Sử thuyết họ HÙNG –Bài_2
-đường dẫn (tt)
Tiền nhân người Việt Nam đã truyền lại cho đời sau
nhiều chuyện cổ tích, đặc biệt là những truyện trước công
nguyên. Trong những câu chuyện trên có phần hư cấu, mới đọc
tưởng là chuyện tà ma, yêu thuật nhưng khi dùng chìa khoá
Dịch Lý để mở mới nhận ra chính là tâm huyết của người
xưa, khi đưa các mã tin của Dịch Lý vào các câu chuyện cổ
tích – kết hợp với cổ sử Trung Hoa và Việt Nam đối chiếu
với những khám phá của một số ngành khoa học hiện đại ta
có thể phục dựng lại nguyên bản của lịch sử, đúng như
những gì đã xảy ra, rửa sạch các lớp sơn ô uế mà ai đó đã
phủ lên lịch sử của con dân Việt Nam – con dân Họ Hùng trong
số đó quan trọng nhất là Hùng triều ngọc phả.
A- Hùng triều ngọc phả :
Dựa theo phả hệ Hùng Vương 18 đời được lưu truyền từ
xa xưa và con dân Việt coi như chính sử:
1 Hùng Dương Vương
2 Hùng Hiển Vương
3 Hùng Quốc Vương hay Thuấn Vương – Lâm Lang
4 Hùng Nghi Vương – Bảo Lang ( dị bản: Tân
Lang)
5 Hùng Hy Vương – Viêm Lang ( dị bản: Hùng
Anh Vương)
6 Hùng Hoa Vương – Hải Lang̣
7 Hùng Huy Vương – Long Tiên Lang
8 Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang
9. Hùng Ninh Vương – Thừa Văn Lang
10. Hùng Uy Vương – Hoàng Hải Lang ( dị bản: Hùng Vĩ
Vương)
11. Hùng Trịnh Vương – Đức Hưng Lang
12. Hùng Vũ Vương – Hiền Đức Lang
13. Hùng Việt Vương – Tuấn Lang
14. Hùng Định Vương – Chân Lang
15. Hùng Triệu Vương – Cảnh Triệu Lang (dị bản: Cảnh
Thiều)
16. Hùng Tạo Vương – Đức Quân Lang (dị bản: Đức tân)
17. Hùng Nghị Vương – Quang Lang
18. Hùng Duệ Vương – Huệ lang (dị bản: Duệ Đức)
Riêng tư liệu do Nguyễn Hồng Sinh sưu tầm có thêm Hùng
Vương thứ 19: Hùng Kính Vương?
B-Tóm tắt một số truyện cổ tích Việt .
Để giúp bạn đọc đặc biệt là các bạn trẻ dễ
dàng nắm bắt ý trong bài viết xin tóm tắt một số truyện
cổ tích Việt được dùng làm tư liệu dẫn chứng cho cả loạt
bài viết về lịch sử họ HÙNG .
1. Sự tích họ Hồng Bàng
Đế Minh là dòng dõi 3 đời của Viêm Đế Thần
Nông, đi dạo chơi phương nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp và kết
duyên cùng nàng Vụ Tiên (có dị bản chép là con gái bà Vụ
Tiên), sinh ra con trai đặt tên là Lộc Tục. Đế Minh rất thương
yêu và có ý định truyền ngôi “đế” cho Lộc Tục, nhưng Lộc
Tục quyết không dám nhận vì còn anh trai lớn cùng cha khác
mẹ là Đế Nghi. Sau Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi và phong
là vua phương bắc, Lộc Tục là vua phương nam. Lộc Tục lên
ngôi lấy hiệu là Kinh Dương Vương – đặt tên nước là Xích
Quỉ. Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ (dị bản chép là
Long Mẫu, là nàng Áng Mây) con gái của Động Đình Quân, vua
vùng hồ Động Đình, hạ sinh một con trai đặt tên là Sùng
Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long
Quân kết duyên cùng Âu Cơ con gái của Đế Lại và là cháu
của Đế Nghi. Âu Cơ sinh ra một cái bọc trong có 100 quả
trứng, sau nở ra 100 người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân
nói với Âu Cơ, “Ta là dòng dõi rồng vốn sống ở dưới nước,
nàng là dòng dõi tiên sống trên cạn nên không thể sống mãi
cùng nhau được” rồi Lạc Long Quân đưa 50 con xuống biển, Âu Cơ
dẫn 50 con lên núi Phong Châu, các con theo Âu Cơ tôn người con
trưởng lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương – đặt tên nước là Văn
Lang nước Văn lang bắc giáp hồ Động đình, Đông giáp Nam hải,
tây giáp Ba thục và nam giáp nước Hồ tôn. Dòng giống Việt
được hình thành từ đấy.
2. Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh
Sơn Tinh tên là Nguyễn Tuấn, sau còn các tên:
Nguyễn Huệ, Nguyễn Chiêu Dung, con của Nguyễn Cao Hạnh và bà
Đinh thị Dung, sau khi cha chết, mẹ con dẫn nhau lên ở núi
Ngọc Tãn. Ở đây Sơn Tinh được Ma Thị là chủ núi nhận làm
con nuôi, Nguyễn Tuấn được thần núi cho cây gậy thần có đầu
sinh đầu tử, do cứu được một con rắn (dùng gậy đầu sinh)
vốn là con vua thủy tề, được trao “sách ước” đễ tạ ân,
sách ước có 3 trang (không rõ 3 trang gì).
Vua Hùng Vương thứ 18 mở hội kén chồng cho
Mỵ Nương Ngọc Hoa là con gái yêu của vua. Cả Sơn Tinh và
Thủy Tinh đều đến cầu hôn, vua Hùng phân vân không biết chọn
ai, vua quyết định ai đem sính lễ đến trước sẽ gả công chúa
cho. Sơn Tinh nhờ có sách ước (?) nên chuẩn bị nhanh chóng
lễ vật và đến trước, vua Hùng ưng ý và gả công chúa Ngọc
Hoa cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau nên không lấy được vợ, nổi
giận dâng nước lên đánh Sơn Tinh, nhưng Sơn Tinh nhờ có sách
ước, gậy thần làm phép hể nước dâng lên thì núi cao lên
thêm mãi, và nhờ gậy thần “đầu sinh đầu tử” nên binh tôm
tướng cá tan tành phúc chốc, đất nước hưởng thanh bình,
Thủy Tinh đành chịu thua và rút lui. Sau Hùng Vương truyền
ngôi cho con rể là Sơn Tinh vẫn lấy hiệu là Hùng Vương.
3. Chuyện bánh dày bánh chưng
Vua Hùng đã già bèn nghỉ ra cách để tìm
người kế vị. Vua bèn ra lệnh cho các hoàng tử (các Lang) ai
dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ
được vua truyền ngôi. Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để
tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống
rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính
hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua
cha, chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ
dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh
màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ
trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành
hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua
cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là
tầm thường. Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được
vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày
hình tròn tượng trưng cho trời. Bánh chưng hình vuông tượng
trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa
của đạo trời đất, và vua quyết định truyền ngôi cho Lang
Liêu.
4- Truyện Thánh GIÓNG.
Giặc Ân sang xâm chiếm nước ta, thế giặc mạnh mẽ
lắm nhà vua cho truyền rao khắp nơi kêu gọi người tài ra
chống giặc cứu nước.
Ở làng Phù đổng tổng Võ ninh có 1 cậu bé đã 3
tuổi mà chưa biết nói vậy mà khi thiên xứ của vua đến bỗng
đứa trẻ ấy lên tiếng xin nhà vua ban 1 con ngựa sắt và 1 cây
gậy sắt để đi chống giặc, rồi cậu dục cha mẹ thổi cơm cho
mình ăn để lên đường cho kịp lệnh vua, ăn hết nồi này cậu
lại đòi thêm nồi khác đến khi nhà hết gạo thì cả dân làng
tật trung nồi và gạo để thổi cơm cho cậu ăn... khi đã no
đứa bé đứng dậy vươn vai 3 lần biến thành chàng thanh niên
cao lớn khoẻ mạnh phi thường, vừa kịp khi nhà vua cho mang
ngựa sắt và roi sắt đến chàng liền phóng lên ngựa cầm roi
sắt phi ra trận tiền ,ngựa đi đến đâu giặc tan tác đến đó
hết lớp này đến lớp khác đến nỗi gãy cả gậy sắt chàng
liền nhổ tre vung lên đánh giặc hết bụi này đến bụi khác.
xác giặc và tre vươn vãi khắp nơi nên về sau khắp nước ta
đâu đâu cũng có tre mọc.
Phá xong giặc ngài cưỡi ngựa sắt bay về trời ở
vùng núi Sóc sơn,từ đó nước ta mãi mãi vua cho lập đền
thờ và phong là Phù Đổng Thiên Vương , dân gian gọi ngài là
thánh GIÓNG.
5. Chuyện nỏ thần
Thục An Dương Vương xây thành ở đất Việt
Thường, nhưng thành xây mãi không xong, cứ xây rồi lại đổ.
Nhà vua lập đài cầu khấn thì thần Kim Qui hiện lên xưng là
Thanh Giang Sứ Giả chỉ cho vua cách trừ yêu quái nên thành
xây không đổ nữa. Thành xây 9 lớp và xoáy như hình con ốc,
vua đặt tên là Thành Cổ Loa. Trước khi giả từ thần Kim Qui
còn tặng vua một cái vuốt để làm vật báu trấn quốc. An
Dương Vương sai tướng quân Cao Lỗ dùng vuốt rùa chế thành nỏ
thần gọi là “Thần nỏ rùa vàng”, khi giặc xâm lăng vua mang
nỏ thần ra bắn thì quân giặc tan tác ngay. Thấy vậy, Triệu
Đà vua nước kế bên vẫn có dã tâm thôn tính nước ta, lập kế
cầu hòa, xin cho con là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương
là Mỵ Châu, ở rể tại Âu Lạc. Vốn sẵn âm mưu Trọng Thủy
hỏi dò vợ về nỏ thần; Mỵ Châu mất cảnh giác đem nỏ thần
cho xem, Trọng Thủy bèn tráo và trả lại cái nỏ giả, rồi
về nước báo tin cho cha. Được tin Triệu Đà cất quân đánh An
Dương Vương; vì đã mất nỏ thần nên An Dương Vương thua chạy –
cha con đến cửa biển Nghệ An khấn thần Kim Qui, thần hiện
lên bảo “Giặc đang ngồi sau lưng nhà vua đấy”, nhà vua biết
muôn sự do Mỵ Châu gây ra, nên tuốt gươm chém con rồi cầm
sừng Văn Tê 7 tấc đi vào biển.
6. Sự tích trầu cau
Hai anh em trai tên là Tân và Lang giống nhau
như 2 giọt nước, cha mẹ mất sớm nên 2 anh em vô cùng thương
yêu và đùm bọc lẫn nhau. Rồi người anh là Tân lấy vợ, anh
em vẫn ở chung nhà; vì 2 người giống nhau như 2 giọt nước
nên người chị dâu không thể phân biệt được chồng và em,
khiến Tân nhiều khi hiểu lầm nghi oan cho em. người em bỏ nhà
ra đi, đi mãi tới bên bờ suối kiệt sức ngồi nghỉ rồi chết
biến thành tảng đá. Người anh thấy mất em, vô cùng ân hận
và ra đi, quyết tìm cho được em, nhưng đi mãi đi mãi vẫn
không tìm được, thấy có tảng đá thì ngồi đấy khóc mãi cho
tới chết, và cạnh tảng đá mọc lên một cây cau. Người vợ
cũng ra đi tìm chồng và em. Khi đến bờ suối thấy có tảng
đá và cây cau liền ngồi nghỉ và chết tại đấy, hồn biến
thành dây trầu không mọc leo từ tảng đá quấn lấy cây cau.
Vua Hùng tuần du đến đấy nghe kể chuyện thì
rất xót xa cho tình nghĩa anh em và vợ chồng bèn sai nung đá
thành vôi, ăn vôi với trầu và cau thì thấy có hương vị đặc
biệt và tạo nên chất nước đỏ thắm, mọi người đi theo đều
bắt chước vua. Từ đó có tục ăn trầu ở nước ta, cũng do
tích này trầu và cau trở thành của sính lễ cầu hôn bắt
buộc trong phong tục người nước mình.
7. Sự tích tục xâm mình
Thời vua Hùng, dân ở núi xuống nước đánh
bắt cá thường bị loài thuồng luồng làm hại, bèn cùng nhau
tâu lên vua, vua phán: “Các giống ở trên núi khác với giống
loài ở dưới nước. Các loài ở nước chỉ ưa những gì giống
với mình và ghét những gì khác mình vì vậy dân ta mới bị
gây hại.” Nói rồi vua ra lệnh cho những ai xuống nước phải
lấy màu xâm lên mình hình giống thủy quái. Từ đó không bị
thuồng luồng làm hại nữa. Tục vẽ mình của dân Việt có từ
đó.