không hề phát triển ở Hoa
Bắc thời trước Công nguyên, việc này cũng dễ hiểu vì phưong
tiện của thủy vận là thuyền và bè làm bằng tre kết lại.
Miền bắc Trung Hoa không có tre lớn đủ kết thành bè còn thuyền
thì thời cổ chỉ có thuyền độc mộc mà cả miền Hoa Bắc chắc
không có nổi 1 cây đủ lớn để làm thành 1 con thuyền.
5.
về văn hóa: trong suốt khảo luận này ta đã nói nhiều, ở
đây chỉ bàn thêm: thời Hạ Vũ có lệnh cho vùng “Cửu Giang” phải
cống rùa lớn, cống rùa lớn để làm gì ta đã biết nhưng “Cửu
Giang” là vùng nào? dựa trên chữ Củu có thể đoán là “Trường
Giang” ngày nay. Miền Hoa Bắc không có rùa lớn thì lấy gì mà
phát minh ra chữ khắc, từ đời Chu thì Sơn tây, Thiểm tây làm gì
có tre lớn để làm trúc thư?
Ở vùng đồi đã
khai quật mà người ta cho là kinh đô nhà Thương còn thu được rất
nhiều Long xỉ tức răng rồng có khắc chữ , ngày nay khoa học đã
xác định được đấy là những miếng ngà voi , hỏi bắc Hoàng hà
làm gì có voi để làm Long Xỉ ?
5 yếu tố văn
hóa trên xác định nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ là của
phương Nam hoàn toàn. Từ đời Ân Thương trở đi Hoa Bắc mới đóng
góp thêm yếu tố “ngựa” vào văn hóa, văn minh chung của Trung Hoa
Nguyenquangnhat
|