Nùng Trí Cao
Ngày xưa, dưới triều Lư
Thái Tông (1028-1057) trong bộ tộc Thái ở vùng biên giới thượng du miền Bắc, có
Nùng Tôn Phúc, tù trưởng châu Đằng Gio ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, nổi lên
chiếm các hạt chung quanh, tự xưng là Hoàng Đế Trường Sanh (1039), không chịu
thần phục nhà Lư. Vua Lư Thái Tông phái quân đi dẹp, bắt được Nùng Tôn Phúc và
con trai là Nùng Trí Tông cùng năm tùy tướng giải về kinh đô Thăng Long trị tội.
Vợ Nùng Tôn Phúc cùng con trai là Nùng Trí Cao chạy thoát được, đến lẩn tránh ở
một nhà người cậu của Trí Cao. Tục truyền rằng một hôm Trí Cao đang chăn ngựa
trên núi, bỗng thấy một vầng mây đen chở một con rồng đến phủ lên một con ngựa
cái trong bầy ngựa đang ăn cỏ. Đến khi ngựa con do rồng phủ sinh ra, Trí Cao bắt
cỡi, thấy nó sức lực phi thường, vượt núi như bay. Được con thần mă, Trí Cao bèn
nối chí cha, liên kết các châu thượng du lại, tự xưng là Hoàng Đế Đại Lịch. Bị
quân triều đ́nh đánh bại, không nỡ diệt tuyệt họ Nùng, tha cho Trí Cao về, và
phủ dụ bổ cho làm tri châu cai quản ba châu Quảng Uyên, Thượng Lang và Hà Lang,
cùng phong cho chức Thái Bảo.
Song mồi quyền quư, danh vọng của triều Lư ban không làm thỏa măn hoài băo to
tát của chàng tuổi trẻ họ Nùng, nên đến năm 1052, Trí Cao lại nổi lên hùng cứ,
tự xưng là Hoàng Đế Đại Nam. Quan quân triều đ́nh phái đi không dẹp nổi. Nùng
Trí Cao nuôi chí lớn mở mang bờ cơi, muốn thực hiện mộng chiếm cứ các tỉnh lân
cận của Trung Quốc. Để lôi cuốn binh sĩ theo ḿnh, chàng đốt hết doanh trại, bảo
là lương thực cháy sạch, muốn sống th́ phải đi chiếm lấy tỉnh Quảng Tây. Nùng
Trí Cao cầm đầu năm ngàn người xuôi theo sông Bằng Giang và Quảng Tây, lần lượt
chiếm các châu Ung, châu Hoanh, thủ phủ của Nam Ninh ngày nay. Trên đường chiến
đấu, đạo quân của Nùng Trí Cao được tăng cường lớn lao, quân số lên tới một trăm
ngàn.
Người ta kể lại rằng Trí Cao có các tướng tá tinh thông pháp thuật và chiến lược,
như một vị sư tăng có phép hóa rồng khạc lửa xuống bên địch, hai nữ tướng là
Đoàn Hồng Ngọc, con gái của tướng Đoàn Hồng Y, và Hoàng Lan Anh, bạn của Hồng
Ngọc, có tài phép phi thường. Hai nàng đều có nhan sắc rực rỡ, quyến rũ bao
nhiêu tướng trẻ của đối phương phải say mê, đem ḿnh đến nạp dưới chân. Cả hai
lại có phép thần thông, gọi gió, kêu mưa, đổi sông, dời núi, văi đậu thành binh.
Triều đ́nh nhà Lư muốn liên minh với Nùng Trí Cao, gởi giúp một đạo quân to lớn
do tướng Vũ Nhi cầm đầu, để phối hợp tiến đánh Trung Quốc, thế mạnh như vũ băo.
Sau khi chiếm trọn tám châu Hoanh, Quí, Đang, Ngô, Khang, Đoàn, Cung và Tâm ở
tỉnh Quảng Tây, liên quân Nùng-Việt sửa soạn tiến đánh luôn Quảng Đông. Các
tướng Tàu là Du Tĩnh, Dương Điền và Tôn Hiến đều đại bại, Nùng Trí Cao gởi giấy
đ̣i vua nhà Tống phong cho ḿnh cai quản những châu đă chiếm được, bằng không
th́ sẽ cử quân tiến đánh Trung Quốc. Vua Tống đă toan nhượng bộ th́ có tướng
Địch Thanh đứng ra xin đi chinh phạt kẻ xâm lăng. Tống Địch Thanh được cử làm
nguyên soái thống lănh ba mươi vạn quân, gồm cả đại quân của các tướng Tôn Hiến
và Du Tĩnh. Viên Tổng Đốc Quảng Tây mang tám ngàn quân nghênh chiến Nùng Trí Cao
ở cửa ải Côn Lôn, bị đánh thua chạy về. Nguyên soái Tống Địch Thanh xuống lệnh
chém đầu viên tướng bại trận để nêu gương cho quân sĩ.
Nùng Trí Cao vẫn áp dụng chiến thuận rồng phun lửa của vị sư tăng cùng tà thuật
của hai nữ tướng để chống lại đại quân nhà Tống ở Côn Lôn. Thấy khó bề chiến
thắng đối phương, nếu không có phép mầu đối phó lại, Tống Địch Thanh phải nhờ
đến một người đàn bà Trung Hoa có tà thuật là Đà Long Nữ. Đà Long Nữ có một cặp
gọng kềm lợi hại có phép hóa thành đông rồng lửa thiêu cháy đối phương.
Khi rồng của vị sư tăng phóng ra đối địch với cặp rồng lửa của quân Tống, th́
khói lửa phun ra quày ngược trở lại đốt cháy cả quân Trí Cao. Thấy thế, Trí Cao
liền cho hai nữ tướng hóa phép để dập tắt ngọn lửa đốt rồng bên ḿnh. Đôi bên
đánh nhau bất phân thắng bại.
Tống Địch Thanh bèn nghĩ ra diệu kế để phá phép thần thông của hai nữ tướng đối
phương. Từ trước đến nay, hai nữ tướng đă dùng nhan sắc kiều mị của ḿnh để
chiến thắng các tướng tài trẻ tuổi, Địch Thanh mới áp dụng ngay chiến thuật
chiếm t́nh cảm để chiến thắng, cho hai con là Địch Long và Địch Hổ cầm quân ra
trận. Hai con vị nguyên súy nhà Tống diện mạo tuấn tú, trẻ đẹp, đem lời dịu ngọt
ra tán tỉnh hai nữ tướng đối phương, ngỏ lời muốn ḥa hiếu giữa đôi bên để kết
duyên đôi lứa, và đề nghị chấm dứt ngay cuộc xung đột. Trong phút chốc, chiến
trường biến thành nơi trao đổi t́nh ái. Thiên anh hùng ca rực rỡ của Nùng Trí
Cao đành phải nghẹn lời từ đây.
Tống Địch Thanh thấy đối phương đă bị mắc mưu của ḿnh, liền thừa cơ xua quân
tiến đánh. Nùng Trí Cao đại bại, lui quân về đến Long Châu th́ bị quân Tống đuổi
theo vây bắt được. Thấy chủ tướng bị chém đầu ngay giữa trận tiền, cả quân sĩ vỡ
tan mà chạy. Nùng Trí Cao hai tay ôm lấy đầu, cỡi con thần mă phóngn như bay về
đến quê nhà là Sốc Giang để gặp mẹ già. Đến nơi, Trí Cao liền hỏi mẹ để hỏi: "Mé
ơi, cây chuối bị chặt mất ngọn vẫn sống, người ta bị chặt đầu rồi có c̣n sống
được không"? Bà mẹ là Hoàng A Nùng không nh́n con, đáp rằng: "Cây chuối bị chặt
mất ngọn vẫn sống, nhưng người ta bị chặt mấy đầu rồi th́ làm sao mà c̣n sống
được"! Trí Cao quẳng đầu ḿnh xuống dưới chân mẹ mà than: "Mé đă nói những lời
làm chết con mất rồi"! Trí Cao quay lại bảo em là Nùng Trí Viễn, dặn chôn xác
ḿnh ở chân ngọn núi và trồng lau chung quanh mộ, rồi đốt hương luôn ngày đêm
giữ cho đừng tắt, đợi cho đến khi lau mọc cao oằn cong tới đất, bấy giờ sẽ mở
ngôi mộ ra, th́ thấy một đạo quân với chủ tướng là Nùng Trí Cao sống lại, sẵn
sàng gươm giáo, cung tên để tiến đánh quân nhà Tống mà chiếm lại đất nước.
Nùng Trí Viễn nóng ḷng muốn thấy ngày giải phóng đến sớm, mới cố ư tự tay uốn
cong những cây lau cho chóng cong oằn xuống đất. Khi đầu những ngọn lau chấm đến
đất, Trí Viễn bèn họp những người trong gia đ́nh lại, bảo là đă đến lúc cải
táng, rồi làm lễ cúng để khai phần mộ lên. Người ta thấy dưới đáy huyệt có cả
một đạo quân đang sửa soạn hàng ngũ, song giờ chưa đến, c̣n phải ba hôm nữa mới
đúng kỳ hạn, binh sĩ này mới có thể vùng lên đi đánh được. Thế là dự định hồi
sinh của Nùng Trí Cao thất bại.
Sau đó, dân trong vùng thường thấy Nùng Trí Cao hiện ra, cỡi con thần mă bay
trên mây, bèn dựng một ngôi đền thờ ngày này hăy c̣n tại Sốc Giang, quê hương vị
anh hùng xứ Thái. Dân hạt lân cận cũng thấy Trí Cao ứng hiện, nên cũng xây một
đền thờ trên ngọn núi Kỳ Sâm, ở núi phía bắc tỉnh thành Cao Bằng. Hằng năm, đến
ngày mồng mười tháng giêng, dân chúng ở quanh vùng lũ lượt trèo lên ngọn núi hai
sừng Kỳ Sâm, mang lễ vật đến đền thờ họ Nùng. Người ta giết trâu, ḅ, heo, dê,
cùng nhiều súc vật khác để cúng tế rất trọng thể. Dân chúng phải khó nhọc leo
núi viếng đền, nên một hôm có người đại diện đứng ra khấn xin Nùng Trí Cao chỉ
định cho một nơi khác để thờ phụng. Tức th́ một trận gió lớn nổi lên bật tung
mái tranh đền, thổi lên một g̣ cao gần làng Bản Ngôn. Người ta cho rằng đó là ư
muốn của vị thần họ Nùng biểu hiện nên dân chúng họp nhau dựng lên một ngôi đền
thờ mới ở giữa thắng cảnh này, đến ngày nay vẫn c̣n.
Đến đời Trần, thể theo nguyện vọng của dân chúng, triều đ́nh phong cho Nùng Trí
Cao chức Kỳ Sâm Đại Vương. Tượng chiến sĩ họ Nùng được dựng lên ở miền biên giới
Việt-Hoa, quanh năm hương khói, tay cầm gươm tuốt trần, ngồi trên con thần mă,
như sẵn sàng chống lại người phương bắc muốn ḍm ngó phương nam.