Thập
can và thời lập quốc họ HÙNG.
Dịch học là ánh sáng của
người họ HÙNG nên không có gì nằm ngoài nó,lịch sử cũng vậy,
người họ Hùng đã kiến taọ lịch sử của mình trên cơ sở HÀ
THƯ và NGŨ HÀNH, ta nhìn lại Hà thư và những vận dụng của
ngũ hành
A-
Thời tiền lập quốc.
Tóm lược những thông tin rút
ra được từ sách Lã thị xuân thu của Lã bất vi:
-Phương số 3- 8 Hà thư là
:Thái cao –Bào hy vua của phương đông ứng với màu xanh hành mộc
- Phương số 2-7 Hà thư là :
Viêm đế- thần nông vua của phương viêm nhiệt ứng với màu đỏ
hành hoả.
- Phương số 4-9 Hà thư là :
Thái hạo vua của phương tây ứng với màu trắng hành thổ.
- Phương số 1-6 Hà thư là
:xuyên húc vua của phương u huyền ứng với màu đen hành thủy.
Ta thấy ngay cổ nhân Trung
hoa đã kiến lập lịch sử buổi ban đầu của dân tộc mình theo HÀ
THƯ.
Ở đây 2
phương đông và tây đã rõ ràng chỉ cần minh định 2 phương bắc và
nam; theo Lã thị xuân thu phương viêm nhiệt là phương nam là sai ;
viêm nhiệt là nóng bức,
bức =bắc qúa rõ, liên quan
tới nóng và lửa ta còn nhiều từ khác như : hỏa viêm thượng
nghĩa là lửa thì bốc lên ; ta lưu ý từ
viêm và bốc,
nhẹ như
bấc;
số 2 trong hà thư đọc là nhị chính là biến âm của nhẹ từ
Việt như vậy ta thấy từ bắc nằm trong cụm từ bắc-bức-
bấc-bốc là những biến âm dùng diễn tả những gì liên quan tới
ngọn lửa.
Vùng trời này được gọi là
Viêm thiên trong cửu thiên và trên thực địa thì không thể có sự
chỉ định nào khác ngoài vùng nhiệt đới hay cận xích đới,
ngược với viêm thiên là huyền thiên hay phương nam,phương màu đen
tiếng Việt còn gọi là Mun, người Tàu ký âm thành Man và chính
người Tàu củng đã xác định đấy là phương nam qua từ kép NAM
MAN tức nam mun.
Một
chứng lý nữa : trong vương chế Trung hoa vua luôn luôn quay mặt
về hướng nam nếu là buổi thiết triều thì để nghe lời của
hiền thần còn noí chung là để lắng nghe nguyện vọng của dân
chúng; như vậy khi vua nhìn về hướng nam thì bản thân vua phải
ở hướng bắc, quần thần và dân chúng chầu về hướng bắc, ở
Trung hoa xưa vua được xem như mặt trời vậy, nên chầu vua tức
chầu mặt trời tức là quay mặt về hướng xích đạo tóm lại
hướng mặt trời
là hướng Bắc.
Tới đây đã đủ bằng chứng
để kết luận : phương bắc và nam đã bị lật ngược đây là việc
làm có chủ đích , có hệ thống vì không phải chỉ có phương nam
bắc mà toàn bộ những thông tin cơ bản của dịch lý đều bị
đảo lộn như âm dương, vạch đứt -vạch liền, các phương vị của
Hà Lạc và bát quái, ngũ hành cũng cùng chung số phận; nói
chung CÀN KHÔN đã bị người Hán phá nát, những điều này dần
dần khi đi sâu tìm hiểu địch học họ HÙNG chúng ta sẽ nhận ra.
Các cặp số của Hà thư
cho ta 4 phương và trung tâm hay trung nguyên.
4
phương tượng trưng cho 4 thị tộc hay bộ lạc thời tiền lập quốc
và trung nguyên là nơi hoà hợp –thống nhất các thị tộc thành
dân tộc, thời gian này là thời lưỡng tính, khởi đầu là liên
minh thị tộc và kết thúc là hình thành quốc gia. Quốc hiệu
đầu tiên của dòng giống HÙNG là Quốc gia họ HÙNG hay HỮU HÙNG
QUỐC, chữ hữu
ở đây là ký âm chữ
họ
, quốc hiệu này biểu thị rất rõ thời lưỡng tính trên vì mang
trong bản thân cả hữu lẫn quốc .
- căp số
(
3-8 )
Trong hà thư chỉ phương
đông phương mặt trời mọc hay mùa xuân; ý chỉ buổi bình minh của
dân tộc. Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị
tổ
phụ phương đông
là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà
nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian
tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI
CAO, THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI
TIẾT;THÁI CAO chỉ là tên chữ
nho
của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO- BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật
tự hợp lý thì THÁI CAO
chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu
thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương
động
là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong
thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu của các vua
hay buổi bình minh của dân tộc.phương đông củng là phương của
màu xanh và tình thương.sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào
mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông
trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng
–rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ.
Động đình hồ ở đâu ?
phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân
mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư,
trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi
trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm
Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó
nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn
có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ
là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông,
căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông
chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý,
truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một vì vua được thờ rất
nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ
,điều này kiện chứng thêm cho sự ấn định trên.
- cặp số ( 2-7 )
Số( 2-7)
chỉ phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của
THÁI VIÊM ;tổ
phụ phương lửa hay quẻ LY.sách
Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là
VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là
1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn
xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt coi Thái viêm
Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH chắu 3 đời của Viêm
đế Thần nông....dã sử Việt đả mở đầu như thế..., còn theo Lã
thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là
hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng
xích đạo cũng là màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông vũ
tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là
chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm
đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc
thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn
gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa
xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ańh mặt trời.
-
cặp số (4-9)
Phương tây trước đây không được
nói tới trong truyền thuyết lập quốc nhưng nay đã được bổ sung
là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng
hay khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là
tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là
đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài
lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái
sai rất điển hình
của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa
lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử
á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là
con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định,
tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người
cố ý nhập nhèm sửa đổi vì phía bắc sông Hòang hà từ cổ
chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử
đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi, số 4 việt ngữ là bốn,
biến âm thành
bóng ,sáng bóng hay bóng láng
dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là
phương Chiêu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO. Ở trên ta đã
biết khương hay cương có nghĩa là cứng rắn không thay đổi, đấy
là đặc tính của phương tây cổ thư trung hoa cũng nói đến sông
KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm
thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức sông MÊCÔNG
ngày nay.
_
Cặp số ( 1-6)
Việt
ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng
nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là
đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên
cũng là mun màu đen tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị
vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI
TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp chỗ giao
nhau của cũ và mới trước và sau là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên
theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết
còn có tên là tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ
TIÊN,ta thếy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ
có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương 1-6
này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta
đã biết ở trên còn
Húc
chỉ là ký âm sai của từ
hắc
nghĩa cũng là màu ̣đen.sông đen chuyển ngữ thành Xuyên húc hay
Hắc
Tóm lại : thời tiền lập
quốc người xưa đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ
của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị
tộc mà sau này đã tham gia vào việc cấu thành dân tộc họ
HÙNG.
B- thời lập quốc.
HIỀN VƯƠNG vua của thị tộc
CẢ nghĩa là tộc
đứng đầu;
cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ, nơi Thị tộc CẢ
sinh trú là vùng sông CẢ ở NGHỆ AN VIỆT NAM ngày nay , cổ sử
chép : Hiên viên trở thành tổ họ CƠ; sông CƠ tức sông CẢ nơi
sinh trú được lấy làm họ cho thị tộc, Vương đánh bại
XUY VƯU vua của thị tộc CỬU LÊ ; đoạn sử này xuất phát từ cặp
số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm số 4 còn cửu là
số 9. Hiền vương thống nhất 2 tḥị tộc thành một dân tộc, dân
tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG
, vũ chỉ là ký âm hán tự chữ vua của việt ngữ, lãnh thổ của
nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn
được dịch thành GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi giao
nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, chữ giữa ký âm YUÊ không
hiểu sao Việt nho đọc thành VIỆT.
Vua
Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên
hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6
và công thức đả ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tục : Hiên
viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở
trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc
tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho
con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được
phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG,
Kinh
biến âm của
cóng nghĩa là lạnh cũng là
một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay
phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến âm
của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là
người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương.
Cổ sử Trung hoa không
‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh , phải có
chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức
HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan
là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông
đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ
của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm
sai của chữ MUN mà thôi, người Mun nghĩa là người phương nam.
Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN.
Thực tế thì chẳng có hôn
nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ
,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy
cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết
qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH
hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương
lửa.
LA và KINH là anh em cùng
cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa
hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn
được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam
nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết
là người VIỆT hiện nay còn người LA ?
Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt
chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn:
Ai ơi chớ lấy KẺ
LA.
Cái dưa thì khú
cái cà thì thâm.
Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi
chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông tin quan trọng và
qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La
tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là
chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng
đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi
biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và
quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo
luật lưỡng nghi của dịch học.
Người Chàm chỉ là một
phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong
vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay
LÃO QUA, Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các
từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là
LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ là thứ hai .
DI_LÃO có 1 từ kép Đối
xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly hay Kinh đối với
Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di biến âm của nhị số
2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư.
Người KINH- LẠC; ngoài
người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người
Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC
còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu
sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn
nào đó của lịch sử hay không ?.
Khi hình thành nên tộc
Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3
thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của
phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức
phương bắc ngày nay.
Truyền thuyết Việt nói :
KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là
người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để
hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu
của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết
lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ,
Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển
Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói
đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia...
Cổ sử cũng cho biết
khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG,
thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ
có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có
nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên,
Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con
dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường
hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng
có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của
người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết
hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của
đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như
truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế
NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’
dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy
là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận.
Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự
trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự
việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá.
Nguyenquannhat
|