|
Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết
Việt Nam
“Phụ nữ
Việt Nam trung trinh, tiết hạnh”
“Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm”
“Ra ngoài, giúp nước giúp non”
“Về nhà, tận tụy chồng con một ḷng”
Mở Đầu
Phụ nữ Viêt Nam từ ngàn xưa đă vang danh “trung trinh tiết
hạnh”, đúng với lời giáo huấn của cha ông:
“Trai thời
trung hiếu làm đầu”
“Gáí thời tiết hạnh làm câu trau ḿnh”
Những tấm gương oai hùng như bà Trưng, bà Triệu, hiền phụ
như bà Tú Xương, bà Sương Nguyệt Anh. Những tấm ḷng cao cả của các bà mẹ
Việt Nam vẫn thường được nhắc nhở hàng năm trong các ngày Lễ Mẹ, ngày Rằm
tháng Bẩy với “bông hồng cài áo”. Không ai có thể phủ nhận sức chịu đựng bền
bỉ và đức tính cần cù chịu khó của các bà mẹ Việt Nam. Cũng không ai có thể
phủ nhận đức tính trong sạch, ngay thẳng, và đàng hoàng của người phụ nữ
Việt Nam. Những đức tính hy sinh, can đảm và chan chứa t́nh người đă nâng
cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam lên hàng Tiên Thánh, và biến một số
người đàn bà nước Nam thành những vị Phụ Nữ Truyền Thuyết trong lịch sử dân
tộc Việt.
Truyền Thuyết Là Ǵ?
Theo Giáo Sư Trần Gia Phụng, “Truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ
sự thật lịch sử, được thêm thắt hoặc được tiểu thuyết hóa, và được truyền
tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, rồi lại được dân
chúng chấp nhận như là những chuyện lịch sử có thật”.
T́m hiểu nghĩa ch “truyền thuyết”, Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh chỉ cho
biết đơn giản: “nói lại với người khác”. Theo nghĩa tiếng Anh, “truyền
thuyết” dịch từ chữ “Legend”, có nghĩa là “thánh truyện, truyện thần tiên,
truyện hoang đường” (Từ Điển Nguyễn Văn Khôn). Thật ra, chữ “Legend” phát
xuất từ chữ Latin “legenda”, động từ là “legere” có nghĩa là đọc (to read).
Thời Trung Cổ (Medieval), chữ Latin “legenda”, được dùng với
nghĩa “điều ǵ đó để đọc”, đặc biệt dùng trong thể kể chuyện đời sống các
Thánh. (Tiểu sử các Thánh được kể lại, quan trọng cả về tài liệu lịch sử,
lẫn gương đạo đức). Chữ “Legend” trong tiếng Anh được vay mượn ở chữ
“Legenda” từ thế kỷ 14, có nghĩa là: “câu chuyện được truyền tụng trong dân
gian, nhưng không thể kiểm chứng được, tựa như các chuyện hoang đường”. Nếu
là “Nhân vật truyền thuyết”, những nhân vật này có tên trong lịch sử được
dân chúng kể đi kể lại nhiều lần trong nhiều đời, hoặc được thêm thắt, thần
thánh hóa, để trở thành nhân vật lịch sử có thật. Đó là những Anh hùng, Anh
thư, những Sương phụ, Hiền phụ và những danh nhân, danh tướng trong lịch sử.
Trong thời gian gần đây, người Việt Nam ở trong nước cũng
như ở nước ngoài đều rất xôn xao khó chịu về những tin tức liên quan đến
thân phận người con gái Việt Nam: “bị đầy đọa khi lấy chồng ngoại quốc, bị
rao bán như nô lệ, hoặc làm nghề măi dâm tại nhiều nơi, trên nhiều quốc gia”.
Những h́nh ảnh này làm tổn thương đến danh dự người Việt nói chung, người
phụ nữ Việt nói riêng không ít.
Thực tế, phần lớn Phụ Nữ Việt đều là những cô gái ngoan,
hiền, trung trinh tiết hạnh theo truyền thống văn hoá Việt.
Chúng ta vinh danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam chính là để
xua tan bóng mây mù đang che mờ đi h́nh ảnh người con gái Việt Nam oai hùng,
tiết liệt, đồng thời để chứng minh với người ngoại quốc rằng: Phụ nữ Việt từ
ngàn xưa vẫn là những cô gái được nhân gian tôn vinh kính trọng.
Thử đề nghị một Danh Sách Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt
Nam:
Đây là việc làm của Giáo Sư Trần Gia Phụng năm 1999, trong tập biên khảo
“Những câu chuyện Việt Sử”, nhân báo Thời Sự (Toronto) số 145 ngày 20-6-1998
đăng tải danh sách 23 vị Phụ nữ của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam (HLHPNVN)
tŕnh lên cơ quan UNESCO để chọn 10 người vào danh sách “Những phụ nữ truyền
thuyết trong lịch sử thế giới” (The Women of the Legend in the Word
History). Cũng theo Giáo sư Phụng phân tích, bảng danh sách của HLHPNVN đưa
ra không được chính xác so với định nghĩa, thế nào là “truyền thuyết”, và
thiếu vô tư, hoặc thiên vị. Cho tới nay, thời gian gần 6 năm đă trôi qua,
không rơ cơ quan UNESSCO có chấp nhận bảng danh sách này hay không? Và sự
lựa chọn ra sao?
Trên thực tế, Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam rất nhiều, nhất
là những bà vợ, bà mẹ các nhà cách mạng tranh đấu chống ngoại xâm và tranh
đấu cho dân chủ và nhân quyền; kể cả những Phụ nữ đă phải hy sinh trong rừng
già, hay trên biển Đông v́ lư tưởng Tự Do. Đó là những vị Phụ nữ truyền
thuyết không tên tuổi rất xứng đáng được vinh danh.
Dựa vào bảng danh sách của HLHPNVN và của Giáo Sư Trần Gia
Phụng đề nghị, chúng tôi xin mạo muội tŕnh lên quí vị một danh sách “Phụ nữ
truyền thuyết Việt Nam” như sau:
1- Quốc Mẫu Âu Cơ, 2-
Trưng Vương, 3- Công Chúa Hoàng Thiều Hoa, 4-
Lê Chân, 5- Bà Triệu, 6- Thái
Hậu Dương Vân Nga, 7- Thái Hậu Ỷ Lan, 8-
Công Chúa Huyền Trân, 9- Công Chúa An Tư, 10-
Nguyễn Thị Bích Châu, 11- Lương Minh Nguyệt,
12- Vũ Thị Thiết (Thiếu Phụ Nam Xương), 13-
Công Chúa Ngọc Hân, 14- Công Chúa Ngọc Vạn, 15-
Nữ Tướng Bùi Thị Xuân, 16- Nữ Sĩ Đoàn Thị
Điểm, 17- Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương, 18- Bà
Huyện Thanh Quan, 19- Thái Hậu Từ Dũ, 20-
Bà Tú Xương, 21- Bà Nguyễn Thị Khuê (Sương
Nguyệt Anh), 22- Bà Ba Đề Thám, 23- Bà
Phan Bội Châu, 24- Lê Thị Đàn (Ấu Triệu), 25-
Nguyễn Thị Bắc, 26- Nguyễn Thị Giang,
27- Thánh Mẫu Liễu Hạnh, 28- Nàng Tô Thị.
Sơ lược tiểu sử “Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam”:
- Quốc Mẫu Âu Cơ (Khoảng 2800 Tr.TL)
Theo truyền thuyết, khoảng gần 5000 năm trước, bà Âu Cơ ḍng dơi tiên. kết
duyên cùng vua Lạc Long ḍng dơi rồng, sinh được 100 con trai là con rồng
cháu tiên. Về sau, 50 con theo Cha Lạc Long xuống biển, 50 con theo Mẹ Âu
Cơ lên núi, đi về phương nam lập ra nước Văn Lang, do người con trưởng làm
vua hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời . Người Việt Nam tôn vinh bà Âu
Cơ là Quốc Mẫu. Trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng
năm, người Việt Nam đều nhớ đến ơn Quốc Mẫu Âu Cơ.
Mẹ Âu Cơ, Cha Lạc Long (Tranh Vi Vi)
|
- Trưng Vương (40-43)
Năm 40 thời Bắc thuộc, Thái Thú Tô Định bắt giết ông Thi Sách chồng bà
Trưng Trắc, và đàn áp dân Lạc Việt. V́ nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc cùng
em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định, đoạt 65 thành và 4 Quận, lên
làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Triều đại Trưng Vương tuy
chỉ ngắn ngủi 3 năm, nhưng đă chứng tỏ tinh thần bất khuất của người phụ
nữ Việt, và mở đầu cho nền độc lập nước nhà. Hiện nay có nhiều đền thờ Hai
Bà Trưng, và ngày lễ hội kỷ niệm hàng năm vào mồng 6 tháng hai âm lịch.
Trưng Vương đánh đuổi quân Hán (Tranh Vi Vi)
|
- Công Chúa Hoàng Thiều Hoa (Danh tướng thời Trưng
Vương)
Bà Hoàng Thiều Hoa người huyện Gia Hưng, tỉnh Thanh Hoá (có sách chép là
tỉnh Sơn Tây ngày nay). Không rơ năm sinh, năm mất. Bà là một nữ tướng tài
giỏi của Hai Bà Trưng, giữ nhiệm vụ huấn luyện đoàn Nương tử quân. Khi Hai
Bà Trưng đánh đuổi xong giặc Hán đô hộ, lên ngôi vua, đă phong tước cho bà
là Thiều Hoa Công Chúa. Hiện nay đền thờ Công Chúa Thiều Hoa ở làng Hiếu
Quan, huyện Tam Nông. Hàng năm lễ hội kỷ niệm vào các ngày 12, 13 tháng
giêng âm lịch.
- Lê Chân (Danh tướng thời Trưng Vương)
Lê Chân là nữ tướng tài ba của Hai Bà Trưng, người làng An Biên, huyện
Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Không rơ năm sinh năm mất. Trong các trận đánh
đuổi giặc Hán đô hộ, bà Lê Chân thường giữ chức tiên phong và nổi tiếng
dũng cảm. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi, đă giao việc Quốc pḥng cho bà Lê
Chân và phong làm Thánh Chân công chúa. Bà là người sáng chế ra môn thể
thao “đánh phết” rất vui (vui ra phết). Các vua đời sau đều có sắc phong
bà làm Thượng đẳng phúc thần công chúa. Hiện nay, đền thờ bà Lê Chân tại
làng Mai Động (Hà Nội). Lễ hội kỷ niệm vào các ngày 4, 5 và 6 tháng giêng
âm lịch, thường có tổ chức thi đấu vật và đánh phết.
- Bà Triệu (225-248)
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa
năm 248, chống lại quân Đông Ngô cai trị tàn ác. Bà rất can đảm, thường
nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng ḱnh ở
bể đông, quét sạch bờ cơi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm
bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm t́ làm thiếp người ta”.
Ra trận, Bà Triệu cưỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong, khiến quân
Ngô phải khiếp sợ. Nghĩa quân tôn bà là Nhụy Kiều tướng quân. Bà Triệu đă
anh dũng hy sinh năm 23 tuổi.Hiện nay có đền thờ Bà Triệu trên núi Gai (núi
Ải), làng Phú Điền (Thanh Hóa), và lễ hội kỷ niệm vào ngày 21 tháng 2 âm
lịch hàng năm.
Bà Triệu Thị Trinh (Tranh Vi Vi)
|
- Thái Hậu Dương Vân Nga (942-1000)*
Dương Hậu là chánh cung Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng, húy là Dương
Vân Nga. Khi vua Đinh bi tên Đỗ Thích đầu độc chết, con là Đinh Tuệ lên
nối ngôi, bà trở thành Thái Hậu nhiếp chính.
Nhà Tống nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, tự quân Đinh Tuệ c̣n nhỏ, nên đem
quân sang xâm chiếm nước ta. Trước t́nh thế nguy cấp, Phạm Cự Lượng cùng
một số tướng lănh đă tôn Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn lên ngôi để lo chống
ngoại xâm. Thái Hậu Dương Vân Nga biểu đồng t́nh và sau đó trở thành chánh
cung Hoàng Hậu của vua Lê Đại Hành. Nhờ tính cương nghị và thông hiểu t́nh
thế, yên vị được triều chính, Dương Hậu đă giúp vua Lê đánh tan quân Tống.
Hiện nay, tượng và đền thờ Dương Hậu tại đền vua Lê Đại Hành, ở làng
Trường Yên (Ninh B́nh), và lễ hội kỷ niệm cùng vào ngày kỷ niệm vua Đinh
và vua Lê, 10 tháng 3 âm lịch (lễ hội Trường Yên).
* Theo tài liệu của Hoàng Công Khanh (Hoàng Hậu hai triều
Dương Vân Nga)
- Ỷ Lan Nguyên Phi (?-1117)
Tên thật là Lê Thị Ỷ Lan, xuất thân từ gia đ́nh nông dân, người làng Thổ
Lỗi, Bắc Ninh. Tương truyền bà đứng tựa gốc lan trong khi mọi người trong
làng nô nức ra xem đoàn xa giá của vua Lư Thánh Tông đi qua. Nhà vua cảm
sắc đẹp và thái độ dửng dưng lạ lùng của bà, bèn tuyển về cung làm Ỷ Lan (dựa
gốc lan) phu nhân. Sau bà sinh ra vua Lư Nhân Tông và trở thành Hoàng thái
hậu.
Thái Hậu Ỷ Lan đă giúp vua Lư Thánh Tông tạm thời nhiếp chính, trị nướùc
kết quả tốt đẹp khi vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Bà cũng có ḷng
cứu giúp những người con gái nhà nghèo phải đi ở đợ, nên dân chúng thời
bấy giờ xưng tụng bà là “Quan Âm”. Thái Hậu Ỷ Lan mất ngày 25 tháng 7 năm
Đinh Dậu (1117) (Không rơ ngày sinh).
- Công Chúa Huyền Trân (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14)
Trần Thị Huyền Trân là con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh
Tông (trị v́ 1293-1314). Không rơ ngày sinh ngày mất. Năm Bính Ngọ (1306),
vua Trần Anh Tông nhận gả Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Để đáp lễ, vua
Chiêm dâng tặng Đại Việt 2 châu Ô và Lư. Huyền Trân về Chiêm được phong
làm Hoàng Hậu. Hơn 1 năm sau, Chế Mân chết, theo tục lệ Chiêm Thành, Huyền
Trân phải lên giàn hỏa. Vua Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung sang cứu.
Tương truyền Trần Khắc Chung là người t́nh cũ của Công chúa Huyền Trân, do
đó đă tạo nên một câu truyện t́nh lâm ly bi thiết trong sử Việt.
Dù bị phê phán về nhiều mặt, do sự kỳ thị chủng tộc và nền giáo lư Khổng
Mạnh khắt khe, công chúa Huyền Trân vẫn được dân chúng Việt Nam biết ơn về
sự việc nàng mang về cho nước Đại Việt hai châu Ô Lư, mở đầu cho cuộc Nam
tiến sau này.
- Công Chúa An Tư (thời vua Trần Nhân Tông)
Bà là con gái út vua Trần Thánh Tông, em gái vua Trần Nhân Tông
(1279-1293), không rơ năm sinh năm mất. Tháng 2 năm Ất dậu (1285), Thoát
Hoan xâm lăng đánh thắng nhiều nơi, đồng thời có một số vương hầu nhà Trần
hàng giặc. Để ngăn chặn bớt tính hung hăn của giặc, vua Trần Nhân Tông đă
sai Trần Dương và Đào Kiện đưa quốc muội là công chúa An Tư gả cho Thoát
Hoan.
Ngoài chiến trường, dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại Vương, quân dân nước
Nam cương quyết đánh giặc, trong khi đó dưới trướng Thoát Hoan, công chúa
An Tư phải âm thầm nuốt nhục, hy sinh đời xuân sắc để tŕ hoăn sức giặc.
Sự hy sinh của công chúa An Tư đă đóng góp phần nào cho cuộc chiến thắng
quân Nguyên Mông dưới triều Trần, thế kỷ thứ mười ba.
- Nguyễn Thị Bích Châu (Thời vua Trần Duệ Tông)
Bà là phi hậu triều vua Trần Duệ Tông ( trị v́ 1372-1377), không rơ năm
sinh năm mất. Trước đó khoảng 20 năm, cuối đời vua Trần Dụ Tông (trị v́
1341-1369), v́ chính triều đổ nát, dân chúng lầm than, ông Chu Văn An đă
dâng “Thất Trảm Sớ” đ̣i chém bẩy quyền thần gian nịnh. Bà phi hậu Bích
Châu tuy là phận gái ở trong cung, cũng đă noi theo được tấm gương bất
khuất của thầy Chu, can đảm dâng lên vua Duệ Tông bài “Kê Minh thập sách”,
để cứu nguy xă tắc. Trong 10 điều (thập sách), có các điểm mạnh như sau:
“Một là trừ kẻ bạo”, “Hai là tránh việc phiền nhiễu”, “Ba là trừ mọt nước”,
“Bốn là đuổi bọn những lại”.
Bà Nguyễn Thị Bích Châu chỉ là một cung nhân “dám nói ra những sự thối nát
của chế độ giữa thời phong kiến toàn thịnh, kể thật can đảm và đáng khen
lắm thay”. (Phạm Văn Sơn - Việt Sử Tân Biên)
- Lương Minh Nguyệt (Thời Lê Lợi kháng Minh)
Bà là vợ Đinh Liệt (?-1471) (danh tướng của B́nh Định Vương Lê Lợi), người
làng Chuế Cầu, tỉnh Nam Định, có nhan sắc và giỏi nghề ca hát Ả đào. Trong
thời gian Lê Lợi kháng Minh, bà đă mở quán rượu nổi tiếng ở gần thành Cổ
Lộng (Đông Đô tức Thăng Long), cốt ư ḍ la tin giặc, giúp kháng chiến.
Trong một cuộc tấn công thành Cổ Lộng, bà Minh Nguyệt đă cùng các cô gái
tiếp viên phục rượu một số tướng Minh say mèm, và làm ám hiệu để quân Lam
Sơn dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Thạch chiếm được thành.
Sau, Đinh Liệt được phong tước Quốc công, mang họ nhà vua (họ Lê), và bà
là Nhất Phẩm Phu nhân. Các vua đời sau đều có sắc phong vợ chồng bà là
Phúc thần. Theo tài liệu của Giáo Sư Trần Gia Phụng, bà Lương Thị Huệ có
lẽ là một tên khác của bà Lương Minh Nguyệt (?), hiện có đền thờ tại huyện
Thọ Xương và dân chúng c̣n gọi bà là Ngọc Kiều Phu nhân.
- Vũ Thị Thiết tức Thiếu Phụ Nam Xương (Đời Lê Thánh
tông):
Bà quê huyện Nam Xương (Hà Nam), là vợ chàng Trương, mới có thai th́ chồng
được gọi đi lính thú phương xa. Đứa bé trai sinh ra không biết mặt cha.
Mỗi tối bà thường chỉ bóng ḿnh trên vách mà dạy con chào hỏi cha trước
khi đi ngủ. Ít lâu sau chàng Trương trở về, đứa bé thấy xa lạ và nói bố nó
chỉ về lúc đêm tối. Chàng Trương nghi ngờ vợ ngoại t́nh, nên đă mắng nhiếc
đuổi đi. Bà Thiết bị oan ức, lai không biết biện bạch ra sao, bèn nhẩy
xuống sông Hoàng Giang (địa phận Nam Xương) tự tận. Đến tối thắp đèn lên,
đứa bé mới chỉ bóng chàng Trương trên vách và nói rằng bố nó đă về. Chàng
Trương lúc đó mới hiểu ra, nhưng đă trễ. Dân chúng biết chuyện người đàn
bà tiết nghĩa chết oan, bèn lập miếu thờ. Vua Lê Thánh tông (1460-1497)
tuần thú đi qua miếu, đă làm một bài thơ vịnh rất nổi tiếng, được khắc vào
bia đá năm 1471, và truyền tụng đến ngày nay.
- Công chúa Ngọc Hân (1770-1799):
Công Chúa Lê Thị Ngọc Hân là con vua Lê Hiển Tông. Năm 16 tuổi, công chúa
kết duyên với vị anh hùng Nguyễn Huệ, người có công diệt Trịnh Phù Lê và
đánh đuổi quân xâm lăng Xiêm La và Măn Thanh. Bà Ngọc Hân vừa xinh đẹp,
lại có tài văn học, được Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ phong làm Bắc
cung Hoàng Hậu. Khi vua Quang Trung đột ngột băng hà, bà rất buồn, đă sáng
tác các bài “Văn tế vua Quang Trung” và “Ai Tư Văn”, đóng góp cho kho tàng
văn học Việt Nam những áng thơ hay và cảm động.
Hoàng Hậu Ngọc Hân & Vua Quang Trung (Tranh Vi Vi)
|
- Công chúa Ngọc Vạn (thế kỷ 17):
Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Vạn là con của Săi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (chúa
Nguyễn Đàng trong từ 1613-1635). Năm 1620, công chúa Ngọc Vạn kết hôn với
vua Chân Lạp (Cambodia), và trở thành Hoàng Hậu vương quốc Chân Lạp, thủ
đô lúc đó là Udong. Những tùy tùng của công chúa Ngọc Vạn đều được giữ
những chức vụ quan trọng trong triều đ́nh Chân Lạp. Năm 1623, Săi Vương
sai sứ bộ đến Udong, xin cho người Việt được định cư ở vùng Sài g̣n ngày
nay, và được buôn bán, mở khu dinh điền. Nhờ sự vận động của Hoàng Hậu
Ngọc Vạn, các đề nghị của chúa Nguyễn đều được vua Chân Lạp chấp thuận.
Công chúa Ngọc Vạn đă có công mở đường cho người Việt trong cuộc Nam tiến
xuống đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng giang sơn như ngày nay.
- Nữ Tướng Bùi thị Xuân (?-1802)
Bà là nữ tướng tài giỏi của nhà Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu,
quê tỉnh B́nh Định. Trong các chiến trận của nhà Tây Sơn, vợ chồng bà đều
lập được nhiều chiến công oanh liệt.
Năm 1802 vua Gia Long thắng trận, bà bị hành h́nh bằng voi giày. Theo giáo
sĩ La Bissache`re có mặt tại hiện trường, bà Bùi Thị Xuân rất can đảm, đă
lấy vải quấn chặt người cho khỏi lộ liễu và đứng thẳng người trước mặt voi
khiến voi phải sợ hăi lùi lại.
Bà Bùi Thị Xuân đă đóng góp công lao với nhà Tây Sơn trong các cuộc chinh
chiến, nhất là nhàTây Sơn đă dứt được họ Trịnh ở miền Bắc và dẹp tan các
cuộc xâm lăng của Xiêm La và Măn Thanh, nên Bà chiếm được nhiều cảm t́nh
của dân chúng Việt Nam.
- Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1746):
Bà sinh năm 1705, người tỉnh Bắc Ninh, rất giỏi văn thơ, hiệu là Hồng Hà
nữ sĩ. Năm 16 tuổi, bà được tiến cung làm phi tần, nhưng sau đó bà xin về,
rồi làm chức giáo thụ ở cung cấm. Bà đă phải trải qua nhiều năm loạn lạc,
sau kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều, người huyện Từ Liêm.
Bà đă sáng tác “Tục Truyền Kỳ” hay “Truyền Kỳ Tân Phả” bằng chữ Nho và
dịch “Chinh Phụ ngâm khúc” bản chữ Hán của Đặng Trần Côn.
Khúc ngâm Chinh phụ bằng chữ nôm (quốc ngữ) theo thể th “song thất lục bát”
đă diễn tả được tâm t́nh người phụ nữ Việt Nam trung trinh tiết hạnh, vừa
buồn lo khi chồng chinh chiến phương xa, vừa phải thay chồng gánh vác công
việc gia đ́nh, dạy dỗ con thơ, vừa phải lo giữ ǵn phẩm hạnh.
Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm mất ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (1746).
- Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1780-1820)*:
Bà Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 19, có tài văn thơ cả
về chữ Nôm lẫn chữ Hán, con ông Hồ Phi Diễn, người làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu (Nghệ An). Thơ Nôm của bà thường chua chát, châm biếm và khinh
mạn mọi giới. Thơ Hán của bà tuy cũng mang vẻ buồn, nhưng lại rất chừng
mực và chứa chan t́nh cảm. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là thi sĩ Việt Nam duy nhất
có tên trong “Từ Điển Văn Nhân Larousse”.
* Theo “Những câu chuyện Việt Sử” - Trần Gia Phụng
Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương (Tranh Vi Vi)
|
- Bà Huyện Thanh Quan (Đầu thế kỷ 19):
Bà tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm (Hà Đông), lấy ông Cử
Lưu Nghị (1804-1847) là Tri Huyện Thanh Quan ( nên thường gọi bà là bà
Huyện Thanh Quan). Chồng bà mất năm 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con. Triều
vua Minh Mạng, bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy cung phi và công
chúa trong cung.
Thơ bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng thanh tao, trang nhă, ư nhị và điêu
luyện, nghe man mác nỗi buồn hoài cổ, nhớ nước nhớ nhà như các bài “Qua
Đèo Ngang Tức Cảnh”, “Thăng Long Hoài Cổ”, “Chiều Hôm Nhớ Nhà”.
- Thái Hậu Từ Dũ (1810-1902):
Tên húy là Phạm Thị Hằng, người tỉnh Gia Định. Bà là con gái Quốc Công
Phạm Đăng Hưng, được tiến cung năm 14 tuổi và trở thành quí phi của vua
Thiệu Trị. Bà sinh ra vua Tự Đức nên trở thành Tháí Hậu, hiệu Từ Dũ Bát
Huệ Thái hoàng Thái hậu.
Theo Sử Gia Trần Trọng Kim, Thái Hậu Từ Dũ “thuộc sử sách đă nhiều mà biết
việc đời cũng rộng”. Đến đời vua Thành Thái, Bà được dâng tôn hiệu là Từ
Dũ Bát Huệ Khương Thọ Thái thái hoàng thái hậu.
Thái Hậu Từ Dũ là người quyền cao đức trọng thời nhà Nguyễn, đa nêu tấm
gương tốt về đức hạnh cho hậu thế. Bà mất ngày 5 tháng 4 Nhâm Dần, thọ 92
tuổi.
- Bà Tú Xương (cuối thế kỷ 19):
Bà họ Phạm, người tỉnh Hải Dương, là hiền thê nhà thơ trào phúng Trần Tế
Xương (1869-1907) tức Tú Xương. Bà là người mẹ hiền tiêu biểu cho những bà
mẹ quê Việt Nam chỉ biết một đời tận tụy cho chồng, cho con, không nề hà
ǵ đến chính bản thân ḿnh, đúng như lời thơ của Tú Xương đă diễn tả:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông”
“Nuôi-nấng năm con với một chồng”
“Lặn-lội thân c̣ khi quăng vắng”
“Eo-sèo mặt nước, buổi đ̣ đông”
Bà Tú Xương quả đúng là một Hiền phụ Việt Nam.
- Bà Sương Nguyệt Anh (1863-1921)
Bà Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Khuê, sinh ngày 24 tháng 12 năm
Quí Hợi (1863) tại Gia Định, con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu tức
Đồ Chiểu. Bà có nhan sắc xinh đẹp, lại có tài văn chương, đoan trang, tiết
hạnh, nhưng lập gia đ́nh trễ. Trên 25 tuổi bà mới kết hôn, sinh được một
gái th́ chồng chết. Bà ở vậy nuôi con, vui với thơ văn, lấy bút hiệu là
Sương Nguyệt Anh (nghĩa là người sương phụ, thủ tiết thờ chồng). Bà viết
“Gương tỏ đời nay trong tiết phụ”
“Lâu dài tiếng tốt tạc tạc non sông”
Bà rất hay chữ, giỏi thơ, nổi danh ở miền Nam, và làm chủ bút tuần báo “Nữ
Giới Chung” Sài G̣n, là tuần báo đầu tiên ở nước ta. Bà Sương Nguyệt Anh
mất ngày 12 tháng 11 âm lịch (4 tháng 1 năm 1921), hưởng dương 58 tuổi.
(Theo tài liệu của Lăng Nhân trong “Hương Sắc Quê Ḿnh”,
và tài liệu của Hồ Trường An – Giai Phẩm Sương Nguyệt Anh – 2002)
Bà Sương Nguyệt Anh tấm gương tiết hạnh (Tranh Bé Kư)
|
- Bà Ba Đề Thám (cuối thế kỷ 19):
Bà tên thật là Đặng Thị Nhu (c̣n có tên là Đặng Thị Nho tức Bà Ba Cẩn), vợ
thứ ba của nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám (Đề Thám). Bà là một nữ tướng rất
can trường, cùng sát cách với chồng trong cuộc kháng chiến chống Pháp tại
Yên Thế cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ngày 1-2-1909, bà và con gái là
Hoàng Thị Thế bị Pháp bắt và đầy đi Guyanne thuộc Pháp ở Nam Mỹ. Tương
truyền, trên đường lưu đầy bà Ba Đề Thám đă nhẩy xuống biển tự tận, noi
gương bất khuất của Bà Trưng Bà Triệu.
- Bà Phan Bội Châu (1866-1936):
Bà tên thật là Thái Thị Huyên vợ nhà Cách Mạng yêu nước Phan Bội Châu
(1867-1940), người làng Diên Lân, tỉnh Nghệ An. Bà làm dâu nhà họ Phan năm
23 tuổi, đă hết ḷng giữ trọn đạo dâu hiền. Chồng thi đỗ Giải Nguyên, bà
vẫn giữ nếp nhà, sống đời b́nh dị, lo cho chồng cho con. Chồng bà xuất
dương cứu nước hơn 20 năm, bà vẫn giữ ḷng chung thủy, ṿ vơ nuôi con. Khi
ông Phan Bội Châu bị bắt về nước năm 1925, bà được gặp mặt chồng nửa tiếng
đồng hồ tại Nghệ An rồi lại xa cách cho đến lúc măn phần. Trong mấy lời
chia tay, bà đă nói: “Vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm, nay được một lần
giáp mặt Thầy, trong ḷng tôi đă măn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong
Thầy giữ được ḷng xưa”.
Bà Phan Bội Châu là tấm gương sáng của người Phụ Nữ Việt Nam, một ḷng
trung trinh tiết hạnh, thờ chồng nuôi con, giúp cho chồng con giữ vững
tinh thần trên bước đường dấn thân cứu nước. Hiền Phụ Thái Thị Huyên mất
ngày 1 tháng 4 âm lịch (21-5-1936), thọ 70 tuổi.
- Bà Lê Thị Đàn (Ấu Triệu) (Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ
20):
‘Người tỉnh Thừa Thiên, hoạt động tích cực trong Duy tân hội tại Huế, được
Phan Bội Châu đặt biệt danh là “Ấu Triệu” tức “Triệu nhỏ” (ư so sánh với
bà Triệu lớn tức bà Triệu Thị Trinh). Bà phụ trách liên lạc, chuyển vận
thư từ, tiền bạc cho những nhà hoạt động cách mạng khắp các nơi ở Trung
phần. Năm 1910, bị Pháp bắt, bà tự tử trong tù tại Quảng Trị’
(Trần Gia Phụng - Những câu chuyện Việt sử).
- Nguyễn Thị Bắc (Liệt sĩ cận đại):
Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là hai chị em ruột, quê ở Bắc Giang,
tục gọi là Cô Bắc, Cô Giang, đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, chi
bộ Bắc Giang. Cô Bắc cùng với Cô Giang làm liên lạc và tuyên truyền, hoạt
động rất tích cực. Năm 1930, sau khi cuôc khởi nghĩa Yên Bái do Đảng
Trưởng Nguyễn Thái Học lănh đạo bị thất bại, Cô Bắc bị Pháp bắt và đưa ra
xét xử trước Hội đồng đề h́nh Pháp. Cô đă hiên ngang chỉ trích chế độ Thực
dân Pháp tại Đông Dương và nói: “Các ông hăy về Pháp mà kéo đổ tượng
Jeanne d'Arc đi” (Jeanne d'Arc là một nữ anh hùng Pháp), khiến người Pháp
phải kiêng nể tinh thần bất khuất của người Phụ nữ Việt Nam.
- Nguyễn Thị Giang (?-1930) (Liệt sĩ cận đại):
Cô Giang là vị hôn thê của lănh tụ Nguyễn Thái Học, Đảng trưởng Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Cô là một đảng viên rất đắc lực, đă cùng với cô Bắc hoat
động tuyên truyền liên lạc giữa các cơ sở đảng ở Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc
Ninh, Vĩnh Yên. Năm 1929, Cô Giang gặp Nguyễn Thái Học và hai người cùng
chí hướng đă yêu nhau.
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học
và 12 đồng chí bị Pháp đưa lên máy chém ở Yên Bái, Cô Giang đă đến tận
pháp trường để chứng kiến cái chết anh dũng của người yêu và 12 đồng chí
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau đó Cô về nhà trọ viết thư tuyệt mệnh gửi song
thân và gửi hương hồn Nguyễn Thái Học, trong dó có câu: “Anh đă là người
yêu nước, không làm tṛn được nghĩa vụ cứu nước. Anh giữ lấy linh hồn cao
cả để về dưới suối vàng chiêu binh rèn súng đánh đuổi quân thù.” Cô Giang
c̣n làm một bài thơ lục bát, tỏ rơ ư chí hy sinh v́ nước, sau đó đă dùng
súng lục tự tử để bảo toàn danh tiết và bảo toàn bí mật cho đảng.
Trước khí tiết hiên ngang bất khuất của Cô giang và Cô Bắc, người đời sau
ai cũng ngậm ngùi thương tiếc.
- Thánh Mẫu Liễu Hạnh (thế kỷ 16):
Là nhân vật thần thoại, được người đời sùng bái, xưng tụng là Liễu Hạnh
Công chúa hay Thánh mẫu đền Ṣng (Ṣng Sơn, Thanh Hóa).
Theo Truyền thuyết, Liễu Hạnh Công chúa chính là Công chúa Quỳnh Nương
trên Thiên Đ́nh, bị giáng xuống trần làm con gái một vị quan triều Hậu Lê,
mang tên là Lê Thị Giáng Tiên, quê làng Vân Cát, huyện Vân Cát (Phủ Giầy),
Nam Định. Giáng Tiên rất xinh đẹp, giỏi thơ văn, đàn sáo và soạn nhiều bài
hát rất hay, kết duyên với Đào Lang năm 18 tuổi. Được 3 năm, Giáng Tiên đă
đột ngột từ trần, trở về thượng giới. Nhưng v́ chưa hết hạn đi đầy, Giáng
Tiên lại giáng xuống trần, đổi tên là Liễu Hạnh cùng với hai ngọc nữ Quế
Nương và Thị Nương. Ba người hiện xuống một làng ở Thanh Hoá, đi khắp các
nơi cứu nhân độ thế và nhiều lần hiển linh cứu giúp dân lành, hoặc làm thơ
xướng hoạ với các danh sĩ thời đó.
Sau khi trở về trời, Bà Liễu Hạnh được dân chúng suy tôn là Mẫu Nghi thiên
hạ, và được vua Lê sắc phong là Thượng Đẳng tối linh thần. Dân chúng lập
đền thờ tại những nơi bà đă đi qua như Phủ Giầy ở Nam Định. Đền Ṣng ở
Thanh Hóa và Tây Hồ ở Thăng Long. Lễ hội từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 âm
lịch.
- Nàng Tô Thị
Nàng Tô Thị là tên một hiền phụ trong truyền thuyết, lai lịch có thể xuất
phát từ tỉnh Lạng Sơn, theo câu ca dao:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa”
“Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”
Đồng Đăng là một thị trấn sát biên giới Hoa Việt thông qua cửa ải Nam Quan
, nơi trấn đóng của lính thú đời xưa lo ǵn giữ biên cương. Phố Kỳ Lừa có
chợ Kỳ Lừa, đọc trại từ tiếng Thổ “háng Khau-lừ” có nghĩa là “chợ đồi con
lừa” là nơi sinh hoạt, buôn bán sầm uất của xứ Lạng thời bấy giờ. Động Tam
Thanh là một hang động đẹp nổi tiếng ở Lạng Sơn, trong đó có một ngôi chùa
cổ. Trên ḥn núi đá gần khu động Tam Thanh có một tảng đá thiên nhiên nhô
ra, chênh vênh trông giống như h́nh tượng một thiếu phụ đứng nh́n về phía
biên cương, ṃn mỏi chờ chồng chinh chiến trở về: Người ta gọi đó là nàng
Tô Thị, đứng chờ chồng lâu ngày đă hoá thành đá. Cũng có truyền thuyết cho
rằng “đó là người con gái họ Tô, bồng con đợi chồng lâu ngày đến nỗi hóa
đá, thành ḥn núi Vọng Phu” (Trần Gia Phụng - Những Câu
Chuyện Việt Sử).
Nàng Tô Thị chính là h́nh ảnh của người phụ nữ trung trinh, những hiền phụ
Việt Nam, luôn luôn giữ ḷng chung thủy, là nguồn an ủi của những người
lính thú xa nhà, đồng thời cũng là h́nh ảnh những chinh phụ vô danh Việt
Nam, lo toan việc nhà, thờ mẹ nuôi con trong khi chồng chinh chiến phương
xa.
Kết Luận:
Phụ nữ Việt Nam trong truyền thuyết đều là những người đàn bà nổi tiếng
tài ba, những anh thư hào hùng bất khuất, những hiền phụ hết ḷng hết dạ lo
cho chồng cho con. Đó là những vị Vua, những vị Thái hậu, Hoàng hậu, những
Công chúa, những Nữ văn nhân, Thi sĩ, những Nữ tướng, những Sương phụ, Tiết
phụ và những Bà Mẹ Việt Nam kể cả những người Con Gái Việt Nam không tên
tuổi, nhưng đều mang ḍng máu Tiên Rồng, trung trinh tiết hạnh, được dân tộc
Việt Nam truyền tụng, sùng bái và tin tưởng.
Mục đích “vinh danh những Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam”, trước hết là để
chứng minh người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa đă là những người đáng kính
phục cả về tài ba lẫn đức hạnh và những người phụ nữ có công với đất nước,
sau nữa là để nêu lên những tấm gương sáng cho hậu thế, nhất là giới trẻ
Việt Nam, được soi chung.
Bảng đề nghị danh sách “Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam” nêu trên chỉ là
một bài viết có tính cách phổ biến tài liệu của các nhà biên khảo. Cũng v́
thế, bảng đề nghị này, do cá nhân biên soạn, phần nào theo cảm tính riêng,
nên không tránh khỏi sự thiếu sót. Chúng tôi kính mong được sự chỉ giáo của
các vị cao minh.
Song
Thuận
(9/21/04)
Sách tham khảo:
- Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim - Nhà Xuất bản Miền
Nam
- Những Câu Chuyện Việt Sử - Trần Gia Phụng - Tập 2 -
Toronto, Canada-1999.
- Đại Việt Sử Kư Toàn Thư - Nhà Xuất Bản Khoa Học Xă Hội.
- Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam - Nguyễn Q. thắng,
Nguyễn Bá Thế - Nhà XB Văn Hóa.
- Non Nước Việt Nam - Sách hướng dẫn Du Lịch.
- Sơ thảo Địa Lư Tỉnh Lạng Sơn - Do các giáo Viên Lạng
sơn biên soạn - LS tháng 5 năm 1955.
- Việt Sử Tân Biên - Phạm Văn Sơn - Tủ Sách Sử Học Việt
Nam
- Hoàng hậu Hai Triều Dương Vân Nga - Hoàng Công Khanh -
Nhà XB Văn Học.
- “Liễu Hạnh Tiên Chúa” - Bưu Văn Phan Kế Bính - Bài
viết phổ biến trên Internet.
- Hội Hè Đ́nh Đám (Quyển Thượng) - Toan Ánh
- Tài liệu của Lăng Nhân (Hương Sắc Quê Ḿnh) - Hồ
Trường An (Giai Phẩm SNA 2002)
|