Bài 5 : Sử thuyết họ HÙNG
***
Thần thọai Trung
hoa tt
Nhân
chủng học xác định người họ Hùng thuộc chủng Monggoloit nhánh
phương nam.
-
Tiểu chủng Mongoloit Sống ở Bắc Trung Hoa, Mông Cổ,
Siberia, và Eskimo. Riêng Triều Tiên và
Nhật Bản ít nhiều đã hỗn chủng với những chủng tộc khác.
-
Tiểu chủng Mongoloit phương Nam
quần tụ ở bờ Nam Dương Tử và ĐôngNamÁ..
gồm có 2
nhánh:
+ Nam
Á
+
Nam Đảo: hay Indonesien
Người Việt mang đặc
trưng của cả 2 nhóm Nam Á và Nam Đảo, ở
bất cứ nơi nào trên đất nước đều có mặt cả 2 nhóm trên. Sự
kết hợp lâu đời và nhuần nhuyễn tới độ khó có thể phân biệt,
Ngay trong một gia đình cũng có thể có mặt cả 2 loại hình Nam
Á, và Nam Đảo, chuyện anh da trắng tóc thẳng (đặc điểm Nam Á),
em da ngăm tóc quăn (đặc điểm Nam Đảo) là chuyện không hiếm ở
Việt Nam.
Nhóm Mongoloit Trung
Hoa (tạm gọi như thế) sống dọc theo Hoàng Hà, từ Tây sang Đông
từ khoảng thời gian cách đây từ 8.000 đến 6.000 năm, họ để lại
các di tích khảo cổ học gọi là văn hoá gốm đỏ, gốm đen và
sau cùng là gốm xám được phát hiện ở Hà Nam. Cách đây khoảng
6.000 năm.
Phía
Nam Trường Giang là nơi sinh sống của 2 nhánh
thuộc tiểu chủng Nam Á và Nam Đảo, nhánh
Nam Đảo đã để lại dấu ấn văn hoá dọc duyên hải Hoa Nam, nổi
tiếng nhất là văn hoá khảo cổ Hà Mẫu Độ ở Phúc Kiến – Chiết
Giang.
Khảo
cổ học đã tìm được nhiều hiện vật còn tồn trong lòng
đất của 5 nền văn hoá cổ lớn ở Đông Dương và vùng liền kề
mang dấu ấn niên đại từ khoảng trước 10.000 năm đến 7.000 năm
trước Công Nguyên.
1. Văn hoá khảo cổ
Soi Nhụ – Cái Bèo là tiền thân văn hoá Hạ Long.
2. Văn hoá Hòa
Bình, nổi tiếng khắp thế giới và được các nhà khảo cổ coi
như tiêu biểu cho toàn vùng Đông Nam Á.
3. Văn hóa Bắc Sơn
và vùng núi phía Bắc Việt Nam, nền văn hóa này đã để lại 2
mốc của lịch sử tiến hóa của toàn vùng: đó là cái rìu bằng
đá mài đầu tiên, và những mảnh gốm đầu tiên.
4. Văn hóa
cổ tiêu biểu cho Miền Trung và Nam Việt
bước đầu đã có những khám phá quan trọng, các nhà khảo
cổ đang tiếp tục đào bới tìm kiếm, kết quả ban đầu tuy chưa
nhiều lắm nhưng cũng đủ để khẳng định một nền văn hóa cổ.
5. Nền văn hóa Trung
và hạ Mekong hay sông Cửu Long: chủ yếu ở vùng Đông Bắc
Thái Lan và trung-nam Lào
Vượt qua Sơn Vi lùi
về quá khứ đến tận thời đồ đá cũ ở Việt Nam có các di chỉ
Núi Đọ nổi tiếng và linh thiêng. Khi ấy con người ở chế độ
thị tộc mẫu hệ, loại hình xã hội đầu của con người khi vừa
bỏ qua loại hình bầy đàn và xa hơn nữa cũng có những vết
tích của con người… chứng tỏ con người đã có mặt ở vùng đất
này từ thời Thái cổ và liên tục phát triển cho đến tận hôm
nay. Từ những câu truyện truyền miệng sau này được ghi lại ở
Việt Nam và Trung Hoa, ta có thể tổng hợp để viết truyền
thuyết lịch sử tức là loại hình nửa truyện nửa sử, nửa thực
nửa hư . Chuyện thần tiên và con người quấn chặt vào nhau nhưng
nếu khéo gở ta có thể thu lượm được những thông tin tương đối
chính xác, gọi là tương đối vì dù khoa học tiên tiến đi chăng
nữa thì cũng phải chấp nhận 1 sai số thời gian, chỉ đến thời
Lịch Sử thì sai số này mới bằng không.
Truyền thuyết lịch
sử Việt Nam chủ yếu dựa trên 2 tác phẩm “Lĩnh Nam Chích Quái”
và Việt Điện U Linh” được biên soạn từ thế kỷ 13 và 15 không
nhắc tới thần thoại, vì vua xa nhất được biết đến là Thần
Nông, mãi tới năm 2003 Nguyễn Hồng Sinh mới công bố trong cuốn
“Kinh Dịch Huyền Diệu và Ứng Nghiệm” 2 vì vua trước Thần Nông:
đó là Đế Hòa thường gọi Hy Thúc hay Hy Hòa, vua của Lịch pháp
… đáng chú ý là tổ bà tên là NỮ HOÀNG ANH. Kế tiếp là Phục
Hy hay Bào Hy có tên Việt là Vua Cả – tổ của Hư không giáo, và
tác giả cho Hư không giáo chính là Dịch
Lý. Đối chiếu với truyền thuyết Trung Hoa có sự trùng khớp –
trước Viêm Đế Thần Nông là Bào Hy hay Phục Hy tổ của Dịch Lý.
Thuyết Quái ghi: “Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời,
cúi xuống xem nét đất, quan điểu thú chi văn, gần thì thấy
chính mình… để tác dịch” chữ Vua Cả đích thị là
từ dịch của Thái cao (Chữ Nho) . Trước Bào Hy là Đế Hòa
hay Hy Hòa, Đế Hy Hòa làm lịch đã được ca dao Việt Nam xác
nhận:
“Ai về nhắn họ Hy Hòa
Nhuận đêm sao chẳng nhuận vài
trống canh”
Sự than thở của đôi
trái gái mới cưới tiếc đêm qua mau quá… 2 câu này rõ ràng nói
Hy Hòa là tổ của Lịch pháp. Ở phần mới công bố này ta có
được thông tin vô cùng quí giá: Tổ bà là Nữ Hoàng Anh trùng
tên với 2 bà vợ công chúa con Đế Nghiêu gả cho Đế Thuấn
là Nga Hoàng và Nữ Anh … cũng trùng hợp
với thông tin Vua Nghiêu lệnh cho Hy Thúc … Trạch Nam Giao … từ
mắt xích này ta lần ra một chuỗi sự kiện tiếp nối:
Bào Hy – Thần Nông –
cách 2 đời-Hoàng đế-Đế Nghiêu – Đế Thuấn – Đại
Vũ.
Nguyễn Hồng Sinh dựa vào tư
liệu dân gian có chút lầm lẫn, Đế Hòa tức Hy Hòa không thể có
trước Thần Nông và Bào Hy được, Qua 2 thông
tin trên ta có thể khẳng định: Hy Hòa hay Hy Thúc chính là Đế
Thuấn hay Ngu Thuấn là vị vua đã truyền
ngôi cho ông Vũ, và đất Nam Giao nơi Hy Thúc đến theo lệnh vua
Nghiêu chính là đất Quảng tây thuộc Lĩnh nam sau
này.
Nam giao là một
địa danh được viết theo cấu trúc Việt văn nghĩa là vùng
đất ở phía nam Giao chỉ vì thời Nghiêu Thuấn cách nay
khoảng 6000 năm thì Trung hoa cổ ở tận Sơn tây không thể nào với
tới đất Giao chỉ để có một Giao chỉ ở phương nam (nếu
hiểu Nam giao theo cấu trúc Hán văn).
Đã có Nam giao
tất phải có Giao chỉ vậy Giao chỉ ở đâu ?
Thực ra Giao chỉ
là từ chuyển ngữ từ Việt sang Hán ngữ , nguyên gốc là
Giữa hay vùng đất ở giữa thiên hạ khi dịch sang
hán ngữ buộc phải tạo từ bằng cách ghép 2 chữ :giao
nghĩa là giao cắt,gặp gỡ và chỉ là ký
âm từ chỗ của tiếng Việt, trọn nghĩa từ ghép này là
: nơi hay chỗ bốn phương giao hội ;vậy đã rõ Giao chỉ
là 1 địa danh nên từ nay xin chấm dứt lối giải thích vớ vẩn
....2 ngón chân cai bè ra nên khi đứng chạm nhau ....,Giao
chỉ hay đất Giữa là quốc thổ của người Việt từ ngàn xưa tương
đương với vùng bắc –trung và bắc Việt ngày nay, người Hoa còn 1
cách gọi khác :đất Việt là đất YUÊ thực ra Yuê chỉ là thổ âm
của từ Giữa mà thôi có điều lạ không hiểu tại sao Việt nho
lại đọc chữ Yuê thành Việt như hiện nay phải chăng đây là 1
kiểu đi tắt...nhấn mạnh Giao là Việt và Việt cũng là
Giao-Giữa....
Sử thuyết họ
Hùng đặt chương thần thọai lên đầu vì đấy là thời ông Bành tổ
xa xưa lắm , chuyện hoàn tòan do tưởng tượng nên ‘phi’ không và
thời gian , vậy bạn đọc đừng bao giờ đặt câu hỏi ...ở đâu,lúc
nào ...sẽ không có câu trả lời về nơi sinh trú của ông bàn cổ
cho đến đế Hữu sào vì chỉ là thần thoại ..., huyền sử Việt
không có phần này nhưng thực kỳ lạ nếu xét danh hiệu các vua
thái cổ của thần thoại Trung hoa theo nghĩa trong Hoa ngữ thì
chẳng có gì liên quan tới lịch sử, thậm chí như ngớ ngẩn ...
không lẽ thuỷ tổ Bàn cổ của Trung hoa là ... cái bàn cũ
?...đế Hữu Sào là vị vua phát minh ra cách làm nhà trên ngọn
cây như loài chim...?nhưng khi biên tập lại lấy Việt ngữ làm gốc
như đã trình bày thì đúng là những dòng sử sâu thăm thẳm tương
đương sách sáng thế ký của phương tây.
Tiếp nối
thần thọai là phần dã sử, dã sử được viết dựa trên truyền
thuyết lịch sử tức đã có 1 phần sự thật làm nòng cốt từ đó
mới hư cấu thành truyện, thêm vào những nhân vật những địa danh
những tình tiết khiến câu truyện trở nên mạch lạc hấp dẫn và
có ý nghĩa.
Đặc biệt
truyền thuyết lịch sử Việt ở thời giáp công nguyên đã được xử
dựng như một phương thức đặc thù truyền lưu lịch sử đích thực
cho hậu thế, đấy là những bức thông điệp nhắn gửi cho con cháu
về những bất thường của lịch sử dân tộc được ngụy trang dưới
lớp vỏ bọc là những chuyện hoang đường trâu ma rắn thần...,
nay nếu chúng ta khéo chắt lọc sẽ thấy được những lời nhắn
nhủ đó, chắc chắn là những điều vô cùng quan trọng vì nếu
không thì tiền nhân chúng ta đâu phải khổ công để truyền đời
như vậy, đời cha học thuộc lòng rồi kể cho đời con ... cứ như
thế truyền đến ngàn năm...mong mỏi rằng sẽ có ngày dân tộc qua
cơn bĩ cực con cháu sẽ giải mã được những thông điệp của quá
khứ tìm lại được nguồn gốc đích thực của dòng giống mình.
Trước khi đi
vào phần dã sử cần thiết phải minh định ý nghĩa 1 số từ.
Ở trên ta
đã biết :Lãnh thổ của Hữu Hùng quốc là đất GIỮA còn dân tộc
? , theo truyền thuyết họ Hồng bàng thì Kinh dương vương đặt tên
nước là “xích qủy” nghĩa là nước... 'quỷ đỏ' ?,thực ra đó
chỉ là sản phẩm của ...tam sao thất bản mà thôi, chữ quẻ đã
biến thành chữ quỷ nên mất hết ý nghĩa, ‘xích quẻ’ hay ‘xích
quái’ nghĩa là quẻ màu đỏ tức quẻ Ly trong bát quái của
dịch lý , ly là biến âm của lửa tượng trưng cho mặt trời, ánh
sáng hay sự văn minh, ý nghĩa này được kiện chứng ngay trong từ
họ HỒNG bàng chính xác là ‘Hồng bang’ , chữ hồng trong Việt
ngữ ngoài sự đồng nghĩa với đỏ còn có nghĩa là ngọn lửa
đuốc ;cả 2 nghĩa đều có gốc từ quẻ LY. Đặc biệt người xưa đã
dành hẳn 1 truyền thuyết để chỉ bảo chúng ta về điều này đó
là sự tích trầu cau, 2 anh em tức 2 vạch liền biến
thành cây cau ở trên và hòn đá vôi ở dưới, còn 1 nữ là vạch
đứt ở giữa làm cây trầu không ..., đó chính là hình tượng qủe
LY, khi phối hợp cả 3 thì tạo thành chất nước màu đỏ....trong
tiếng Việt từ nước ngoài nghĩa là 1 loại vật chất
còn có nghĩa là quốc gia, qủe LY và màu ĐỎ...ở đây là lần
nhấn mạnh thứ 3 cốt chỉ nói một điều : chúng ta là 1 quốc gia
Văn minh hay quốc gia của những người văn minh., chính 2 thành tố
: chính giữa và ngọn lửa đã tạo nên từ TRUNG
–HOA sau này, chính xác là TRUNG_HOẢ ; trung là dịch từ giữa
,còn hoả là lửa.
Đất là
trung tâm của thiên hạ, và con người là người văn minh , Dân tộc
ta là ánh đuốc soi đường cho thiên hạ, đấy là những gì tiền
nhân nhắn bảo chúng ta về qúa khứ dòng họ Hùng.
Trung hoa
chỉ trở thành 1 quốc hiệu từ cuộc cách mạng Tân hợi 1911 khi
ông Tôn dật Tiên tuyên bố lập nước ‘Trung hoa dân quốc’, trước đó
Trung hoa là từ dịch của Giữa và Lửa dùng để chỉ nước
do 'đế' trực tiếp cai trị tức nơi cầm đầu cả thiên hạ, ‘Trung
hoa’ ở đây là vế đối của ‘chư hầu’ để tạo thành thiên hạ vì
vậy với mỗi triều đại ta lại có 1 trung hoa khác, trung hoa nhà
Chu không phải là trung hoa thời nhà Thương.v.v., ở Việt nam các
vua nhà Trần cũng có khi xưng mình là Trung hoa (Việt nam sử
lược- Trần trọng Kim) nên khi ta dùng các từ như trung hoa xưa hay
cổ sử Trung hoa... là hoàn toàn do thói quen và không chính xác
vì thời xưa làm gì có nước Trung hoa và dân tộc Trung Hoa.
Ta đi vào
phần dã sử của nước họ Hùng dưới ánh sáng Dịch Lý.
Người họ
Hùng lập quốc chính thức vào đời Hùng vương thứ 5 , triều
HÙNG VŨ tức vua HÙNG , người Hoa đã tạo ra từ kép VŨ_VƯƠNG để
chuyển ngữ từ VUA cuả Việt ngữ ; Vũ là mượn âm vương để chỉ
ý .
Đã là
người thì phải có tổ có tiên nên Hùng sử có 4 triều đại
tiền lập quốc tượng trưng cho cả quãng thời gian từ khi thành
người đến ngày lập quốc .
Trên vùng
đất ngày nay là Đông dương cách nay 20.000 cho đến khoảng 6.000
năm là nơi sinh trú của 2 đại tộc :
-Đại tộc
Khương sống ở Vùng trung và hạ lưu sông mêkông hay Mễ
cương.
Khương là biến âm của khăng nghĩa là không đổi, đặc
tính của phương tây theo dịch học,
Khương→Cương.→cứng.
Khăng
→cang→cứng.
- Đại tộc
Mi sinh trú dọc theo ven biển trung - bắc Việt nam và
vùng biển Trung hoa liền kề .
Mi
là biến âm của Mơi-mai ; sớm mai là lúc mặt
trời mọc ở phương Đông.
Phương đông
còn gọi là bên mục-hành mộc người Hoa đọc là
mô; tất cả chỉ là biến âm cùa từ gốc là mọc trong
Việt ngữ đồng nghĩa với lên hay thăng.
Đại
tộc Khương phân hoá thành tộc Khương tây và Khương nam
tức Cửu lê và Tam miêu sau này.
Đại
tộc Mi cũng chia thành Mi đông và Mi bắc (bắc
của dịch lý tức hướng xích đạo) tức họ Thần long
hay Động đình và họ Cơ của Hoàng đế
sau này.
Bốn tộc
người thời xa xưa này được dã sử Việt coi như tổ phụ thuộc 4
phương trời về sau hợp nhất để thành dòng họ Hùng tức tổ tiên
người Việt .
Có thể
nói tất cả người Đông nam Á ngày nay ;tùy theo sự đậm lạt của
4 dòng huyết thống kể trên mà hình thành các sắc tộc với
Hình sắc bên ngoài có thể hơi khác nhau nhưng trong huyết quản
thì chỉ là 1 giòng giống chung , Câu: thống nhất trong đa dạng
dùng mô tả cư dân Đông nam á là hoàn toàn chính xác .
-
Ý nghĩa
thời dã sử: các bước tiến tự nhiên.
Người Việt không có
thần thoại tạo dựng nhưng khi xem kỹ thì 4 triều đại đầu thời
tiền lập quốc chính là sáng thế ký của người họ Hùng:
1 – Hùng triều thứ
1 –Hùng Dương .
Từ dương ở đây đồng
nghĩa với từ mọc chỉ buổi bình minh tức ý noí lúc con người
xuất hiện trên quả đất , trong thần thoại đây là thời ông Bản
cả xuất từ thái hoang, thời điểm vượn người nhảy vọt thành
người vượn...như ta đã biết ở phần thần thoại....
2 – Hùng triều thứ
2.- Hùng Hiển.
Con người hoang dã
trở thành con người sáng suốt đánh dấu bởi kỳ tích biết dùng
lửa, đặc trưng của lửa là ánh sáng và hơi ấm , hùng sử dùng
từ hiển để tượng trưng cho thời kỳ này nó cũng chính
là thời Tựu nhân hay Tọai nhân trong thần thoại.
3- Hùng triều thứ
3 – Hùng Nghị .
Nghị là nghĩ chỉ
thời kỳ con người bắt đầu tìm hiểu suy nghĩ về thế giới, về
mối tương quan với tự nhiên và các quy luật vận động .v.v.đấy
là thời cùa đế họ Sào đo bóng nắng để xác định không gian và
thời gian , triều Hùng Nghị đánh dấu thời con người biết tư duy
khoa học , biết đặt dấu hỏi trước những hiện tượng của tự
nhiên là khởi đầu của sự phát triển trí tuệ và sau cùng là
đỉnh cao cuả khoa học kỹ thuật như hiện nay
4 – Hùng triều
thứ 4 – Hùng Diệp hay Việp.
Diệp hay Việp không
phải là 2 tên mà chỉ là sự phát âm khác nhau của cùng 1 từ,
thực ra cả 2 đều ký âm sai..., chính xác là Việc hay Diệc từ
Hán-Việt là Dịch nghĩa là làm, là hành động.., tìm hiểu để
nắm bắt quy luật rồi vận dụng các quy luật đó tác động vào
giới tự nhiên phục vụ cho cuộc sống gọi là làm việc .Đó là
ý nghĩa của Việc hay Diệc làm
|