|  | 
		
		Phần 2 : Sử thuyết . 
		
		
		                                        
		 
		
		          
		  Phân kỳ lịch 
		sử của sử thuyết họ HÙNG : 
			
			
			A-   
			Thần thoại Trung- Hoa 
			
			B-    
			18 
			
			 Hùng triều 
			
			C-   
			Lịch sử họ Hùng- cổ 
			và trung đại 
			
			D-  Phụ chương . 
			
			
			                                                             
			********** 
		
		
		        
		 
		
		
		  
		
		A. Thần thoại Trung -Hoa . 
		
		Khi cứ suy tưởng mãi về quá 
		khứ, đến một điểm nào đó con người bươc phải dừng lại, điểm 
		dừng này sẽ trùng theo trình độ khoa học và trí tưởng tượng 
		của con người. Ngày nay với khoa học tiên tiến, quá khứ hình 
		thành loài người được đẩy ra tới 4 hay 5 triệu năm trước đây. 
		
		Thần thoại Trung Hoa thể hiện 
		vai trò to lớn của con ngưòi sánh ngang thiên địa qua chuyện ông 
		Bàn Cổ. 
		
		
		1.
		Thời Bản Cả – Tựu Nhân: (4,5 triệu – 500.000 trước CN) 
		
		Sách vở ghi là ông Bàn Cổ, 
		nhưng Trong Hoa ngữ chử Bản Cổ chẳng có một ý nghĩa nào … 
		không lẽ hiểu thủy tổ của Trung Hoa là ‘Cái bàn cũ’? 
		
		Bản Cổ là ký âm sai của chữ 
		Bản Cả trong tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa Bản Cả tương đương 
		với ‘Hương Cả’ trong ngôn ngữ hiện nay. Bản là đơn vị hành 
		chánh cơ sở có gốc từ Khmer: Phum, sóc. Sóc biến âm Hoa – Việt 
		là ‘Sách’, ‘Xá’, ‘Xã’, Phum biến thành buôn, ban ở các dân tộc 
		thuộc ngữ hệ Khmer trên cao nguyên Việt Nam. Qua miền Thượng du 
		Bắc Việt thì biến thành bản. Bản làng là từ ghép ta hay gặp. 
		Bản nghĩa thông thường là ‘gốc’. Bản theo hành chánh là đơn vị 
		cơ sở. ‘Cả’ từ Việt là thứ nhất, đứng đầu, “Bản Cả”  dịch 
		với  ý nghĩa lịch sử là : “Thủy tổ của cộng đồng” . 
		
		Người Á Đông quan niệm rằng 
		người tức là: Đầu đội trời chân đạp đất; hoàn toàn trùng 
		khớp với chữ “homo erectus” của khoa học hiện đại tức người 
		đứng thẳng, hay người đi bằng đôi chân, nếu ta đem định nghĩa 
		theo khoa học áp dụng vào thủy tổ Bản Cả thì Bản Cả mới 
		xuất hiện trên trái đất khoảng 4 hay 5 triệu năm; nhưng trong 
		thần thoại thì thủy tổ con người xuất hiện cùng lúc với trời 
		đất, vũ trụ. 
		
		  
		Ông Bản Cả xuất hiện từ “Thái hoang khi 
		trời đất còn là một khối hỗn mang, trong đó chưa có âm thanh 
		và ánh sáng, ông lấy cái rìu bổ vào khối hỗn mang đó, lúc 
		lưỡi rìu chạm vào khối hỗn mang chính là vụ nổ “Big bang” thế 
		là chất nhẹ , trong bay lên thành trời; chất đục, nặng chìm 
		(lắng) xuống thành đất … (trong thần thoại đã thấp thoáng bóng 
		khoa học), và vũ trụ được hình thành, ông Bản Cả chính là 
		thủy tổ loài người.” Ta thấy Sáng thế ký Trung Hoa đã vận 
		dụng ý niệm cơ bản của Dịch Lý trong việc tạo lập vũ trụ. 
		Vũ trụ quan chứa trong Dịch Lý là: trời đất cùng một thể gọi 
		là khí, sau đó khí nhẹ, trong bay lên thành Hà (trời 
		cao), chất đục nặng trầm xuống thành Lục (đất dày). Ngay 
		từ khởi nguyên, Dịch Lý đã gắn liền với lịch sử Trung Hoa và 
		lịch sử Việt Nam ; hiện nay chính các học gỉa Trung quốc cũng 
		thừa nhận tích Bàn Cổ sáng thế bắt nguồn từ truyện Bàn Hồ 
		của các dân tộc ớ phía nam trường giang ;nói như thế chẳng 
		khác nào đã thừa nhận dịch lý không ra đời ở cái nôi Hoàng 
		hà của Hán tộc . 
		Thời điểm này 
		chỉ là lúc vượn người nhảy vọt thành người vượn, tức là 
		người nguyên thủy, dần dần họ hoàn chỉnh hệ thống tín hiệu âm 
		thanh tức tiếng nói và trung khu thần kinh Tiếng nói trong não 
		bộ con người,con người đã tiến từ con người riêng rẽ hay cá 
		thể thành con người của cộng đồng tức là hình thành xã hội 
		nguyên thủy. Đây là bước tiến vô cùng lớn lao vì thông qua ngôn 
		ngữ, tri thức cá nhân biến thành tri thức cộng đồng do sự 
		truyền đạt lẫn cho nhau, khối tri thức của mỗi người lớn nhanh 
		lên gấp ngàn lần, não bộ cũng phát triển để thích ứng, do đó 
		tăng từ 1.000 cm3 lên 1.300 cm3, tức thể tích 
		não của con người cận đại ‘homo sapien’. Thời kỳ này cũng được 
		đánh dấu bằng việc con người biết chế tác và sử dụng công cụ 
		đá đẽo, nhưng phải đợi đến khi con người có một thành tựu 
		tuyệt vời không loài động vật nào có được đó là việc biết 
		dùng lửa thì con người mới chính thức mới vượt qua thời 
		“nguyên thủy”. Đó cũng chính là lúc mà Dịch gọi là: ‘Thái 
		Cực sinh Lưỡng Nghi’, vật chất có hình thể có thể cầm nắm 
		được là Dương; vật chất trừu tượng và không nắm bắt được gọi 
		là Âm, lúc đó con người mới trở thành sáng suốt hay homo 
		sapien, người cận đại. Con người hội đủ những đặc trưng trên 
		vào khoảng cách đây 500.000 năm và trở nên con người sáng suốt. 
		Thần thoại Trung Hoa gọi là Tựu nhân tức đạt ‘danh hiệu’ 
		người đúng nghĩa ; còn toại nhân nghĩa là “khoan cây lấy 
		lửa” như ghi trong sách vở không đáng để đánh dấu một giai đoạn 
		trên bước đường trở thành người đúng nghĩa.  
		Ý nghĩa dịch 
		lý của thời kỳ này là con người hình thành khái niệm về bản 
		chất của thế giới mình đang sống; chung qui cấu tạo chỉ bởi 2 
		chất : chắc và óp, chất chắc thì đục và nặng, chất óp thì 
		nhẹ và trong,vật lý hiện đại gọi là vật chất và năng lượng. 
		
		b. Thời Vũ Võng – Đế họ 
		Sào (500.000 – 20.000 trước CN) 
		Thời Homo sapien 
		phương Đông tiếp thời Bản Cả – Tựu nhân khoảng nữa triệu năm 
		trước và kéo dài đến 20.000 năm, thời gian này khảo cổ học 
		gọi là thời chuyển tiếp từ đá cũ sang đá giữa. Nguyên văn cổ 
		thư ghi là thời dũ võng, võng là cái lưới, ngư võng là cái 
		lưới cá. Người Việt dùng chữ ‘võng’ để chỉ vật dụng đan bằng 
		dây, mắt lớn dùng để nằm vì hình dáng giống như cái lưới 
		nhưng công dụng thì khác. ‘Dũ Võng’ chẳng có nghĩa gì cả, 
		nhưng khi ta ký âm lại: Dũ 
		→ Vũ 
		(Vũ = Vua) loài người tiến lên một bước trên đường đến văn minh, 
		cộng đồng người từ cách sống bầy đàn chuyển sang xã hội. 
		Bước sang xã hội loài người thì một từ mới xuất hiện, vua, 
		Vua Võng là vị vua đầu tiên đánh dấu bước tiến con người biết 
		chế tạo công cụ, thời đồ đá cũ chỉ có thể gọi là chế tác … 
		vì sự gia công rất ít, bản thân vật thể đã là một công cụ, 
		sự chế tác chỉ tăng thêm chức năng khi sử dụng, còn sang thời 
		Vũ Võng đã là chế tạo vì bản thân tự nhiên không sinh ra thứ 
		đó để làm công cụ cho loài người, với sự thông minh của đầu 
		óc, đứng trước một nhu cầu và với vật liệu có sẵn trong thiên 
		nhiên, với đôi tay khéo léo con người đã biến thứ vô dụng thành 
		hữu dụng, đây là khả năng chỉ có nơi có người, khi chế tạo 
		võng để bắt thú, lưới cá làm thức ăn cho mình dần dần các ý 
		niệm, sợi ngang, sợi dọc (kinh và vỹ), khoảng trống, khoảng 
		liền, sự nối kết bằng nút thắt, những ấn tượng ban đầu đó 
		chính là sự khởi đầu của các dấu hiệu, nền tảng của tư duy 
		khoa học sẽ dần hình thành về sau. 
		Qua giai đoạn 
		này, con người đã bước hẳn sang là con người xã hội; nếp sống 
		và nếp nghĩ, tâm tư – tình cảm, sự suy tưởng đều mang dấu ấn 
		của cộng đồng, đời sống hàng ngày trở thành sinh hoạt xã 
		hội, mà mỗi cá nhân không thể tách biệt được, như thế ngoài 
		môi trường tự nhiên từ nay con người có một môi trường khác đó 
		là xã hội, cuộc sống không chỉ là sự tương tác giữa cá thể 
		và tự nhiên mà có thêm tương tác mới: tương tác con người và 
		môi trường xã hội; tương tác là tác động hai chiều trong đó 
		bản thân con người chịu sự “uốn nắn” của xã hội và ngược lại 
		chính xã hội cũng chịu sự cải tạo của con người, cứ như thế 
		mà tiệm tiến từng bước một. Tương tác giữa người – tự nhiên 
		cũng tác động đến tương tác người – xã hội và ngược lại – 
		kết quả tổng hợp của 2 mối quan hệ là sự tiến bộ. Đấy là cơ 
		chế vận hành: Tam Tài: Thiên – Nhân – Địa trong Dịch Lý. 
		Tiếp theo bước 
		tiến thời Vũ Võng đến nấc thang: Đế họ Sào. Sách sử Trung Hoa 
		ghi là: Đế họ Sào và giải thích: Sào là cái tổ chim … con 
		người bắt chước chim làm tổ trên cây để cư trú tránh bị thú 
		dữ làm hại, Hữu Sào là đễ chỉ giai đoạn con người có Tổ, 
		hữu sào là có tổ; trên đường tới văn minh của con người không 
		thấy có đề cập đến thời làm tổ ở trên cây, đó chỉ là sự 
		tưởng tượng để cố lý giải nghĩa đen theo mặt chữ đã được ghi 
		trong cổ thư Trung Hoa. 
		Có cách “giải” 
		khác hợp với lịch sử hơn nhiều: 
		- Hữu là ký âm 
		sai của chữ ‘họ’ trong tiếng Việt. 
		- sào là cây 
		sào, 1 đoạn cây bằng tre (từ thuần Việt) 
		Chữ ‘hữu’ = 
		‘họ’ chỉ thị tộc. Sào là cái cây gậy bằng tre mà các nhà 
		thiên văn học, tiền bối người Việt dựng nên đo bóng nắng xác 
		định thời khắc trong một ngày. Đúng y như hình khắc trên trống 
		đồng. Dựa theo bóng nắng đổ con người xác định phương Đông và 
		Tây tức phân chia không gian, và so với các vạch (khắc) được 
		vạch sẵn trên mặt đất mà phân chia thời gian.  
		Ý nghĩa dịch 
		lý Thời Họ Sào là thời con người hình thành khái niệm về vũ 
		trụ- Thời gian và Không gian, đánh dấu việc con người bắt đầu 
		biết “tư duy trừu tượng” với chữ Thời vì thời gian đâu có hình 
		tích gì, cứ hết ngày lại đêm, sáng trưa chiều tối rồi lại 
		sáng trưa chiều tối… ý niệm về sự tuần hoàn của vũ trụ và 
		ý niệm chu kỳ được nảy sinh: sau này là nền tảng của Dịch 
		Lý. 
		So sánh vị trí 
		của mặt trời và mặt đất con người tổng hợp thành 4 ban và 4 
		bên.  
		- ban sáng, ban 
		trưa, ban chiều, và ban đêm. 
		- bên mọc (mục), 
		bên trên, bên chiều (chiêu) và bên dưới. 
		Động từ mọc 
		được chữ Nho ký âm thành ‘mục’, bên mục, Hành Mộc, tiếng Việt 
		biến thành bên mặt còn gọi là bên phải. Chữ chiều viết thành 
		chiêu – siêu, còn có nghĩa là bên trái, Hoa ngữ chiêu là nghỉ 
		ngơi, ngủ nghỉ. Khi ta để tay mặt hướng về hướng Mọc (mặt 
		trời), tay chiêu về hướng Siêu thì mắt ta nhìn về hương Nom, nom 
		chữ Nho ký âm thành Nam.  
		Từ xa xưa với 
		Hà Thư (Đồ), tổ tiên người Việt đã chỉ rõ không gian 3 chiều 
		và thời gian 1 chiều, cùng kết hợp để trở thành vũ trụ, đó 
		là thế giới quan không khác gì với thế giới quan ngày nay theo 
		thuyết tương đối. Chữ ‘thời khắc’ nghĩa là ‘vạch thời gian’ về 
		nghĩa có sự cộng hưởng với cảnh đo bóng nắng được khắc trên 
		trống đồng. Ban ngày 5 vạch gọi là 5 mồng hay mùng; tưởng 
		tượng ra 5 vạch cho ban đêm gọi là 5 canh. 5 + 5 = 10 gọi là Thập 
		Can hay theo từ Việt là “chục con”, con đây là con số hay con 
		chữ, chính 10 con số là những chữ đầu tiên trong “kho chữ” của 
		loài người sau này. Hà Thư cũng cho ta biết: ngày xưa người 
		Việt dùng cơ số 5 chứ không phải cơ số 10 như ngày này. 
		4 số sinh: 1, 2, 
		3, 4, và một số mẹ là số 5; tạo ra (5+1) = 6; (5+2) = 7; … 
		Hiện nay người 
		Khmer vẫn dùng cơ số 5 này.  
		Tóm tắt: Cổ thư 
		Trung Hoa gọi là Vũ Võng, Hữu Sào chỉ thời con người tiến từ 
		người nguyên thủy thành người sáng suốt thời khoa học gọi là 
		“homo sapien”, theo niên đại khảo cổ học là giai đoạn kết thúc 
		thời đồ đá cũ bước sang thời đồ đá giữa, cách nay khoảng 
		20.000 năm, khảo cổ học Việt Nam gọi là thời văn hoá Sơn Vi lấy 
		tên một địa điểm khảo cổ ở tỉnh Phú Thọ, phiá Bắc Việt Nam. 
		
		Vũ Võng, Họ Sào cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quí 
		giá trong việc xác định địa bàn cư trú lúc loài còn sơ khai, 
		đó chắc chắn là vùng nhiệt đới vì cái võng lưới ban đầu chỉ 
		có thể được đan bằng những sợi dây leo, và dây leo là sản vật 
		của rừng nhiệt đới. Cây sào cũng là sản phẩm miền nhiệt đới, 
		nơi có những cây tre cao tới 10 – 15m, và cây tre rất thân thiết 
		với người Việt, người Việt có thể tạo ra mọi vật dụng hàng 
		ngày bằng tre, từ nhà ở, thay thế cho cái nồi để nấu cơm, 
		ghế, bàn, cho đến cái thúng, cái rổ và cây bút ban đầu chác 
		cũng làm bằng tre vót nhọn đầu, cũng có thể chẻ tre làm lạt 
		buộc, nối kết các vật lại với nhau, chắc chắn phương tiện 
		thủy vận đầu tiên là bè, mảng kết bằng tre, vì cấu tạo bản 
		thân cây tre lớn đã là cái phao tự nhiên, chỉ dân tộc thân thiết 
		với cây tre như thế mới có thể phát sinh ra “sách thẻ tre” hay 
		trúc thư. Tre lớn trong tự nhiên chỉ mọc ở vùng nhiệt đới, 
		càng lên phía bắc tre càng nhỏ lại vượt qua Tứ Xuyên, Dương Tử 
		tre chỉ to bằng cẳng tay, xa hơn về hướng bắc (hiện nay) tre chỉ 
		bằng cỡ ngón tay người Hoa gọi là trúc. Sau này người ta đã 
		thành công trong việc di thực tre lên phía Bắc nhưng cũng không 
		thể có loại tre lớn được. Việc dựng cây sào đo bóng nắng để 
		phân chia thời gian và định phương hướng vẫn còn lưu dấu trong 
		tục dựng cây nêu ngày tết của người Việt, khoa dân tộc học đã 
		cho thấy những điều này không hề có trong phong tục cư dân vùng 
		Hoàng Hà – tức Hãn tộc.     |