Văn hóa Luy Lâu được
cho là đă có từ thời Triệu Đà 207 BC. Nghiên cứu văn hóa Luy Lâu có thể thấy
được đây là một lọai h́nh văn hóa đa dạng, trong đó điểm gây chú ư nhất
là điệu múa mặt nạ
Qua
những h́nh ảnh khắc trên trống đồng có
thể thấy được bản sắc Việt ở các điệu múa của những người trang phục
cánh chim, .nhưng ở Luy Lâu lại có một điệu múa dân gian là điệu múa
mang mặt nạ chưa hề thấy khắc trên trống đồng
khiến người ta nghĩ rằng đó có thể là điệu múa của một tộc người thiểu
số khác nằm trong cộng đồng người Việt, có
thể đó là điệu múa của người Chăm hoặc có thể đó là điệu múa từ nơi nào
mang đến . Ở Luy Lâu , điệu múa “Bà Bụng chửa” và điệu múa “Con đĩ đánh
bồng” được các nhà nghiên cứu cho rằng có liên quan đến nghi lễ nông
nghiệp trong thời văn hóa Luy Lâu. Ngừơi ta so sánh bài múa “ Con đĩ
đánh bồng” với bài múa “ Bà bụng chửa”và chỉ ra điểm giống nhau ở chỗ
cùng là nghi lễ phồn thực, là những đám múa sinh thực khí nói lên ước
muốn sinh sôi nảy nở của con
người.
Bà
bụng chửa được miêu tả là một người đàn bà to lớn với bụng chửa cao vượt
mặt, hai tay cầm hai quạt to để múa, h́nh ảnh ấy làm ta liên tưởng đến
h́nh ảnh ông địa cũng có bụng to như bụng chửa và tay cũng cầm quạt, chỉ
khác là ông địa có thêm chiếc mặt nạ rất giống h́nh mặt hề khắc trên
ngói lợp đền miếu t́m thấy ở Luy Lâu. Sự
giống nhau giữa ông Địa với Bà Bụng chửa làm ta
thắc mắc liệu ông Địa thuở
xưa ở chế độ mẫu hệ có phải là bà
bụng chửa. Như đă biết chế độ mẫu hệ gắn liền với nông nghiệp thể hiện ớ
câu : “ Bà Nữ oa bằng ba mẫu ruộng, ông Tứ tượng bằng bốn con sào”, ở
chế độ mẫu hệ người ta đề cao phụ nữ . Về tín ngưỡng người ta thờ Bà ,
vị thánh nữ mang nhiều tên khác nhau như : Bà chúa Xứ, Bà chúa Ngọc ,Thiên
Y Ana thánh Mẫu , Po Ino Nagar..v..v , những vị thánh nữ kể trên c̣n
được gọi là Bà Trời. C̣n
mặt trăng cũng được người Chăm theo chế độ mẫu hệ gọi là Bà
Trăng
Nhưng
có nơi người ta cũng thờ Ông bởi trên
đất nước ta có hai cộng đồng dân cư, một quen sống ở vùng sông nước,
vùng biển và một cộng đồng quen sống ở vùng đất đồng bằng, vùng cao. Hai
cộng đồng này đă ḥa nhập
với nhau tạo nên một nền văn minh đặc sắc thể hiện bằng những h́nh ảnh
được khắc trên trống đồng. Ở những vùng dân cư sống bằng nghề biển, tôi
cho rằng đa số theo chế độ phụ hệ, ở đó người ta thờ Ông , người ta đă
nhân cách hóa con cá thành một vị thần thường cứu nạn cho người đi biển
, đó là cá Ông .
Trở
lại với Ông Địa. …Tại Nghệ An người ta thấy ông Địa đi trong các đám
rước Thành Ḥang. Tại Bắc Bộ người ta thấy ông Địa đi trong các đ̣an múa
lân, múa sư tử vào các dịp lễ lớn. Ông Địa luôn đeo mặt nạ trông rất
giống với gương mặt khắc trên đầu ngói
“ Mặt hề” được phát hiện trong thành Luy Lâu có niên đại thứ 2-3 sau
công nguyên
Những
đầu ngói “Mặt hề” c̣n được t́m thấy ở các di tích thành cổ của Chămpa mà
các nhà khảo cổ cho là có nguồn gốc từ văn hóa Hán.
Thực
ra măt nạ có nguồn gốc từ
Tây Vực. Từ đó mặt nạ được
mang đến Trung Quốc cũng như đến Việt Nam.. N.Kon
rat trong Phương Đông và
Phương Tây cho rằng :
“mặt nạ có thể được mang tới
Trung quốc bằng hai con đường, hoặc theo hướng Tây vực hoặc theo hướng
Đông Dương”.
Vào
thời Hán Vũ Đế người Trung
Hoa đă lấn chiếm được vùng Hoa nam . Khỏang 122 BC, sứ
thần của Hán là Trương
Thiên đă nh́n thấy ở Bactria vùng
bắc Ấ
n có sản phẩm
vải vóc và hàng mây tre của Tứ xuyên nên nghi
ngờ có con đường mua bán giữa Ấn
độ và nam Trung quốc . Qua
báo cáo của Trương Thiên, Hán Vũ đế đă cử 4
đội điều tra để t́m kiếm và t́m ra nơi ở của người Nhục
Chi.
Nhục
Chi (Nguyệt chi) là một tộc người đă từng sinh sống ở Tây vực , ḷng
chảo Tarim (bồn
địa Tháp Lư Mộc). Sau đó, khỏang 175-125BC một
trong số năm
bộ lạc của người Nguyệt Chi là
bộ lạc Quư
Sương (貴霜),
đă nắm quyền kiểm soát liên minh Nguyệt Chi ,
họ đến Bắc Ấn và Vuơng triều Quư Sương (Kushan) ở BắcẤn được thiết lập vào
cuối thế kỷ thứ IBC
http://www.grifterrec.com/coins/kushan/kushan.html
Trước
khi người Nguyệt Chi đến Bactria,
đă có một nhóm bộ lạc Scythia định
cư ở nơi này được gọi là người Ấn-Scythia. Người ta cho
rằng sau
khi bị người Nguyệt Chi xua đuổi, một số người Scythia có
thể đă di cư xuống khu vực ngày nay là tỉnh Vân Nam ở miền nam Trung
Quốc. Khu
vực Điền Tŕ ở
VânNam đă khai
quật được nh́ều đồ đồng H́nh
ảnh mô
tả trên trống đồng là các
cảnh săn bắn của những người cưỡi ngựa thuộc Đại chủng Âu(Caucasoid).
Các cảnh động vật như hổ, báo tấn công ḅ mang
nét nghệ
thuật Scythia
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%87t_Chi
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B2ng_ch%E1%BA%A3o_Tarim
Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng có 2 con đường vào phía Tây nam Trung Hoa :một
con đường từ Bactria qua
Ấn Độ, Miến Điện đến Tứ xuyên và một con đường đến
khu tự trị Sở Hùng
( Chuxiong) , con đường “Bonan Dao” thuộc tỉnhVân Nam.
Hai con đường này đă từng là con đường mua bán và cũng là con đường di
cư của tổ tiên.
Theo
tôi, mặt nạ có lẽ đă vào Luy Lâu không
phải qua mua bán mà đó là nét
văn hóa đă theo dân tộc nào đó di cư đến Luy Lâu như dân tộc Chăm chẳng
hạn v́ như đă nói phần trên,
những đầu ngói “Mặt hề” không chỉ được t́m
thấy ở Luy
Lâu nơi có người Chăm sinh sống mà
c̣n được t́m thấy ở các di tích thành cổ của Chăm. Trong hệ
thống múa cổ truyền đặc trưng c̣n mang nhiều bí ẩn, được lưu truyền qua
nhiều thế hệ là các điệu múa Chiêm Thành, Ai Lao, Ngô Quốc, Hoa Lang và
Tú Huần (c̣n gọi là Lục hồn Nhung) ,
th́ chỉ có ba điệu Chiêm Thành, Hoa Lang và Tú Huần là mang mặt
nạ. Tiếng
nói của người Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia , mà theo B́nh
nguyên Lộc dân tộc này có gắn bó với dân Nhục Chi
B́nh
nguyên Lộc trong Nguồn gốc
Mă Lai của dân tộcViệt Nam đă
dựa vào từ EA trước
từ Blăng có nghĩa là Bà Trăng mà cho rằng đất Chăm là do người Lưỡng Hà
khai phá chứ không phải do
người Ấn độ như các nhà nghiên cứu phương Tây đă giả định. B́nh
Nguyên Lộc có lẽ cũng thấy dấu vết Bactria , mà người Trung Hoa gọi là Đại
Hạ, trong văn hóa Chăm nên ông cho rằng người
Chăm là người gốc Nhục Chi và có lẽ v́ người Ba Tư thờ mặt trăng , cùng
với Ea là từ ngữ xuất hiện
nhiều trong các văn bản t́m được ở vùng Lưỡng Hà nên ông nói thêm rằng
bọn Ba Tư-Nhục Chi này lại có thể là gốc Lưỡng Hà. Ông c̣n thấy rằng đạo
thờ linga, yoni không phải của Ấn Độ mà là của chủng Malayalam ở Ấn và cho
rằng đó là dấu vết Mă lai của xă hội Mă Lai Lạc Việt thời cổ . Như
vậy, theo ư ông mà suy ra th́ Việt nam và Chàm cũng có mối
quan hệ gắn bó v́ cùng chung nguồn gốc Mă Lai, tuy nhiên không thấy ông
nói đến việc ta có liên quan ǵ đến Ba Tư-Nhục Chi hoăc Malayalam ở Ấn.
Thuyết của B́nh Nguyên Lộc cũng
có điểm đáng chú ư. Tuy nhiên, cho dù yếu tố Mă lai trong con người Việt
là có thật, ta cũng
cần có niềm tin vào truyền thuyết con rồng cháu tiên, cần nhớ đến chuyện
lên núi xuống biển của tổ tiên ta để
rộng đường suy luận.
B́nh Nguyên Lộc không quan tâm nhiều đến truyền thuyết, ông rất thích
nghiên cứu sọ, ông viết: “…..chỉ có sọ chủng Mă Lai là giống hệt sọ
của người Việt Nam, c̣n sọ Mê-la-nê, sọ Négrito, sọ Miêu, sọ Trung Hoa
đều khác…….”
Tuy rằng B́nh Nguyên Lộc thích nghiên cứu sọ mà ông cho đó là phương
pháp rất khoa học, kết quả nghiên cứu của ông thật là khó tả.. Ông viết :
“Các
nhà đào bới đă tiết lộ những điều kỳ dị hết sức là các thứ sọ Hoa Bắc
chỉ thuộc
ba chủng c̣n để hậu duệ lại cho đến ngày nay:
1. Sọ Trung Hoa
2. Sọ Miêu
3. Sọ Khuyển Nhung ở Tây Thiểm Tây, mà sọ Khuyển Nhung chỉ là sọ
Miến Điện, mà sọ Miến Điện chỉ là sọ Mă Lai.
Kỳ dị là không hề có sọ Cửu Lê, sọ Lạc, sọ Việt hay sọ nào khác để đặt
tên là Viêm chẳng hạn.
Theo sử Tàu th́ Thần Nông làm vua được 8 đời mới bị Hiên Viên diệt. Tám
đời vua th́ phải lâu, và phải có để dấu vết lại. Trong khi đó th́ Cửu Lê
không hề có để lại một tí dấu vết tại đất Hoa Bắc. Như thế th́ làm thế
nào mà Thần Nông, là vua của dân Lê và Lạc được?
Không hề thấy dấu vết của sọ và vũ khí của Lê và Lạc ở địa bàn của Lê và
Lạc. Thật là phiền cho giáo sư Kim Định v́ nó không ăn khớp với cái vụ
ăn cướp văn minh Việt mà Tàu là thủ phạm.
Đă bảo một nền văn minh không bắt chước được khi thoáng thấy, mà phải
học. Nhưng chủ nhân của nền văn minh đó lại biến mất, không để dấu vết
lại th́ phải làm thế nào?
Thế nên chúng tôi mới bác bỏ cái đám cướp tưởng tượng đó và chủ trương
một lối thấy khác nữa là cái ông Cổ Thiên Tử Xy Vưu đó, đến làm chủ Hoa
Bắc không tới 10 năm là đă gặp rủi ro, là sự xâm nhập của Tàu, chớ nếu
ông ta đă làm vua ở đó lâu đời rồi th́ thế nào sọ và vũ khí của dân Cửu
Lê cũng c̣n sót lại, ít lắm là một cái.
Làm vua mới có 10 năm, hoặc 5 năm, chưa có ai kịp chết hầu để sọ lại,
rồi th́ bị đánh đuổi và chạy đi mất hết, nên mới không để dấu vết ở Hoa
Bắc.
Và như vậy th́ không có vấn đề Tàu ăn cướp văn minh nông nghiệp tại Hoa
Bắc.”
Lập
luận của ông như thế khá là lẩn thẩn. Theo cổ thư Trung Hoa th́ họ Thần
Nông đă từng làm chủ Hoa Bắc , 530
năm sau đến đời Du Vơng th́ suy bị
chư hầu là Xuy Vưu cướp ngôi. Như vậy dù Xuy vưu làm vua 5 năm hay 10
năm th́ dân của ông ta đời
này sang đời khác cũng đă
từng sống trên 530 năm ở đó chứ không phải 5-10 năm, vă lại cho dù chỉ
sống 5-10 năm cũng có thể để lại sọ v́
con người không phải chỉ già mới chết , chưa kể đến trận chiến ác liệt
xảy ra ở Trác Lộc , ta không thể nói là Cửu Lê đă chạy thóat cả nên
không ai bị chết , chỉ có thủ lĩnh Xuy Vưu là bỏ mạng tại hang Hung Lê.
Có
thể thấy rằng B́nh Nguyên
Lộc do măi tính chuyện bác bỏ thuyết của giáo sư Kim Định nên bị rơi
vào suy luận chủ quan , thay v́ t́m
hiểu xem liệu Khuyển Nhung
có chỉ số sọ mà ông hàm ư là sọ Mă Lai có bao gồm Mă Lai Việt và Mă Lai
Chàm như ông từng nói không . Nếu phải th́ Khuyển
Nhung, Mă
Lai Chàm ,Mă Lai. Tất cả những sọ
giống Mă lai ấy có phải là thuộc những bộ tộc trong
Cửu Lê hay không. Ông
đă không làm vậy mà mượn
ngay sự kiện theo ông là kỳ dị v́ không hề có sọ Cửu Lê, sọ Lạc và sọ
Việt ở Hoa bắc để bác bỏ thuyết của giáo sư Kim Định.
Riêng vấn đề yếu tố Mă Lai
trong người Viêt có lẽ B́nh
nguyên Lộc nói không sai v́ tại
Uruk vùng Hạ-Lưỡng Hà
(3700BC-3100BC) có một di chỉ kép chịu sự chi phối của hai nền văn hóa,
ở trung tâm là di chỉ Eanna xưa kia dâng cho nữ thần Inanna của sao Kim
và vùng phía Tây là di chỉ Kullab dâng
cho thần Trời Anu..
Thần trời Anu c̣n gọi là
AN , người Sumer gọi
Trời là An, kư tự cuneiform là 4
chiếc que gác chéo nhau
thành h́nh sao 8 cánh. C̣n Nữ
thần Inanna có nhiều tên gọi
theo từng quốc gia . Ở
Greco-Roman, Inanna được gọi
là Aphrodite/Venus; ở Ai cập là Hathor ;
c̣n người Akkadian gọi Innana là Ishtar
Nữ
thần Inanna đôi khi được viết là Inana có
nghĩa là “Nữ thần của trời”( Great Lady of AN) c̣n ư nghĩa của Ishtar và
các tên gọi khác th́ chưa được biết. Người ta t́m được những con dấu
h́nh trụ Inana / Ishtar xuất hiện thường xuyên với cung tên, Inana mặc
váy dài với vương miện trên
đầu, với biểu tượng ngôi sao 8 cánh hoặc 16 cánh giống hệt như ngôi sao
trên mặt trống đồng. Nhiều tượng nhỏ được t́m thấy Inana khỏa thân, một
vài h́nh ảnh hoặc tượng Inana có bàn tay người nhưng bàn chân là bàn
chân chim và mang
trên người đôi cánh chim .
Rơ
ràng là có nhiều nét văn hóa
vùng Lưỡng Hà trong văn hóa Chăm và văn hóa Việt. Những chiếc thuyền
h́nh lưỡi liềm , những ngôi sao trên trống đồng , đàn chim sếu bay ,
những h́nh người có cánh chim. Đặc biệt là không như những tên gọi khác
rất xa lạ, tên gọi của nữ thần Inana gần với tên gọi thánh
mẫu Thiên Y ana của
Việt và Po Ino
Naga của Chăm. Tượng
nữ thần Inana cũng tṛn trịa
, mũm mĩm như tượng Chăm. Tượng Bà Po Ino Naga của Chăm ở Nha Trang ngày
xưa cũng trần truồng, sau này người Việt thờ Bà nhưng không
để trần truồng mà mặc quần áo cho Bà và gọi là thánh mẫu Thiên Y Ana ,
ở B́nh Thuận người ta c̣n gọi Bà là Mẹ “Xứ Sở”. Liệu
tên gọi “Xứ Sở” có liên quan
ǵ đến “Suse” ?
Mặc dù có sự gần gũi
, gắn bó giữa Chăm với Việt , Chăm-Việt đă từng sát cánh chống giặc
ngọai xâm phương Bắc nhưng tôi cho rằng cũng cần nghiên cứu thêm xem
Chăm có phải là Âu cơ của Việt , bởi theo cổ sử Trung hoa vào thời
Nghiêu Thuấn, tàn dư của Cửu Lê đă kết lại thành Tam Miêu chống đối lại người
cầm quyền nên đă bị đày ra Tam Nguy Sơn cạnh sa mạc Đôn Ḥang . Khi ấy
có lẽ Mă Lai Chăm đă kết thân với Nhục Chi ở Tây Vực và có giai đọan
chịu ảnh hưởng văn hóa vùng Bắc Ấn.C̣n Mă
Lai Việt có lẽ chỉ quanh quẩn ở hành lang Cam Túc . Văn hóa Qijia tại di
chỉ Xishanping ở
Cam túc có niên đại 2250BC người ta khai quật được nhiều xẻng đá và các
công cụ dùng trong nông nghiệp được làm bằng đá hoặc xương động vật
trong đó có kim may bằng xương có lỗ là công cụ lao động mà vùng Lưỡng
Hà đă có từ trước 3000 BC.
Tuy rằng xẻng đá ở nơi này không phải là lọai xẻng đá lớn như xẻng đá ở
di chỉ phía nam Quảng Tây và
xẻng đá ở
di chỉ phía Bắc Việt Nam là
khu vực có người Tày Nùng sinh sống , nhưng tôi cho rằng ba vùng văn hóa
này có chung nguồn gốc.
Theo
Pierre Amiet , trong “Phương đông thời cổ đại”, ở Susiane thời đó đă có
hai quần thể dân cư vùng Lưỡng Hà và vùng núi ḥa nhập khắng khít với
nhau, sau đó cư dân vùng Susiane đă cắt đứt quan hệ với vùng cao nguyên
Iran để ḥa nhập với nền văn hóa Lưỡng Hà , đọan tuyệt với kỉểu đồ gốm
sơn vẽ và vùng Susiane khi ấy bị bỏ trống. Từ cuối thiên niên kỷ V, vùng
Susiane giàu có hơn nhờ những thứ từ vùng Lưỡng Hà đưa tới và thành Suse
đă được xây dựng, dân thành Suse đă cắt đứt quan hệ với với vùng Lưỡng
Hà ḥa nhập một cách độc đáo với dân vùng cao nguyên lập nên văn minh
tiền Elam, đặc
biệt có hai thành phố : Suse ở vùng đồng bằng và Anshan ở vùng cao
Tall-i Malayan.
Theo ư tứ trên mà
suy th́ khỏang cuối thiên niên kỷ V, đầu thiên niên kỷ IV có lẽ dân ở
vùng Susiane đă cắt đứt quan hệ với vùng cao nguyên Iran để đến Uruk và
sau đó sáp nhập di chỉ Kullab vào Eanna , nam thần trời Anu khi ấy được
thờ trong đền E’anna cùng với nữ thần trời Inana, c̣n dân cư ở di chỉ
Kullab mà tôi cho là con cháu của ḍng Cao Lang, là người Việt cổ, có
lẽ đă di cư đến vùng đất Susiane bị bỏ trống ḥa nhập với cư dân Anshan
ở vùng cao Tall-i Malayan lập nên văn minh Tiền Elam
Dân vùng Lưỡng Hà
gọi trời là “An”, người Trung Hoa và Việt gọi trời là “Thiên”.
Người
Việt không gọi trời là An nên
địa danh An Sơn ở vùng người Việt sinh sống nh ư :
Tuyên quang, Bắc giang, Thái nguyên, Cao Bằng , Ninh B́nh được gọi là
Yên Sơn c̣n những vùng có người Chăm sinh sống như :Ninh Thuận, Quảng
Nam, Hải Dương đều được gọi
là An Sơn.
Ờ
Trung hoa có một Anshan ở
Liêu ninh thuộc miền bắc và một Anshun ở
Quí châu thuộc miền Hoa nam.
Người Trung hoa gọi người Việt
là dân An nam .Vị vua thay thế đời vua Hùng Vương cuối cùng của Việt là An
Dương Vương cho thấy mối liên hệ giữaViệt với cư
dân vùng Anshun . Tôi cho
rằng Quí Châu và Quảng Tây thời
Chiến quốc là nơi cư ngụ của nàng Âu cơ mà người Trung Hoa sau này gọi
là Tây Âu Lạc , là địa bàn của người Tày, là người ở vùng cao Tall-i
Malayan có quan hệ huyết thống với Việt . Người Tày tự gọi họ là Tày mà
theo tôi tên tự gọi này có nguồn gốc từ nơi
tổ tiên họ đă từng sinh sống là (Tall-i) Malayan. Đó không chỉ là tộc
người có quan hệ gắn bó với
Việt như Chăm mà c̣n là một nửa của Việt.
C̣n
dân tộc Chăm theo các
nhà nghiên cứu cũng như những ghi chép thời xưa cho là dân của nước Lâm
ấp , dân tộc này cũng có hai ḍng là ḍng cau và ḍng dừa . Theo tôi ,
người dân nước Lâm Ấp thời Tần cũng sống quanh quẩn ở vùng Anshun, cho
đến năm 248 , xảy ra cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu nhà Đông Ngô cử Lục
Dận làm An Nam hiệu úy, tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp loạn. Sau khi dẹp
xong cuộc khởi nghĩa này, Lục Dận đem quân xuống chiếm Khu Lật, bắt theo
hàng ngàn thợ khéo tay dâng cho nhà Đông Ngô. Những vùng đất bị quân Lâm
Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại.Có lẽ thời điểm này dân Lâm Ấp đă di cư
xuống Luy Lâu. Hiện nay có một huyện ở Sơn
Đông –Trung quốc cũng mang
tên là Lâm Ấp và một đơn vị cấp thị có tên là Nhật Chiếu . Tôi ngờ rằng trước
kia một trong hai ḍng cau-dừa là người Hạ ở đất Tề thuộc tỉnh Sơn Đông,
là người Elam hỗn chủng với Khương tộc thành Khuyển Nhung và Thân Nhung,
là người Bộc đă từng giữ vai tṛ chủ
đạo trong nhóm Lạc thuộc Đông Di ở phía đông vùng Hoa Bắc . Đất Tề khi
xưa được nhàChu phong
cho Khương tử Nha là nước
Khương Tề . Khỏang 672BC , Trần
Ḥan từ nước Trần sang phụng
sự Tề Ḥan công. Con cháu của Trần Ḥan về sau giết vua Tề để nắm quyền
bính. Do âm
Trần và Điền cổ gần giống nhau nên
được chép
thành Điền. Năm 386 BC Điền Ḥa
được nhà Chu phong
làm Tề Hầu. Năm 379 BC , họ Trần
chính thức thay thế Khương Tề, được chép là Điền Tề. Năm
221BC, Điền Tề bị
Tần diệt, vùng
đất của Tề được
Tần lập thành các
quận Tề và Lang Dạ.
Liên hệ và phỏng đóan
như trên kể cũng hơi mơ hồ
nhưng lại lư giải được bí ẩn của mảnh gốm màu gạch có chữ Trần được khắc
bằng chữ Hán t́m thấy ở di
chỉ Chăm thuộc thánh địa Mỹ Sơn. Trong thực tế Chăm-Việt Tày –Nùng có
nhiều phong tục tập quán khá giống nhau. Trong khi các dân tộc khác hay
đặt tượng kỳ lân ở cổng th́ Việt
có thứ tượng không giống ai, đó là tượng con Nghê mà qua dáng ngồi cho
thấy tiền thân của nó là con chó, các nhà nghiên cứu cho biết chó là con
vật phổ biến ở vùng Địa Trung Hải. Trong
thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, h́nh tượng chó, kẻ canh giữ
gia súc đă sớm chuyển thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ,
ở vùng Lưỡng Hà đôi khi người ta khai quật được ngôi mô người chôn chung
với chó. Ở
Lai châu ( Leizhou) thuộc Quảng Đông là
nước Nam Việt của vua Triệu Đà , người ta cũng khai quật được hàng trăm
tượng chó đá đủ cở, đủ kiểu, di
chỉ Chămpa cũng có tượng chó đá nhưng không nhiều bằng voi đá, ḅ đá có
lẽ do ảnh hưởng Hồi giáo . Về ẩm thực cổ sử chép tộc Lê ( Cửu Li) trồng
lúa nếp và hay ăn nếp th́ người cổ Việt- Tày –Nùng- Lê –Chăm cũng đều
hay ăn nếp, những lọai bánh cổ truyền như: bánh dầy, bánh chưng, chè
trôi nước , cơm lam, bánh ú, bánh khảo, các lọai xôi
đều được làm bằng gạo nếp. Mặc dù dấu tích của
hạt gạo được t́m thấy ở di chỉ Hemudu bờ nam sông Dương Tử rất sớm nhưng
có thể đó chỉ là lọai lúa hoang. Bắt đầu từ 3000 BC Thần Nông mới phát
minh ra cái cày và người Hạ là
tộc người phổ biến phưong thức tát nước vào ruộng. Chữ Lê trong
cửu Lê đựoc viết như họ Lê , trong chữ ấy có lúa Ḥa, có Nhơn, có Thủy
do vậy tôi ngờ rằng tộc Hạ là
một tộc trong Cửu Li , là tộc người ở xứ Tiền Elam đă phổ biến cách
trồng lúa nước cũng như nghề nuôi tằm dệt lụa đến Trung Hoa .
Nghiên cứu về văn học
cũng thấy bóng dáng Elam trong
ca dao tục ngữ của Chăm và Việt
.Các
nhà nghiên cứu cho rằng những bộ lạc Ba Tư đầu tiên từ châu Á đến khu
vực lănh thổ Iranngày nay vào
khỏang 4000 BC. Một trong những quần cư đầu tiên là Suse, sau này trở
thành trung tâm nền văn hóa BaTư. Suse nằm trên cao nguyên Elam,
cư dân ở đây gọi là người Elam.
Con đường buôn bán đi từ
Suse qua cao nguyên Elam đến Sumer.
Về thơ ca Ba Tư X Carpusina
và V.Carpusin trong Lịch
sử Văn hóa thế giới đă
đánh giá : “Các thể lọai thơ ca chủ yếu hồi đó là thơ tứ tuyệt (rubai),
thơ hai câu, đỏan ca châm biếm (kaxưđa) và trường ca ( Maxiavi). Âm điệu
và phúng dụ có ư nghĩa quan trọng. Thơ ca cổ điển BaTư TK X-XV đă để
lại cho ta những tên tuổi bất tử .”
Nghiên cứu về trống đồng cũng như những vùng khai quật được nhiều trống
đồng như Bắc Việt và Qủang Tây cũng thấy được ngay trống đồng là sản vật của
người Tày Nùng nói riêng và người Malayan nói chung. V́ thế tưởng cũng
không nên tranh căi nhiều về nơi xuất phát của trống đồng bởi v́ không
phải bỗng dưng vua Quang
Trung chỉ muốn đ̣i lại Quảng Đông, Quảng Tây mà không
hề đ̣i lại Vân Nam và Quí Châu. Mọi thứ đều có căn nguyên của nó.