Lửa
Bếp
NGUYỄN VĂN TRUNG
Ngày nay ở các đô thị, việc dùng bếp
điện khá phổ biến. Ai cũng nhận bếp điện tiện, nhanh,
sạch giản dị và đảm bảo. Hơn nữa, nấu cơm bằng nồi điện
"National" chẳng cần học làm bếp, thổi cơm cũng chắc có
cơm chín không sống không cháy, không khê. Sự biến đổi
kỹ thuật nấu ăn kèm theo một biến đổi ngữ nghĩa của từ
bếp: Bị thu hẹp vào một đồ dùng, mất đi cái nghĩa chỉ
thị một nơi. Nấu bằng bếp điện không c̣n cần một nơi
riêng gọi là nhà bếp, v́ có thể để bếp điện ngay pḥng
khách, pḥng ăn, pḥng làm việc. Cũng không c̣n lo lắng
làm sao có lửa và nhất là làm sao giữ lửa, v́ mọi sự đều
dễ dàng quá, chỉ việc bấm, bật một cái (nút là có điện
vào bất cứ lúc nào muốn có. Nhưng sự giản dị, dễ dàng,
tiện lợi làm mất đi những cảm giác, t́nh tự liên hệ với
lửa bếp những thời mà nhà nào cũng phái có một cái bếp
và lửa bếp c̣n mang tầm mức quan (trọng của một vấn đề
sống c̣n. Nếu dùng bếp điện không được thấy lửa củi, rơm
cháy đỏ hoặc than hồng là thế nào, không cảm thấy (hơi
lửa nóng tỏa ra, xông vào mặt, (không nghe được
tiếng than nổ lách tách hay tiếng củi cháy xèo xèo.
Nhưng nhất là không c̣n có được những t́nh cảm, rung
động ngồi chung quanh bếp lửa...
Nấu bếp vào Mùa Hè, đặc biệt buổi trưa
nóng nực hay là những ngày có đám thật là cực khổ vất vả,
nhưng nếu phải "rúc vào bếp" làm những việc cực nhọc,
nóng bức không có ǵ là thú vị, để phục vụ (tạo bữa ăn
ngon, nóng cho những người thân yêu: Chồng con, phân
thuộc...) th́ những cực nhọc trên lại tạo ra những vui
sướng thật xứng đáng với những cực nhọc đă phải chịu...
Tuy nhiên có những lúc khác ngồi quanh bếp lửa thật là
dễ chịu ấm cúng. Trời tối, rét, gia đ́nh hay hàng xóm
tụm năm tụm ba ngồi quanh bếp vừa nướng khoai, rang ngô
(bắp) vừa thân mật tṛ chuyện, xôm nhộn như ngô rang nổ...
không phải là những giây phút thú vị hạnh phúc sao?
Nhờ có lửa. Lửa sưởi ấm, lửa soi sáng,
lửa làm chín thơm ngon...Đó là chức năng chính của lửa:
Làm tan giá lạnh buốt xua đuổi đêm tối
hăi hùng, ma quái ngăn chặn hoặc phủ nhận ươn thối (cá
thịt), héo úa (rau cỏ), xóa bỏ mùi hôi tanh, nhằm đem
lại sự sống và duy tŕ sự sống của con người. Cho đến
bây giờ, người ta vẫn chưa biết ǵ nhiều về nguồn gốc
lửa bếp: Làm sao có lửa và giữ lửa (1). Nhưng một điều
có thể khẳng định được là việc t́m ra lửa bếp đó là một
chinh phục lớn lao của con người, một tiêu chuẩn cơ bản
xác định thế nào là văn minh và t́nh nhân loại, v́ chỉ
con người mới biết dùng lửa. Vào thời kỳ sơ khai rất khó
làm ra lửa (bằng cách đập, chà, cọ xát mạnh gỗ đá ) càng
khó hơn giữ lửa được lâu, nên lửa là một cái ǵ thật quư,
hiếm, tạo ra một mói bận tâm lớn lao giữ lửa. Nhiều dân
tộc xưa như dân La Mă thời thượng cổ, các sắc dân miền
Iran đă đặt ra những h́nh luật phạt nặng những kẻ làm
mất lửa: Ở thôn quê Việt Nam thấy có hai cách giữ lửa:
Dùng bùi nhùi dài bằng rơm để cháy âm ỉ, hoặc nhấm trấu,
đổ mớ trấu bên cạnh bếp, trên đè bằng một ḥn đất để
cháy âm ỉ, suốt ngày hoặc suốt đêm, lúc cần chỉ việc
thổi lên là lửa cháy. Chính v́ có đống nhấm trấu, mà bếp
luôn luôn ấm, nóng, biểu hiện nhà đó, nơi đó có
người ở, sinh sống. Trái lại khi không thấy khói bếp bốc
lên và tro bếp nguội tanh, lạnh ngắt, phải hiểu nhà đó
vắng người, bỏ hoang và không c̣n sự sống ở đó nữa.
Nếu về mặt khảo cổ khoa học, không biết
được ǵ nhiều nguồn gốc của lửa bếp, trái lại có thể t́m
thấy khá nhiều những thần thoại, cổ tích, phong
tục xưa cũ về nguồn gốc và công dụng của lửa bếp
mà nói chung dân tộc nào cũng có.
Theo Farager, trong nhiều trường hợp câu
chuyện kể (thần thoại, cổ tích) lửa thường được một con
chim hay con vật đánh cắp mang về cho con người. Hoặc
chỉ đàn bà ở nhà mới biết làm ra lửa trong khi đàn ông
đi săn bắn ở xa lại không biết, khi trở về thấy tro hỏi
thăm, nhưng người đàn bà vẫn giấu không nói cho biết.
Kinh nghiệm cọ xát làm ra lửa cũng gắn liền với kinh
nghiệm t́nh ái do đó lửa là biểu hiện của khái niệm sinh
sản. Ở La Mă thời thượng cổ giường cưới được kê sát cạnh
bếp. Sản phụ mới đẻ, ở cữ nằm trên giường dưới có lửa (hơ
nóng bằng than hỏa ḷ như ở thôn quê Việt Nam). Lửa bếp
không những sinh ra sự sống, c̣n ǵn giữ sự sống. Vai
tṛ này được thần linh hóa. Ở ấn Độ, đó là thần Agui
luôn luôn ở cạnh gia đ́nh không bao giờ vắng mặt v́ là "chủ
nhà" để canh giữ gia đ́nh. Ở
Việt Nam đó là ông Táo hay Thần Bếp. Sự tích ông Táo
liên hệ với ba ḥn đất nung để kê nồi niêu mà nấu bếp
gọi là ông đầu rau... Có ba cách nấu nướng: Ở chỗ nào
không có đồ dùng (nồi chảo bằng đất, nung, đồng) phải
dùng những ống
tre, vỏ cây để sát vào lửa, hoặc có đồ nấu, nhưng treo
lên mà nấu như các sắc tộc vùng Bắc Âu, cách thứ ba là
đặt, để đồ nấu trên một dụng cụ ba chân bằng ba cục đất
nặn, hay ba ḥn đá, hay ba que sắt của một cái kiềng gắn
liền vào nhau bằng một ṿng tṛn. Đó là một dụng cụ khá
phổ biến suốt từ vùng Địa Trung Hải, Âu Châu sang Phi
Châu đến Viễn Đông chỉ cần ba chân, không thể là hai v́
không đủ
vững chắc, không cần đến bốn v́ thừa
SỰ TÍCH
ÔNG ĐẦU RAU
Cấu trúc và ư
nghĩa:
Có nhiều chuyện kể
khác nhau về sự tích này, không cót truyện giống nhau.
Không cần xác định chuyện nào là gốc) chính chuyện nào
là cải biến, phụ v́ càng có nhiễu chuyện kể khác nhau
càng làm nổi bật cốt truyện chung cho tất cả, do đó về
phương diện nghiên cứu, càng dễ xác định cái ǵ là
cốt yếu không thay đổi, cái ǵ là tùy thuộc, thay đổi
trong các chuyện kế khác nhau. Để tiện việc tŕnh bày,
chúng tôi gọi những chuyện kể là các thoại của
sự tích. Qua các thoại, chúng tôi rút ra những yếu tố
không thay đối tạo thành cấu trúc của tất cả các thoại
và sau cùng t́m hiểu xem người xưa đă vận dụng kinh
nghiệm tiếp xúc với vật chất (ở đây là với lửa) thế nào
để bày tỏ những ư nghĩ của ḿnh về những giá trị tinh
thần, đạo đức.
Thoại 1
Hai vợ chồng nghèo
làm nghề thuê mướn. Tuy nhà nghèo nhưng rất thương yêu
nhau. Buổi tối thường ngồi bên bếp lửa kể chuyện ca hát
cho nhau nghe... Xảy đến một năm mất mùa gây ra t́nh
trạng đói kém khắp nơi. Hai vợ chồng đi t́m việc làm,
nhưng không ai nhận thuê nữa. Túng bấn quá, phải đi ṃ
cua bắt ốc, đào củ hái rau về ăn đỡ đói. Không thể chịu
đựng được nữa, một hôm chồng bảo vợ: Tôi phải đi nơi xa
kiếm ăn, may ra mới thoát khỏi được t́nh cảnh này. Ḿnh
ở nhà chờ tôi trong ba năm, nếu hết ba năm không thấy
tôi về, ấy là tôi đă bỏ xác nơi quê người, ḿnh cứ đi
lấy chồng khác.
Người vợ khóc lóc
thảm thiết nhhưng đành ḷng để chồng ra đi. Sau đó,
người vợ kiếm được một chỗ làm mướn ở nhà một người tuy
không giàu có nhưng v́ thương cảnh ngộ nàng nên cố ư
giúp đỡ nàng qua khỏi cái khốn khổ. Thời hạn ba năm trôi
qua mau chóng. Người vợ vẫn mong ngóng chồng về. Giữa
lúc ấy, người vợ của chủ nhà chết. Sẵn có cảm t́nh với
nàng, người chủ ngỏ ư muốn nối duyên cùng nàng. Nàng trả
lời:
- Chồng tôi hẹn trong
ba năm trở về. Bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đă chết.
Vậy cho tôi để tang chồng ba năm nữa cho trọn đạo trước
đă.
Ba năm nữa cũng lại
trôi qua, người chồng vẫn biệt tích. Người chủ thúc giục
nhưng nàng c̣n xin nán chờ thêm một năm nữa. Một năm nữa
lại trôi qua và lần này nàng mới tin chồng chết thật.
Nàng làm một bữa rượu cúng chồng, đăi họ hàng rồi đến ở
cùng người chồng mới.
Đột nhiên sau đó ba
tháng, người chồng cũ trở về, làm cho đôi vợ chồng mới
cưới không biết ăn nói làm sao. Nhưng người chồng cũ t́m
tới trấn an họ: "Tôi vắng nhà lâu quá hạn, nàng đă xử sự
rất đúng. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi đây măi măi. Mặc dù
người chồng mới xin trả lại vợ, và người vợ cũ năn nỉ
người chồng cũ ở lại, người chồng cũ v́ không nỡ phá
hạnh phúc của họ, vẫn nhất quyết ra đi. Nhưng thực ra
người chồng cũ trong ḷng đau xót, không c̣n muốn sống,
và đă treo cổ tự tử ở cây đa đầu làng. Cái chết của
người chồng cũ làm cho nàng bàng hoàng ân hận, tự cảm
thấy chính ḿnh là thủ phạm, và tự trách ḿnh không đủ
kiên nhẫn chờ thêm ít lâu nữa. Thế là ngày hôm sau, khi
dân làng đưa đám người chồng cũ chưa xong, th́ mgười vợ
mất tích và người ta đă t́m thấy xác người vợ tự vẫn
dưới ao bên cạnh nhà. Người chồng mới, sau khi làm ma
cho vợ, trở thành người mất trí v́ xúc động ân hận trước
hai cái chết như thể do ḿnh gây ra: "Tại sao lại đi
cướp vợ của người khác". Một hôm, ông ta quyết định đem
hết gia sản chia cho họ hàng, đem cúng nhà chùa rồi uống
thuốc độc tự tử.
Ở bên kia thế giới,
cả ba người đều được đưa tới ṭa án của Diêm Vương để
định công tội. Theo các lời khai, người chồng cũ sở dĩ
chọn cái chết v́ vẫn thương yêu vợ không thể sống không
có nàng, nhưng lại không nỡ phá vỡ hạnh phúc của người
khác, người chồng mới lại nói tuy rất thương mến người
vợ mới, nhưng so với người vợ cũ đă chết th́ mối t́nh
bên mười bên một, c̣n người đàn bà th́ nói vẫn một ḷng
thương yêu người chồng cũ mặc dù nặng t́nh nghĩa với
người chồng mới.
Diêm Vương nghe rất
cảm động và nhận thấy những người như thế này thật hiếm
có nên cần làm thế nào cho bộ ba ấy sống gần nhau măi
măi. Sau một hồi suy nghĩ, Diêm Vương cho ba người hóa
thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi ĺa nhau, và để cho
ngọn lửa luôn luôn đốt nóng t́nh yêu của họ. Đồng thời,
Diêm Vương c̣n phong cho họ chức Táo Quân trông nom từng
bếp một, nghĩa là từng gia đ́nh trên trần thế
Thoại 2
Hai vợ chồng Trọng
Cao và Thị Nhi lấy nhau đă lâu không có con, buồn phiền
thường căi cọ nhau. Một hôm giận quá, Trọng Cao đánh vợ,
Thị Nhi bỏ nhà ra đi gặp Phạm Lang rồi kết duyên với
người đó.
Trọng Cao hết giận,
hối hận cũng bỏ nhà ra đi t́m vợ. T́m măi không thấy,
hết cả tiền ăn đường, phải ăn xin lần hồi.
T́nh cờ một hôm vào
một nhà ăn xin, bà chủ mang cơm ra cho, nhận ra chính là
chồng ḿnh. Đôi bên tỏ hết nỗi niềm cùng nhau, nhưng
chợt Thị Nhi nghĩ nếu bất thần Phạm Lang trở về bắt gặp
th́ thật khó ăn nói. Nàng liền bảo Trọng Cao ra tạm ẩn ở
đằng sau đụn rơm, để nàng thu xếp sao cho mọi việc được
êm thấm. Khi tối Phạm Lang trở về, nhớ đến ngày mai chưa
có tro bón ruộng, châm lửa đốt đống rơm để lấy tro...
Trọng Cao v́ đi nhiều mỏi mệt ngủ say nên bị đốt chết.
Thị Nhi cũng đă ngủ, khi thấy đống rơm cháy, chạy ra th́
đă muộn, xúc động, thương tiếc quá, nàng nhảy vào đống
rơm chết theo người chồng cũ Phạm Lang thấy vợ chết,
thương xót cũng nhảy vào đống rơm chết nốt.
Thượng Đế thấy ba
người đều có nghĩa nên mới phong cho làm Táo quan, mỗi
người giữ một việc.
Phạm Lang là thổ công
trông nom việc trong bếp. Trọng Cao là thổ địa trông coi
việc trong nhà.
Thị Nhi là . . .
Thoại 3
Hai vợ chồng nghèo,
chồng đi buôn, vợ làm ruộng nên chồng thường xa nhà
thỉnh thoảng mới về, đôi khi đi suốt năm mới về.
Rồi một chuyến đi
biền biệt không tin tức, không tiền bạc gởi về
Người vợ chờ cả 10 năm vần biệt tích. Sau đó người vợ
lấy một người chồng khác làm nghề săn bắn; người này
nuôi một đầy tớ tên là Lốc.
Một hôm chồng mới và
Lốc đi săn vắng nhà, đột nhiên người chồng cũ trở về và
cho biết sở dĩ đi biền biệt là v́ gặp giặc bất lưu lạc
trong rừng nay mới trốn thoát về được Người vợ chỉ c̣n
biết ôm chồng cũ khóc than, và dọn cơm rượu mời ăn. Khi
chồng mới sắp về người vợ đưa chồng cũ ra đống rơm ẩn
tạm. Chủ và tớ đi săn về được một con cầy. Chồng giục vợ
đi sắm mọi thứ để làm một bữa chén.
Trong khi người đàn
bà đi vắng, người chồng và đầy tớ đốt đống rơm để thui
cầy. Lửa vô t́nh đốt cháy thiêu người chồng cũ đang ngủ
say. Giữa lúc đó, người vợ về thấy thế, rất đau đớn, tự
cảm thấy như thể v́ ḿnh mà chồng cũ chết, nên nhảy vào
đống lửa chết theo.
Người chồng mới
thương tiếc vợ, cũng đâm đầu vào lừa. Người đầy tớ vừa
thương chủ vừa hối hận v́ chính tay ḿnh châm lửa thiêu
chết người cũng nhảy nốt vào lửa chết theo.
Ba vợ chồng sau đó
được Diêm Vương cho hóa làm ba ông đầu rau. C̣n người
đày tớ được hóa làm đồ dùng chặn đống nhấm, quen gọi là
"thằng Lốc". Trong tranh vẽ Táo quân, thường thấy vẽ
người đầy tớ có nghĩa đứng cạnh ba người
Phân Tích
Cấu Trúc Sự Tích
Nói chung, sự tích
thường có cấu trúc gồm một số yếu tố chính không thay
đổi: Hoàn cảnh mở đầu, một chuyện chẳng lành, không may
hay tai họa xảy ra, phải ra đi, phân ly, thử thách, trở
về. Sự tích không kết thúc sau một đợt thử thách mà
thường trải qua hai ba đợt thử thách. Trở về lại gặp khó
khăn, một điều không may mới, trầm trọng hơn thử thách
khác, cố gắng vượt qua... Cuối cùng, bao giờ cũng có sự
can thiệp của nhân vật thứ ba (ân nhân, thần linh) mới
làm cho việc sum họp trọn vẹn...
Những yếu tố cấu tạo
sự tích có thể xếp thành những cặp phạm trù đối lập nhị
hạng: Tai họa - diệt tai họa; ước hẹn - lỗi hẹn; ra đi -
trở về; phân ly - sum họp; thử thách - đáp ứng; thiếu
sót - đền bù đầy đủ (ân nhân thần linh).
Những yếu tố cấu tạo
kể trên không thay đổi, nhưng cách thể hiện chúng như
t́nh cảnh cụ thể của các nhân vật: Chức vụ, nghề nghiệp,
do, cách thức ra đi, ai ra đi là những yếu tố tùy thuộc,
có thể thay đổi.
Yếu tố cấu tạo chính
hay chức năng cơ bản, nói theo Propp, có tính chất bắt
buộc trong mọi loại chuyện cồ tích là một biến cố chẳng
lành, một tai họa xảy ra.
Trong Thoại 1, có
nhân vật phụ là người vợ người chủ, không tham gia ǵ
vào sự tích, chỉ xuất hiện như một cái cớ để người chồng
dễ tái giá một cách hợp đạo lư. Trong Thoại 3, nhân vật
đày tớ có tham gia vào sự tích nhưng chẳng qua chi để
phụ họa thêm, đề cao ḷng chung thủy chung t́nh là chủ
đề của sự tích (chung thủy giữa vợ chồng, chung thủy
giữa chủ và tớ). Trong khuôn khổ chủ đề chung thủy,
chung t́nh, sự tích đặc biệt qua Thoại 1 c̣n đề cao sự
tự hiến, hi sinh hạnh phúc riêng v́ hạnh phúc của người
khác. Bài học đạo đức rút ra là: Hi sinh không phải mất
hết, mà chính là mất để được hết, v́ bao giờ những kẻ hi
sinh cũng được đền bù, thưởng công xứng đáng...
Những ư tưởng trên,
ai nghe, ai đọc sự tích đều dễ dàng nhận ra, cũng như
nghe một người nói, có thể hiểu và nhớ được ư nghĩa lời
nói qua những câu nói. Cái ǵ làm cho ta hiểu, nhớ và
thuật lại được câu chuyện đă nghe kể, đó là một trật tự
lư luận thuộc ngữ pháp. Cũng vậy, sự tích bao hàm một
trật tự luân lư tạo thành một cấu trúc gồm những yếu tố
không thay đổi và những yếu tố phụ thuộc thay đổi.
Điều cốt yếu là phải có một sự kiện chẳng lành, không
may xảy ra, c̣n sự kiện không may, chẳng lành đó là ǵ,
mang h́nh thức nào, diễn ra như thế nào không quan trọng,
được tự do sáng tác, thay đổi tùy tiện. Đó là lư do giải
thích tại sao sự tích thường có nhiều loại khác nhau.
Phân tích cấu trúc là tŕnh bày trật tự luân lư bao hàm
trong các thoại khác nhau của sự tích.
Nhưng phân tích cấu
trúc chưa cho thấy mối liên hệ giữa sự tích về t́nh
nghĩa vợ chồng và lửa bếp. Thực ra không phải chỉ t́nh
nghĩa vợ chồng mà cả t́nh yêu nói chung trong kinh
nghiệm sống của nhiều dân tộc đều liên hệ với kinh
nghiệm về lửa như những từ ngừ, h́nh ảnh, ẩn dụ kiểu nói:
mối t́nh nồng nhiệt nhiệt t́nh, nóng ḷng chờ đợi, ḷng
bốc cháy t́nh yêu, nguội t́nh... thường được sử dụng để
diễn tả những biểu lộ của t́nh yêu. Trong Thoại không
khí lửa bếp soi sáng sưởi ấm gắn liền với không khí vợ
chồng thân mật ấm cúng. Sau khi được đoàn tụ, cả ba
người được trao nhiệm vụ coi lửa bếp, để lửa luôn luôn
đốt nóng t́nh yêu của họ...
Trong Thoại 2, lửa
thiêu đốt rơm làm tro bón ruộng, nướng chín động vật và
sau cùng thiêu đốt cả những người yêu nhau mà đâm vào
lửa chết. . .
Lửa thiêu đốt củi,
rơm, trấu... để soi sáng, sưởi ấm, làm chín... phục vụ
con người. Sau khi thiêu đốt phục vụ cũng bị tiêu diệt,
tan biến đi. Thời gian tồn tại của lửa cháy đôi khi rất
vắn vỏi, như ánh chớp của sét, chỉ lóe lên soi sáng
trong khoảnh khắc rồi tan biến ngay trong đêm tối...
H́nh ảnh tự tan biến
đi sau khi đă phục vụ là h́nh ảnh cao đẹp nhất của lửa
cháy v́ cho mà không giữ lại ǵ hay được đáp lại ǵ cả.
Hoàn toàn vô vị lợi, v́ người khác. Người xưa đă mượn
h́nh ảnh cao đẹp trên của lửa cháy để bày tỏ thái độ hi
sinh quên ḿnh của những người sẵn ḷng chết v́ yêu
thương người khác.
Chú thích:
(l) Năm 1928 các nhà cổ sinh vật học t́m thấy ở vùng gần
Bắc Kinh những sọ người cùng với một số đồ dùng thô kệch
và tro có thể do nấu nướng mà ra trong các hang động.
Trên cơ sở đó mà nêu giả thuyết con người bắt đầu biết
dùng lửa để làm chín đồ ăn vào thời kỳ con người Bắc
Kinh (Xem André Le roi - Gouhan. L' Homme ét la mat́ere,
trang 65)
NGUYỄN VĂN TRUNG
Nguồn: bạn đọc góp bài
|